Để góp phần tìm hiểu những nội dung cốt lõi trong trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Bài viết này sẽ phân tích những nội dung mới, cốt lõi về chủ đề: Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài viết gồm 2 phần: 1. Cơ sở lý luận về thể chế kinh tế thị trường; 2. Những nội dung cốt lõi trong dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Cơ sở lý luận về thể chế kinh tế thị trường
1.1 Theo nhà kinh tế học Douglass North, thể chế bao gồm những ràng buộc phi chính thức (điều được thừa nhận hay cấm đoán theo phong tục, tập quán, truyền thống và đạo lý), những quy tắc chính thức (hiến pháp, pháp luật) và hiệu lực thực thi chúng[1]. Thể chế bao hàm 3 khía cạnh quan trọng nhất: (1) luật chơi (các quy định); (2) người chơi (các chủ thể) bao gồm nhà nước, doanh nghiệp và người dân; (3) cách chơi (mức độ tuân thủ các quy định, mức độ phối hợp với nhau, mức độ hợp tác với nhau).
Ba khía cạnh này được xem xét trong trạng thái động, trong đó có tính đến tương tác giữa các khía cạnh này. Đây là điểm then chốt giúp khắc phục được điểm yếu lớn của những cuộc thảo luận chính sách lớn hiện nay về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại, đó là tập trung nhấn mạnh vào khía cạnh đầu là hoàn thiện luật lệ, quy định mà không chú ý hai khía cạnh sau là các chủ thể tham gia và hành vi, sự phối hợp của các chủ thể. Điều này dẫn đến một hiện tượng được một số chuyên gia gọi là “cấy ghép thể chế” (institutional transplant), tức là áp dụng luật lệ, quy định của các nước tiên tiến – được coi là có hình mẫu tốt nhất về thể chế - vào thực tiễn các nước đang phát triển. Trong nhiều trường hợp sự cấy ghép thể chế này thất bại do các nền kinh tế khác nhau có sự khác biệt đáng kể về “cơ địa” (điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù), trong đó có sự khác biệt về cơ cấu người chơi và cách chơi[2]. Nếu bỏ qua các khía cạnh về chủ thể và sự phối hợp giữa các chủ thể trong phân tích thể chế thì sẽ không thể hiểu được nhiều quốc gia, chính sách không hiệu quả vẫn tồn tại, chính sách hiệu quả lại không được chọn hoặc nếu được chọn lại chủ yếu chỉ nằm trên giấy mà không được thực thi hiệu quả trong thực tiễn. Trong nhiều trường hợp, thể chế phi chính thống (tức là các thể chế trái ngược với các nguyên tắc mà các lý thuyết về thể chế đưa ra) lại tạo ra kết quả tích cực trong khi các thể chế tốt nhất lại thất bại.
Liên quan đến luật chơi, một điều cần chú ý là cần ưu tiên hoàn thiện những quy định có liên quan trực tiếp đến giải quyết những điểm nghẽn của tăng trưởng và phát triển. Luận điểm về ưu tiên xử lý điểm nghẽn dựa trên thực tế là không khả thi khi thực hiện đồng thời một lúc các cuộc cải cách thể chế. Trong khi đó, thực hiện cải cách cục bộ vào những lĩnh vực không phải điểm nghẽn có thể lại tác động tiêu cực đến phát triển. Do vậy, một số chuyên gia đã đề xuất cách tiếp cận gọi là “chẩn đoán tăng trưởng” để xác định ra điểm nghẽn, làm cơ sở cho việc xây dựng ưu tiên trong cải cách thể chế[3].
Liên quan đến các chủ thể, ngay bên trong một quốc gia cũng có sự thay đổi theo thời gian về số lượng và cơ cấu.
Liên quan đến sự phối hợp giữa các chủ thể thực tiễn cho thấy sự phối hợp khác nhau cũng dẫn đến kết quả khác nhau. Việc áp dụng lý thuyết trò chơi vào các lĩnh vực nghiên cứu thể chế giúp chỉ ra ba điều kiện liên quan đến cách chơi (hành vi và sự phối hợp của các chủ thể) có thể giúp nâng cao hiệu lực của thể chế, qua đó giúp thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và công bằng, đó là: (1) thực hiện cam kết một cách nhất quán; (2) phối hợp chặt chẽ; (3) hợp tác ở mức cao giữa những chủ thể, đây là ba điều kiện trọng yếu để tạo dựng và duy trì lòng tin và sự tin cậy lẫn nhau trong những người chơi[4] là yếu tố then chốt nhất quyết định đến mối tương tác giữa các thể chế với tăng trưởng và phát triển.
Trên cơ sở đó, vai trò của nhà nước cũng phải thay đổi, bên cạnh hai chức năng chính là xử lý các thất bại của thị trường (độc quyền và ngoại tác…) và bảo đảm công bằng xã hội theo cách tiếp cận truyền thống, thì nhà nước còn phải đóng vai trò tích cực hơn trong việc nâng cao và củng cố lòng tin bằng việc tuân thủ các cam kết, thúc đẩy phối hợp và hợp tác giữa các chủ thể trên thị trường để tạo ra những kết quả tốt nhất về tăng trưởng và phát triển.
1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa là mô hình kinh tế thị trường phổ quát, vừa có tính đặc thù riêng, cụ thể.
Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là mô hình tự thân mang tính tất yếu khách quan, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Quá trình xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là sự vận động có chủ đích và định hướng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự “tiến hoá tự giác” theo hướng tạo lập, khác biệt với việc phát triển kinh tế thị trường như thường thấy là sự “tiến hoá tự nhiên” theo hướng tự do và tự phát[5].
Thứ hai, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vì con người, lấy con người là trung tâm của sự phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Định hướng xã hôi chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam được thể hiện qua các mặt:
- Định hướng xã hội chủ nghĩa trong mục tiêu phát triển: Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đạt tới một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân;
- Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phương thức phát triển: Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng của sự phát triển.
- Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường…. giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người; hoàn thiện chế độ phân phối chủ yêu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội;
- Định hướng xã hội chủ nghĩa trong quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng[6].
Thứ ba, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, đáp ứng những chuẩn mực của nền kinh tế thị trường toàn cầu. Tiến trình hội nhập quốc tế theo chiều rộng và chiều sâu đã đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành một bộ phận hữu cơ, không thể tách biệt của nền kinh tế thị trường toàn cầu, trở thành một chủ thể trong sân chơi toàn cầu và phải tuân thủ những luật chơi toàn cầu.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường để đảm bảo hiệu quả kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường bền vững. Cần sử dụng nhà nước như một thực thể điều tiết vĩ mô, phục vụ, kiến tạo và quản lý phát triển nhằm thúc đẩy phát triển cũng như khắc phục các “thất bại của thị trường”, đặc biệt là những thất bại trong theo đuổi các mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước phải đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi chiến lược phát triển bền vững và phân phối lại, song không được làm triệt tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần xác định vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội không phải là tranh chấp với thị trường, mà là kiến tạo thị trường qua việc xây dựng hạ tầng kinh tế, kỹ thuật “cứng” và hạ tầng kinh tế, kĩ thuật “mềm” cho nền kinh tế, làm cho thị trường hoạt động tốt hơn. Chính vì vậy, thước đo tốt nhất để đánh giá việc Nhà nước thực hiện tốt vai trò của mình đối với nền kinh tế là mức độ lành mạnh của thị trường.
2. Một số nội dung mới về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trong Văn kiện Đại hội XIII
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được bắt đầu ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, tuy nhiên, đây là vấn đề rường cột trong nội dung đổi mới và rất phức tạp, đòi hỏi sự đổi mới trong nhiều lĩnh vực. Vì vậy, trong nhiều nhiệm kỳ đại hội vấn đề này luôn được coi là một nội dung trọng tâm, cần phải được quán triệt cả về nhận thức và hành động. Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới, đã đưa ra đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trên cơ sở củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác, khẳng định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII của Đảng tiếp tục khẳng định “ Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương” phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời văn kiện Đại hội VIII cũng nhấn mạnh đến một số yếu tố cụ thể như đổi mới kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác xã, thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.v.v… Đại hội IX của Đảng xác định” nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội X của Đảng nêu rõ mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là để thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội XI của Đảng xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Văn kiện Đại hội cũng chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vừa theo quy luật thị trường vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đại hội XII trong phương hướng, mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và làm rõ và đầy đủ hơn nội hàm của nó.
Kế thừa và phát triển nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua các đại hội Đảng từ khi đổi mới đến nay, Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII nêu rõ “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với các yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Việc sản xuất, cung ứng nhiều loại hàng hoá, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp công thực hiện theo cơ chế giá thị trường; dỡ bỏ nhiều rào cản tham gia thị trường, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Phong trào khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động; kinh tế nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới, phát triển khá nhanh; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh có hiệu quả, trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”
Tuy nhiên, dự thảo văn kiện Đại hội XIII khẳng định: Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ. Luật pháp, cơ chế, chính sách còn những quy định không thống nhất, môi trường đầu tư kinh doanh chưa được thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo.
Vì vậy, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm tới cần tập trung vào:
2.1 Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo chính trị nêu rõ nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu” dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội”.
Như vậy, điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII ở nội dung này thể hiện là ngay từ đầu Văn kiện đã nêu rõ nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta và trên cơ sở đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất cách hiểu và thực hiện.
Kinh tế nhà nước được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng điều tiết dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là điểm đặc trưng khác biệt, tiến bộ của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khẳng định là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế và được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Đồng thời, Văn kiện lần này cũng nêu rõ mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm mới nổi bật chính là trong quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội. Trong đó cũng nêu rõ vai trò của nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nội dung xã hội được hiện ở chỗ các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
2.2. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn.
Điểm mới nổi bật ở đây thể hiện việc xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường nói chung nhưng tập trung vào những tháo gỡ những điểm nghẽn, những vấn đề quan trọng đang cản trở sự phát triển kinh tế thị trường của nước ta. Cụ thể, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường vừa qua đã xác định một trong những cản trở chính là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện, chồng chéo, ảnh hưởng đến phát triển nói chung. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới ra đời cần phải có môi trường pháp lý đảm bảo cho sự phát triển. Vì vậy, văn kiên nêu rõ:” Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số phát triển kinh tế số, hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp các ngành”.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực ra nội dung này đã được nêu trong các Văn kiện Đại hội trước. Tuy nhiên, điểm mới ở đây là khẳng định thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Trong những năm vừa qua, cơ chế thị trường của chúng ta còn lúng túng, nhất là xác định giá cả đối với các dịch vụ, nhất là dịch vụ công. Lần này, Văn kiện xác định cần nhất quán thực hiện giá thị trường, phân biệt rõ phúc lợi, ưu đãi hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tiếp tục nhấn mạnh phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ và sử sung các nguồn lực. Cụ thể phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển đồng bộ thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm…trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển và quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản; thị trường sử dụng đất. Phát triển thị trường lao động, cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường. Xử lý tốt những bất cập của cơ chế thị trường, bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội, quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường sinh thái.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nhiệm vụ trọng tâm là đẩy nhanh việc xử lý nợ xấu, thoái vốn, cổ phần hóa cơ cấu lại doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại. Đồng thời, kiểm tra giám sát chặt chẽ không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế chính sách để thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, coi kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam lớn mạnh, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường, cải thiện thu nhập, điều kiên làm việc của người lao động, và tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện các trách nhiệm xã hội. Nâng cao hiệu quả các dự án đối tác công tư trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Ưu tiên những dự án đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao, sẵn sang chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Như vậy, Văn kiện Đại hội XIII đề cập nội dung này rất chú ý đến thể chế, tư việc hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các điểm nghẽn, các rào cản của kinh tế thị trường như thể chế xây dựng và hoàn thiện pháp luật, thể chế hình thành thị trường các yếu tố thị trường, các loại thị trường, thể chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp.
2.3 Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Văn kiện thể hiện rõ nội hàm ở chỗ: Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối chiến lược phát triển kinh tế của đất nước; phát triển kinh tế Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác đông tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường bồi dưỡng đào tạo cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.
Trong những năm vừa qua Việt Nam đã hội nhập hết sức sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện vào loại cao nhất của thế giới với tỷ trọng xuất nhập khẩu trên GDP là hơn 200%. Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hiệp định đa phương thế hệ mới, cụ thể Việt Nam đã tham gia hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên thái bình dương( CPTPP), hiệp định FTA với liên minh châu Âu (EU), hiệp định đối tác khu vực toàn diện (RCEP) và mới đây là hiệp định FTA với Vương Quốc Anh. Để tham gia vào các hiệp định này Việt nam đã có những hoàn thiện căn bản hệ thống pháp luật theo yêu cầu, chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Thực tiễn 35 năm đổi mới đã khẳng định mở cửa, hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được. Đồng thời, chính mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo ra áp lực để chúng ta cải cách thành công. Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua các cuộc khủng hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy để hội nhập thành công phải có nội lực mạnh, đồng thời, phải đa phương hóa, đa dạng hóa các đối tác, các thị trường để tránh những rủi ro và lệ thuộc. Kinh nghiệm thu hút đầu tư nước ngoài cũng cho thấy cần phải nhận thức sâu sắc hiệu quả của thu hút đầu tư, nhất là giai đoạn hiện nay, phải đảm bảo thu hút được công nghệ cao, công nghệ sạch và làm tốt việc chuyển giao công nghệ cũng như gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài.
Tóm lại, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung cốt lõi, được triển khai thực hiện xuyên suốt trong quá trình đổi mới kinh tế của nước ta. Qua các kỳ đại hội Đảng nội dung kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện hơn cả về nhận thức và thực hiện. Đại hội XIII của Đảng trong các văn kiện như Báo cáo chính trị; Tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021-2025 đều có nội dung quan trọng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cả phần đánh giá và phương phướng. Nhìn chung, văn kiện Đại hội Đảng lần này về đánh giá đều khẳng định nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện hơn, đã chỉ rõ nội hàm và những nội dung trong tâm cần tiếp tục thực hiện để bảo đảm có nền kinh tế thị trường hiện đại, đồng bộ, hội nhập quốc tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp bối cảnh mới hiện nay của nước ta.
GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn
Phó Chủ tịch HĐLLTƯ
[1] Nguyễn Quang Thuấn (2017), Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 6(469), tháng 6/2017
[2] Một ví dụ về thất bại của việc cấy ghép thể chế là trường hợp của Mông Cổ. Việc chính phủ Mông cổ quyết định áp dụng thông lệ quốc tế tốt nhất để quản lý các khoản thu tài chính từ nguồn từ khai thác tài nguyên thiên nhiên phụ vụ mục tiêu phát triển của mình bị thất bại dẫn đến Mông Cổ có thể rơi vào “lời nguyền tài nguyên” (các quốc gia có nhiều tài nguyên lại có tăng trưởng chậm, do luồng ngoại tệ lớn thu được từ xuất khẩu tài nguyên thúc đẩy giá trị đồng tiền nội tệ lên cao, làm bóp nghẹt nhiều ngành có tiềm năng xuất khẩu quan trọng, đặc biệt nông nghiệp và công nghiệp chế tạo). Trong khi đó, Chi Lê cũng áp dụng thể chế này thì đạt được mục tiêu của mình là duy trì được tăng trưởng, tránh được lời “nguyền tài nguyên”. (Nguồn: Ngân hàng thế giới (2017), Governance and Law.
[3] Hausmann and Valasco, 2005, Growth Diagnostic, John F Kennedy School of Goverment, Harvard University, Masschusetts.
[4] Kể cả trong kinh doanh, nếu hai bên tin cậy lẫn nhau do có quan hệ làm ăn hợp tác lâu năm nên không cần đến những hợp đồng hay thủ tục phức tạp để ràng buộc nhau trong các giao dịch cũng giúp giảm đáng kể chi phí giao dịch mà không cần cải thiện luật chơi. Ngược lại, nếu không có lòng tin sẽ cần luật chơi rất phức tạp, dẫn đến chi phí giao dịch ra tăng, làm thu hẹp các hoạt động kinh tế gây ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng.
[5] Ban chỉ đạo Tổng kết 30 năm đổi mới, Báo cáo tổng quan về Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tháng 3/2014.
[6] Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội