Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Một số điểm mới trong Quy định 69-QĐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm (phần 1-2)

Ngày phát hành: 26/07/2022 Lượt xem 799

Toàn cảnh Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, triển khai Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XIII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Ảnh tư liệu: Phương Hoa/TTXVN

 

Đây là Quy định về kỷ luật của Đảng lớn nhất, hoàn thiện nhất từ trước đến nay; nội dung Quy định được hệ thống tương đối toàn diện, đầy đủ, cụ thể và bao quát các phương diện trong đời sống xã hội. Các vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên được đặt thống nhất trong một quy định để xác định cụ thể các hành vi và chế tài xử lý làm căn cứ để kỷ luật.

Các điểm mới trong Quy định này tập trung ở 3 nội dung: Quy định các hành vi mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn và dự báo về các vi phạm trong thời gian tới; điều chỉnh tăng nặng hoặc giảm nhẹ chế tài đối với vi phạm được quy định trước đây; xác định rõ động cơ, mục đích, hậu quả của vi phạm làm căn cứ áp dụng chế tài phù hợp và đồng bộ với quy định mới của Đảng và pháp luật với mục đích để tổ chức đảng, đảng viên không muốn vi phạm và không dám vi phạm kỷ luật của Đảng. Một số điểm mới trong Quy định 69-QĐ/TW:

 

Phần I - Sự cần thiết ban hành Quy định 69-QĐ/TW

Tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng

Quy định mới ban hành thể hiện tinh thần Kết luận 21-KL/TW thể hiện quyết tâm nhất quán của Đảng trong việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ; tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tha hóa quyền lực đã xảy ra trong một bộ phận tổ chức đảng, đảng viên.

Tên gọi của Quy định 69-QĐ/TW được điều chỉnh ngắn gọn, đi thẳng vào nội dung công tác kỷ luật của Đảng, vừa đảm bảo nội dung toàn diện, bao quát, vừa đảm bảo nguyên tắc kỷ luật một tổ chức đảng phải xem xét rõ trách nhiệm của tổ chức, đồng thời xác định trách nhiệm của từng cá nhân và ngược lại khi kỷ luật đảng viên phải kiểm điểm, xem xét, xử lý trách nhiệm của tổ chức đảng quản lý đảng viên vi phạm và dễ tra cứu, dễ thực hiện.

Quy định gồm 4 Chương, 58 Điều (Chương I: Quy định chung; Chương II: Kỷ luật tổ chức đảng; Chương III: Kỷ luật đảng viên vi phạm; Chương IV: Điều khoản thi hành), trong đó có một số nội dung mới như sau:

Trong Quy định 69-QĐ/TW, Điều 1 quy định về phạm vi, đối tượng điều chỉnh đã bổ sung nội dung: “áp dụng đối với tổ chức đảng (gồm cả tổ chức đảng đã hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể, thay đổi do chuyển giao, chia tách, sáp nhập) và đảng viên (gồm cả đảng viên bị tuyên bố mất tích, đảng viên đã qua đời nhưng có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng)” để phù hợp, thống nhất với điều 1, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.

Tại Điều 2 về nguyên tắc xử lý kỷ luật, quy định bổ sung nguyên tắc về việc bảo vệ đảng viên thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo theo Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị và thống nhất, đồng bộ với Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 09/12/2021 của Ban Bí thư về hướng dẫn thực hiện một số nội dung Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng “Đảng viên thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo được cấp có thẩm quyền cho phép theo quy định của Trung ương, mà không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý; nếu đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn xử lý kỷ luật hoặc giảm nhẹ trách nhiệm”.

Đảm bảo đồng bộ, nhất quán với quy định của Đảng và pháp luật

Về thời hiệu xử lý kỷ luật quy định tại Điều 4, đã thống nhất dùng cụm từ “hành vi vi phạm” đối với tổ chức đảng, đảng viên theo đúng quy định của pháp luật và Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, cũng sử dụng cụm từ “hành vi vi phạm”. Quy định cách tính “Thời hiệu xử lý kỷ luật là thời hạn được quy định trong Quy định này mà khi hết thời hạn đó thì tổ chức đảng, đảng viên vi phạm không bị xử lý kỷ luật" và "Thời hiệu xử lý kỷ luật được tính từ thời điểm xảy ra hành vi vi phạm đến khi tổ chức đảng có thẩm quyền kết luận vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật” để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng.

Tại Điều 5, Quy định 69-QĐ/TW đã bổ sung một số nội dung quy định về tình tiết giảm nhẹ đối với đảng viên: Chủ động báo cáo vi phạm của mình với tổ chức đảng, tự giác nhận trách nhiệm cá nhân về khuyết điểm, vi phạm và tự nhận hình thức kỷ luật tương xứng với nội dung, tính chất, mức độ vi phạm trước và trong quá trình kiểm tra, giám sát; chủ động chấm dứt hành vi vi phạm, tích cực tham gia ngăn chặn hành vi vi phạm; tự giác nộp tài sản tham nhũng, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do mình gây ra; vi phạm khi thực hiện chủ trương hoặc thí điểm đổi mới, sáng tạo được cấp có thẩm quyền cho phép theo quy định.

Quy định này đảm bảo đồng bộ, nhất quán với Quy định xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; cán bộ dám nhận ra sai lầm, khuyết điểm để chủ động sửa chữa, khắc phục vi phạm, hậu quả theo tinh thần Kết luận số 14-KL/TW của Bộ Chính trị.

Về tình tiết tăng nặng (Điều 6), bổ sung quy định về tình tiết tăng nặng đối với vi phạm của tổ chức đảng: “Biết mà không ngăn chặn hoặc để cán bộ, đảng viên thuộc tổ chức mình trực tiếp quản lý xảy ra tham nhũng, tiêu cực, lãng phí gây hậu quả nghiêm trọng. Bổ sung quy định về tình tiết tăng nặng đối với vi phạm của đảng viên: "Gây thiệt hại, thất thoát tiền, tài sản của Nhà nước nhưng không tự giác nộp lại tài sản do vi phạm mà có". Việc bổ sung nội dung trên để thống nhất với quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tăng cường tính răn đe, giáo dục, quản lý đảng viên của tổ chức đảng và trách nhiệm của đảng viên trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Quy định cũng sửa đổi, bổ sung một số từ, cụm từ, biên tập lại một số nội dung để tránh trùng lặp và phù hợp với các quy định mới của Đảng. Một số nội dung sẽ được đưa vào Hướng dẫn cụ thể trong Quy định của Ủy ban Kiểm tra Trung ương để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng.

 

PHẦN II: Quy định về kỷ luật tổ chức đảng

Các điểm mới tập trung ở 3 nội dung chính, đó là xây dựng quy định mới; tăng nặng hoặc giảm nhẹ chế tài đối với hành vi; thêm hoặc bớt động cơ, mục đích, hậu quả của hành vi vi phạm, để phù hợp, đồng bộ với quy định của Trung ương.

 

Chống lợi ích nhóm trong xây dựng cơ chế, chính sách

Theo đó, tại Điều 9: Vi phạm trong việc ban hành, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bổ sung quy định tại điểm a, d, Khoản 2, kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với hành vi: Không thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chỉ đạo, ban hành thể chế, cơ chế, chính sách có nội dung trái với nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cài cắm "lợi ích nhóm", "lợi ích cục bộ".

Quy định này nhằm chống việc lợi ích nhóm trong công tác xây dựng cơ chế, chính sách, khắc phục tình trạng không thực hiện đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước như một số vụ việc vi phạm trong thời gian qua. Quy định các hành vi vi phạm trên phải bị xem xét, xử lý kỷ luật là tiếp thu, cập nhật các quy định trong Kết luận Hội nghị Trung ương 4, Khóa XIII và Quy định số 37 về những điều đảng viên không được làm.

Điều 10: Vi phạm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bổ sung các quy định tại: Khoản 1: “Không đề ra giải pháp và tổ chức thực hiện khắc phục vi phạm, khuyết điểm được cấp có thẩm quyền kết luận” và “Không chấp hành các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Khoản 2: "Ban hành văn bản trái quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước". Khoản 3: “Không tổ chức sinh hoạt đảng ba kỳ liên tiếp mà không có lý do chính đáng dẫn đến xảy ra vi phạm gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và “Ban hành nghị quyết chống lại chủ trương, quy định của Đảng, phủ định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”.

Việc bổ sung này nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương của Đảng trong tổ chức, thực hiện chủ trương, quy định của Đảng và cụ thể hóa nội dung Quy định 22-QĐ/TW, ngày 28/7/20221 về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay.

 

Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền

Điều 11: Vi phạm trong công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên, bổ sung quy định tại: Khoản 1: “Xét công nhận đạt chuẩn chức danh, thi nâng ngạch, bậc, khen thưởng đối với cán bộ không đúng quy định”, “Công nhận đảng viên chính thức không đủ tiêu chuẩn, điều kiện; không đúng nguyên tắc, thẩm quyền, quy trình, thủ tục”, “Cho đảng viên chuyển sinh hoạt đảng, cho đảng viên ra khỏi Đảng, xác nhận tuổi Đảng cho đảng viên không đúng quy định”. Khoản 2 kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với hành vi: "e) Bao che, không xử lý hoặc không kiến nghị xử lý đối với đảng viên có hành vi chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, tiêu cực, sử dụng văn bằng, chứng chỉ giả, giấy chứng nhận, giấy xác nhận không hợp pháp".

Đây là hành vi cụ thể hóa nội dung Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; ràng buộc trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, quản lý trực tiếp đảng viên; đồng thời bỏ hành vi cố ý vì đảng viên luôn phải nghiên cứu, quán triệt để thực hiện đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, theo Quy định về những điều đảng viên không được làm.

 

Tăng cường tự kiểm tra, giám sát, không bao che cho sai phạm của đảng viên

Điều 12: Vi phạm quy định về bầu cử, bổ sung nội dung khoản 2, tổ chức đảng bị cảnh cáo nếu: “Buông lỏng lãnh đạo dẫn đến việc để giới thiệu người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào các chức danh lãnh đạo, quản lý” và “Buông lỏng lãnh đạo dẫn đến vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc bầu cử” để gắn trách nhiệm của tổ chức đảng trong kiểm tra, giám sát đảng viên thuộc tổ chức mình quản lý.

Điều 13: Vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước, bổ sung quy định tại Khoản 1, cụ thể là: Buông lỏng việc lãnh đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát, để xẩy ra tình trạng mua sắm, quản lý, sử dụng tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước, nhận, cho, tặng, mượn tiền, tài sản của tổ chức, cá nhân không đúng quy định. Để tổ chức và cá nhân đi học tập, tham quan, du lịch, chữa bệnh ở trong nước và nước ngoài bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân có liên quan đến ngành, lĩnh vực mà cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ theo dõi, quản lý không đúng quy định hoặc ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ. Khoản 2: "d) Ban hành văn bản về quản lý, sử dụng ngân sách, tài chính, tài sản trái quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước".

Điều 14 quy định về vi phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tiếp thu ý kiến góp ý của nhân dân; việc giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, đã bổ sung Điểm d, Khoản 1: "d) Không kiến nghị các vấn đề bức xúc đã được phản ánh gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích, đời sống của người dân", cập nhật nội dung Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm, cụ thể hóa hành vi thờ ơ, vô cảm.

Điều 15 quy định vi phạm các quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, đã bổ sung quy định tại Khoản 1: b) Cung cấp hoặc chỉ đạo cung cấp thông tin, tài liệu chưa được phép công bố; g) Không xử lý hoặc không kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên có khuyết điểm, vi phạm. Việc bổ sung này nhằm thống nhất với quy định của Luật Thanh tra, Luật Kiểm toán nhà nước, chế tài xử lý trách nhiệm của tổ chức đảng, chống các hành vi bao che cho sai phạm của đảng viên.

 

Khuyến khích tố giác hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí

Điều 16: Vi phạm các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đã bổ sung quy định tại Khoản 2, kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo đối với hành vi: "a) Che giấu, báo cáo không đầy đủ, không trung thực các thông tin liên quan đến giải quyết tố cáo, khiếu nại của tổ chức đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền", để thống nhất theo quy định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; ngăn chặn các hành vi đối phó, che dấu, không trung thực trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng chế tài xử lý kỷ luật từ khiển trách sang cảnh cáo đối với hành vi vi phạm tại Khoản 1: Vi phạm các quy định về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo: "c) Không thực hiện hoặc không chỉ đạo thực hiện việc bảo vệ người tố cáo hoặc không xử lý kỷ luật các trường hợp vi phạm về khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền”. Nhằm khuyến khích, động viên đảng viên, công dân tố cáo, tố giác những hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đối với tổ chức đảng, đảng viên trong xã hội, Quy định nhằm tăng tính răn đe theo Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 10/01/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Điều 17: Vi phạm quy định phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, bổ sung nội dung về phòng, chống “tiêu cực” vào cả 3 khoản của điều này để thống nhất với tên gọi quy định của Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Điều 19: Vi phạm quy định về phòng, chống tội phạm, bổ sung nội dung khoản 1: “Chỉ đạo thực hiện không đúng quy định về xét ân xá, đặc xá, thi hành án, tha tù trước thời hạn”; khoản 2: “Chỉ đạo cấp dưới, cán bộ trực tiếp điều tra, kiểm sát, xét xử, xét ân xá, đặc xá, tha tù trước thời hạn không đúng quy định”. Việc bổ sung các nội dung này nhằm quy định đầy đủ để xử lý các vi phạm trong hoạt động tư pháp đã được Ủy ban kiểm tra Trung ương phát hiện, xử lý trong thời gian qua, thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật.

 

Phù hợp, đồng bộ với các quy định mới của Đảng và pháp luật

Điều 21: Vi phạm quy định về kinh tế, tài chính, ngân hàng, bổ sung nội dung tại khoản 1: “Chỉ đạo thực hiện sản xuất, kinh doanh bạc, đá quý, tiền, ngoại tệ trái quy định”; tại khoản 2: “Cho chủ trương hoặc chỉ đạo góp vốn trái quy định; chỉ đạo thực hiện thoái vốn doanh nghiệp nhà nước không đúng quy định làm thiệt hại tài chính, tài sản của Đảng, Nhà nước” và “Buông lỏng lãnh đạo để xảy ra lập tài khoản kế toán trái quy định”. Việc bổ sung này nhằm đồng bộ, thống nhất với quy định của Luật Tài chính – ngân hàng, Luật Kiểm toán nhà nước.

Điều 22: Vi phạm quy định về tài nguyên, đất đai và nhà ở, bổ sung quy định tại Khoản 1: “a) Ban hành nghị quyết, chỉ thị, quy định về tài nguyên, đất đai và nhà ở trái chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước”, để phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn các vi phạm xảy ra trong quản lý tài nguyên, đất đai.

Điều 23: Vi phạm các quy định về giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội, bổ sung thêm trách nhiệm của tổ chức đảng trong lãnh đạo, quản lý về lĩnh vực y tế thành: Vi phạm các quy định về lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội cho đồng bộ với Điều 43: Vi phạm trong lĩnh vực y tế đối với đảng viên.

Điều 24: Vi phạm quy định về an sinh xã hội và chính sách đối với người có công, bổ sung quy định tại khoản 1: “Thờ ơ vô cảm, trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện dẫn đến cấp dưới trực tiếp kê khai sai hoặc khai khống để hưởng lợi từ chính sách an sinh xã hội”; tại khoản 2: “Hoạt động câu kết lợi ích nhóm nhằm trục lợi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp” và “Thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, thanh tra việc phòng, chống dịch bệnh, khắc phục thảm hoạ”.

(Còn tiếp)

 

Lê Nguyễn Nam Ninh (Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương) Theo TTXVN

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết