Đặt vấn đề
Trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với việc phát triển kinh tế, thì giải quyết các vấn đề xã hội, an sinh xã hội là một trong những nội dung quan trọng nhằm đảm bảo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong đó, việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách cho người khuyết tật (NKT) là một trong những nội dung quan trọng trong công tác trợ giúp người khuyết tật ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng, là một trong những yếu tố căn bản đảm bảo thực hiện quyền người khuyết tật theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật (CRPD). Đây là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo nhằm giúp người khuyết tật phát huy hết khả năng của mình; tạo điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội.
I. Chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật ở Việt Nam
1. Tổng quan chung về người khuyết tật ở Việt Nam
Theo Báo cáo điều tra quốc gia về NKT năm 2016, ở nước ta có khoảng 7,06% dân số là NKT từ 2 tuổi trở lên. Số lượng NKT hiện nay là khoảng 6,2 triệu người. Trong đó, số lượng NKT sống ở khu vực đô thị cao hơn 1,5 lần so với khu vực nông thôn[1]. Số lượng NKT có xu hướng gia tăng bởi vì nhiều lý do khác nhau như già hóa dân số, tai nạn giao thông, ô nhiễm môi trường, di chứng chiến tranh… Theo Báo cáo “hộ gia đình có NKT có khả năng nghèo gấp 2 lần so với hộ gia đình không có NKT”[2]. Có khoảng 17,8% NKT từ 2 tuổi trở lên đang sống trong hộ gia đình nghèo đa chiều[3]. NKT vẫn phải đối mặt với rất nhiều thách thức, rào cản trong việc tiếp cận và tham gia vào đời sống xã hội, khả năng hòa nhập của người khuyết tật nói chung, đặc biệt là ở khu vực nông thôn rất khó khăn. Khuyết tật không chỉ ảnh hưởng đến NKT mà còn ảnh hưởng đến gia đình của họ bởi vì gia đình có NKT thường phải chi trả chi phí cho NKT như chi phí điều trị y tế, chăm sóc, giáo dục chuyên biệt và các chi phí khác.
NKT thường khó khăn trong việc tiếp cận hệ thống chăm sóc y tế, giáo dục đào tạo do còn tồn tại nhiều rảo cản, ví dụ như sự không đảm bảo việc tiếp cận các cơ sở y tế hoặc hệ thống giao thông, hoặc do thiếu các bác sĩ chuyên ngành điều trị cho NKT[4]. Tương tự như vậy, NKT cũng gặp khó khăn trong việc tham gia học tập do môi trường giáo dục chưa đảm bảo tiếp cận như thiếu ngôn ngữ ký hiệu, công nghệ hỗ trợ (phần mềm đọc) hoặc thang máy.
2. Thực trạng chính sách trợ giúp người khuyết tật
Hệ thống chính sách, pháp luật về trợ giúp người khuyết tật ở Việt Nam tương đối đầy đủ và đồng bộ, đặc biệt từ khi Việt Nam ký gia nhập CRPD từ năm 2007 và phê chuẩn Công ước này năm 2014 mà không áp dụng bất kỳ điều khoản bảo lưu nào, cụ thể:
- Hiến pháp năm 2013 và Luật Người khuyết tật đã có những quy định bảo vệ quyền của NKT và bảo đảm NKT không bị kỳ thị và phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Khoản 2 Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Kỳ thị và phân biệt đối xử đối với NKT là hành vi bị nghiêm cấm (Khoản 1 Điều 14 Luật Người khuyết tật).
- Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông qua ngày 17/6/2010, “quy định quyền và nghĩa vụ của NKT; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội” (Điều 1). Luật Người khuyết tật là văn bản pháp lý quan trọng đã có những bước tiến đột phá so với Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Đặc biệt là sự thay đổi các chính sách và pháp luật từ cách tiếp cận là “từ thiện, nhân đạo” sang cách tiếp cận dựa trên quyền con người, điều này phản ảnh được tinh thần và nội dung quy định của CRPD. Các văn bản pháp luật quy định cụ thể về từng lĩnh vực như y tế, giáo dục, xây dựng, lao động, công nghệ thông tin phải phù hợp với những quy định của Luật Người khuyết tật để đảm bảo quyền của NKT của từng lĩnh vực cụ thể trong đời sống hàng ngày.
Luật Giáo dục quy định trường, lớp dành riêng cho người khuyết tật, chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý trường dành riêng cho người khuyết tật và chính sách học bổng, trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật có khó khăn về kinh tế.
Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, quy định chính sách hỗ trợ người khuyết tật học nghề (Điều 6); chính sách đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật (Điều 27); chính sách nội trú đối với người khuyết tật là người dân tộc thiểu số, người khuyết tật là người kinh có hộ khẩu thường trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và người khuyết tật là học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú khi học trình độ trung cấp, cao đẳng (Điều 62).
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2009 (Khoản 4 Điều 4) và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2013 (Khoản 3 Điều 1) quy định đối tượng (thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp và hoạt động dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật) được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Luật An toàn, Xây dựng, Vệ sinh lao động năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Thanh niên năm 2005, Luật Thể dục, Thể thao năm 2006 có các quy định chuyên ngành về đào tạo nghề đối với người khuyết tật.
Thực hiện Luật Người khuyết tật, Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan đã ban hành 6 Nghị định và 21 Thông tư và chính quyền địa phương cũng ban hành các quyết định để triển khai thi hành Luật Người khuyết tật. Khung pháp luật hiện hành về NKT được chia thành hai nhóm: (1) các quy định trực tiếp về các vấn đề của NKT bao gồm Luật Người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn thi hành; và (2) các văn bản pháp luật quy định về quyền của NKT trong từng lĩnh vực cụ thể, ví dụ như Bộ Luật Dân sự; Bộ Luật Lao động; Bộ Luật Hình sự; Bộ Luật Tố Tụng Hình sự; Luật Trẻ em; Luật Giáo dục; Luật Giáo dục nghề nghiệp; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật Xây dựng; và Luật Giao thông đường bộ...
Ngoài ra, Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ cũng ban hành các Nghị định và Thông tư để hướng dẫn thi hành Luật Người khuyết tật. Các văn bản pháp luật này quy định khung pháp lý để hỗ trợ NKT tiếp cận y tế, văn hóa, giáo dục, việc làm và hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế trong quá trình thi hành các văn bản pháp luật này.
Để đảm bảo thi hành Luật Người khuyết tật, Việt Nam đã thành lập Ủy ban quốc gia về NKT vào năm 2015. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1100/QĐ-TTg ngày 21 tháng 6 năm 2016 để phê duyệt kế hoạch thực thi Công ước về NKT ở Việt Nam. Kết quả là, Ủy ban về NKT đã được thành lập ở các địa phương để đảm bảo thi hành công ước về quyền của NKT ở địa phương. Ngoài ra, Dự án hỗ trợ NKT đã được xây dựng ở cả cấp trung ương và địa phương. Ngày 10/5/2017, Thủ tướng đã ban hành “Kế hoạch hành động quốc gia để thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững”, bao gồm các chỉ số về khả năng tiếp cận và hội nhập xã hội của NKT.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ đã ban hành đồng bộ quy định cụ thể chính sách hỗ trợ về trợ giúp người khuyết tật và hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật thông qua việc đào tạo nghề, tạo việc làm với các chính sách cụ thể:
- Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”; Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28/9/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 03 tháng. Người khuyết tật được hỗ trợ chi phí đào tạo trình độ sơ cấp, đào tại dưới 03 tháng với mức tối đa là 06 triệu đồng/người/khóa học (sửa tại QĐ 971/QĐ-TTg). Các đối tượng khác được hỗ trợ tối đa 03 triệu đồng (người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người bị thu hồi đất canh tác; 2,5 triệu đồng (người thuộc hộ cận nghèo) và 2 triệu đồng đối với các đối tượng khác. Người khuyết tật và các đối tượng (người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, người bị thu hồi đất canh tác) được hỗ trợ tiền ăn với mức 30.000 đồng/người/ngày thực học và tiền đi lại với mức 200.000 đồng/người/khóa học, nếu địa điểm đào tạo ở xa nơi cư trú từ 15km trở lên.
- Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020, đặt mục tiêu: Đào tạo nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật trong độ tuổi lao động còn khả năng lao động được học nghề và tạo việc làm phù hợp giai đoạn 2012-2015 là 250 ngàn người và giai đoạn 2016-2020 là 300 ngàn người, với 5 nhóm hoạt động về đào tạo nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật; mức hỗ trợ cao hơn (gấp 2 lần) và quy định nguồn kinh phí đảm bảo để thực hiện chính sách.
- Quyết định số 53/2015/QĐ-TTg ngày 20/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định về chính sách nội trú đối với học sinh, sinh viên học cao đẳng, trung cấp trong đó có hỗ trợ cho người khuyết tật về học bổng chính sách và các khoản hỗ trợ khác để tạo điều kiện cho người khuyết tật tham gia học nghề trình độ trung cấp, cao đẳng.
- Quyết định số 1100/QĐ-TTg ngày 21/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của người khuyết tật.
Các Bộ Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo đã ban hành đồng bộ các Thông tư hướng dẫn việc thực hiện các chính sách đối với người khuyết tật.
II. Thực trạng việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật trên một số lĩnh vực cụ thể
1. Về giáo dục
Thực hiện Luật Người khuyết tật và các văn bản hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo dục hòa nhập đối với người khuyết tật được quan tâm thực hiện, các chương trình giáo dục hòa nhập các cấp được xây dựng, ban hành, tạo điều kiện cho NKT đặc biệt là trẻ khuyết tật có cơ hội tiếp cận giáo dục. Đến nay Việt Nam đã hình thành hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập cấp tỉnh ở trên 20 tỉnh thành phố; đã có 107 cơ sở giáo dục chuyên biệt và 12 trung tâm giáo dục trẻ em khuyết tật và triển khai giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp học phổ thông[5]. Số trẻ khuyết tật được đi học ở Việt Nam đã tăng gấp 10 lần trong 2 thập kỷ qua. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp tiểu học của trẻ khuyết tật khoảng 88,7%, trung học phổ thông là 33,6[6].
Hiện nay cả nước có 4 trường Đại học sư phạm và 3 trường Cao đẳng Sư phạm thành lập khoa Giáo dục đặc biệt và mở các mã ngành đào tạo giáo viên dạy trẻ khuyết tật và hàng năm, các trường này đào tạo được gần 600 giáo viên dạy trẻ khuyết tật. Hàng năm tập huấn giáo dục hòa nhập cho 600 - 700 cán bộ quản lý và từ 2.000 - 2.500 giáo viên mầm non, trung học cơ sở, trung học phổ thông cốt cán của 63 tỉnh/thành phố về nghiệp vụ giáo dục hòa nhập cho học sinh khuyết tật để những người này tiến hành tập huấn, hướng dẫn cho giáo viên tại các địa phương về giáo dục hòa nhập, tiếp tục phát triển mạng lưới giáo viên dạy trẻ khuyết tật trong cả nước.
Mặc dù Luật Người khuyết tật quy định về giáo dục hòa nhập và xác định đó là mô hình giáo dục chính cho NKT, tuy nhiên cũng còn có những rào cản nhất định trong thực tế làm ảnh hưởng tới quyền học tập của người khuyết tật như nhiều cơ sở giáo dục không có phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu cho người khiếm thính, chữ nổi cho người khiếm thị hay hệ thống cơ sở vật chất tiếp cận cho người khuyết tật như lối đi, nhà vệ sinh mà người sử dụng xe lăn có thể sử dụng được. Ðặc biệt là ở khu vực nông thôn, khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Bên cạnh đó, số trẻ khuyết tật ở những khu vực này thường ở trong các hộ gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số do đó sự tham gia giáo dục càng khó khăn hơn. Theo báo cáo điều tra đánh giá về hỗ trợ đối với người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, cứ 100 trường học, chỉ có 3 trường có thiết kế phù hợp (2,9%), 8 trường có lối đi dành cho NKT (8,1%) và 10 trường có công trình vệ sinh phù hợp với trẻ khuyết tật (9,9%)[7]. Hầu hết các trường chưa thực hiện các điều chỉnh hợp lý về cơ sở vật chất do thiếu nguồn kinh phí, cũng như thiếu sự kiểm tra, giám sát và biện pháp chế tài; cứ 7 giáo viên tiểu học và trung học cơ sở thì mới có 1 người được đào tạo để giảng dạy cho học sinh khuyết tật (14,1%); thiếu tài liệu và thiết bị hỗ trợ là một trong những rào cản lớn nhất ðối với NKT trong giáo dục hòa nhập. Ðặc biệt là hiện nay sách giáo khoa của chương trình giáo dục phổ thông đang được chỉnh sửa, bổ sung do đó NKT còn thiếu học liệu. Hơn nữa, chi phí cho việc phát hành các tài liệu, học liệu (ví dụ như chữ nổi) rất cao do đó đây cũng là một trong các thách thức của đảm bảo tiếp cận về tài liệu, và chương trình đào tạo cho NKT. Chương trình giáo dục hòa nhập yêu cầu các trường phải có kế hoạch cá nhân để miễn giảm một số môn cho NKT nhưng hiện nay mới chỉ có chương trình giáo dục chuyên biệt cho học sinh tiểu học, chưa có cho hệ phổ thông. Những rào cản này cho thấy quyền học tập của NKT được quy định tại Điều 27, 29 và 30 của Luật Người khuyết tật chưa được bảo đảm thực hiện hiệu quả.
2 Về chăm sóc y tế và phục hồi chức năng
Bộ Y tế đã ban hành các văn bản hướng dẫn phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng và hướng dẫn phát hiện, can thiệp sớm trẻ em khuyết tật. Giai đoạn 2012-2015 đã đưa các hoạt động phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng vào Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Đồng thời, đã triển khai dự án phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng cho nạn nhân nhiễm chất độc hóa học (da cam/dioxin).
Các văn bản quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý và chăm sóc sức khoẻ người khuyết tật tại cộng đồng của Trạm y tế xã bao gồm trách nhiệm chăm sóc sức khoẻ cho người khuyết tật của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng. Trạm y tế xã phải lập danh sách NKT và phân loại theo các nhóm khuyết tật (vận động, nghe nói, nhìn, thiểu năng trí tuệ, tâm thần, động kinh, mất cảm giác, tàn tật khác). Trạm y tế xã có trách nhiệm cung cấp các thông tin như tiếp cận dịch vụ phục hồi chức năng, địa điểm, loại hình phục hồi chức, mức độ và kết quả, các dụng cụ hỗ trợ, và cập nhật sự thay đổi về thông tin (chỗ ở, mức độ khuyết tật, loại hình phục hồi chức năng, v.v). Các trạm y tế xã có trách nhiệm phân công cán bộ theo dõi và chăm sóc sức khỏe người khuyết tật; có sổ theo dõi người khuyết tật; hằng năm người khuyết tật được thăm khám định kỳ một năm/lần.
Hiện nay cả nước có 63 Bệnh viện PHCN/Trung tâm PHCN, trong đó có 01 bệnh viện phục hồi chức năng tuyến trung ương và 62 Bệnh viện PHCN/Trung tâm PHCN thuộc tuyến tỉnh/thành phố; 100% bệnh viện đa khoa tuyến trung ương và tuyến tỉnh có khoa PHCN (80 khoa PHCN). 90% khoa Y học cổ truyền-Phục hồi chức năng ở tuyến huyện. Có khoảng 25% số xã có thực hiện dịch vụ PHCN tại xã. Các trạm y tế xã chỉ làm công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu, quản lý sức khỏe người khuyết tật và phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng (PHCNDVCĐ). Ngoài ra có đội ngũ y tế thôn bản và cộng tác viên về PHCN hướng dẫn luyện tập, PHCN cho người khuyết tật tại cộng đồng.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có các tiêu chí đánh giá toàn diện về “tiếp cận” trong dịch vụ chăm sóc y tế cho NKT. Bộ Y tế đã ban hành các tiêu chí đánh giá các bệnh viện của Việt Nam trong đó có bao gồm tiêu chuẩn tiếp cận cho người sử dụng xe lăn. Như vậy, có thể thấy còn có nhiều tiêu chí về tiếp cận khác (như về giao tiếp, ngôn ngữ ký hiệu…) chưa được đưa vào đánh giá các cơ sở chăm sóc y tế, do đó tạo nên các rào cản cho NKT tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Do đó, đánh giá việc tuân thủ Luật Người khuyết tật liên quan đến các dạng khuyết tật khác, chẳng hạn như thiếu biển báo bằng chữ nổi Braille và phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu cho các chuyên gia y tế sẽ không là tiêu chí đánh giá, do đó nó tạo ra rào cản trong việc tiếp cận chăm sóc sức khỏe cho NKT.
3. Về đào tạo nghề và việc làm
Hiện nay cả nước có 1.130 cơ sở dạy nghề có tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật, trong đó có 744 cơ sở công lập, 386 cơ sở tư thục. Trong số các cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật có 225 cơ sở dạy nghề chuyên biệt. Tổng số giáo viên tham gia dạy nghề cho người khuyết tật là 3.359 giáo viên.
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn các địa phương hàng năm dành tối thiểu 5% chỉ tiêu hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn từ ngân sách nhà nước để tổ chức dạy nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật. Đến nay, các địa phương đã chủ động xây dựng, rà soát, phê duyệt 4.355 lượt danh mục nghề đào tạo, 3.657 định mức chi phí đào tạo làm căn cứ thực hiện đào tạo cho lao động nông thôn và đào tạo hòa nhập cho người khuyết tật; các địa phương cũng đã lựa chọn, phê duyệt danh mục và định mức chi phí đào tạo cho trên 950 lượt nghề để tổ chức đào tạo chuyên biệt đối với người khuyết tật. Giai đoạn 2012- 2020, bình quân mỗi năm có từ 25.000 - 27.000 người khuyết tật được dạy nghề theo Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn.
Các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức của/vì người khuyết tật ở Trung ương và các địa phương bình quân mỗi năm ước tính cũng dạy nghề và hỗ trợ việc làm cho khoảng 10.000 người khuyết tật, như: Hội Chữ thập đỏ Việt Nam tổ chức dạy nghề cho 1.250 người khuyết tật và trên 80% đã có việc làm sau học nghề; Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam và các thành viên đã tổ chức dạy nghề cho 3.046 người khuyết tật, trong đó đã tạo việc làm cho 2.632 người khuyết tật; Hội người mù đã tổ chức dạy nghề cho trên 8.000 ngàn hội viên với các nghề xoa bóp, bấm huyệt, cơ khí, mộc, điện dân dụng, quản lý 334 cơ sở sản xuất tập trung.
Hằng năm, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã tổ chức hàng trăm lớp bồi dưỡng ở các cấp độ cho giáo viên dạy nghề về kỹ năng giảng dạy theo chương trình khung; kỹ năng giảng dạy theo năng lực thực hiện; công nghệ mới cho giáo viên dạy trình độ cao đẳng, trung cấp và giáo viên các trung tâm giáo dục nghề nghiệp; nâng cao kỹ năng nghề cho giáo viên giáo dục nghề nghiệp; đánh giá dựa trên năng lực thực hiện cho giáo viên giáo dục nghề nghiệp, v.v… trong đó thực hiện việc lồng ghép dạy nghề cho người khuyết tật.
- Hoạt động tư vấn học nghề và việc làm cho người khuyết tật cũng được quan tâm, hiện cả nước có 64 trung tâm dịch vụ việc làm, bình quân mỗi năm các trung tâm đã tư vấn học nghề, giới thiệu việc làm cho khoảng 20.000 lượt người khuyết tật với tỷ lệ thành công đạt trên 50%[8].
- Hằng năm, bằng nguồn ngân sách được bố trí thực hiện đề án Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã triển khai mô hình hỗ trợ sinh kế cho người khuyết tật từ năm 2012-2020 tại 25 tỉnh, thành phố, 138 xã cho 1.320 hộ gia đình có người khuyết tật. Thí điểm một số mô hình dạy nghề gắn với giải quyết việc làm phù hợp cho người khuyết tật ở các tỉnh, thành phố với các nghề phù hợp với người khuyết tật như: xoa bóp, bấm huyệt, may công nghiệp, mây tre đan, chăn nuôi gia súc, trồng nấm, mộc dân dụng. Theo báo cáo của các địa phương đến nay có 21 tỉnh/63 tỉnh có từ 50% số xã/phường trở lên có các mô hình sinh kế người khuyết tật; 30 tỉnh có từ 30% - 50% xã/phường có mô hình sinh kế của người khuyết tật; 14 tỉnh còn lại số xã/phường có mô hình sinh kế của người khuyết tật ở mức thấp hơn, dưới 30%; có 12 tỉnh/thành phố triển khai mô hình phục hồi chức năng lao động cho người khuyết tật, xây dựng cẩm nang ‘Hướng dẫn quy trình phục hồi chức năng lao động và việc làm cho người khuyết tật” góp phần tích cực thúc đẩy thực hiện các mục tiêu về dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật.
Để hỗ trợ người khuyết tật về việc làm, các địa phương đã hỗ trợ người khuyết tật tiếp cận với các nguồn vay vốn ưu đãi, đặc biệt là nguồn vay từ các chương trình cho vay của Ngân hàng chính sách xã hội, trong đó có vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm. Chương trình tín dụng cho vay giải quyết việc làm, trong đó có cho vay ưu đãi đối với người khuyết tật và các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật[9], giai đoạn từ 2012 - 2020, ước tính có khoảng 2.500 lượt người khuyết tật được vay vốn Quỹ quốc gia về việc làm.
- Các chương trình tín dụng đối với người khuyết tật và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sử dụng lao động người khuyết tật của ngân hàng Chính sách xã hội bao gồm: Quỹ quốc gia về việc làm; Dự án “Mở rộng tiếp cận tài chính cho người khuyết tật - Tài trợ quy mô nhỏ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng, phục vụ hoặc do người khuyết tật làm chủ” do Quỹ Nippon của Nhật Bản tài trợ và một số chương trình tín dụng khác. Tính đến tháng hết năm 2020 tổng số khách hàng vay là người khuyết tật là trên 11.000 người. Dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật, người khuyết tật tự phát triển sản xuất đạt 118 tỷ đồng, với 5.838 khách hàng có dư nợ, chiếm tỷ lệ 0,07% trên tổng dư nợ và 0,07% trên tổng số hộ còn dư nợ các chương trình tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội.
Đánh giá chung:
- Trong giai đoạn 2012 - 2020, công tác dạy nghề và hỗ trợ tạo việc làm cho người khuyết tật được các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội và chính quyền các địa phương trong cả nước quan tâm triển khai, hầu hết các địa phương đã ban hành Danh mục nghề đào tạo và định mức chi phí đào tạo nghề cho người khuyết tật; Đa dạng hóa hình thức đào tạo nghề, khuyến khích đào tạo nghề cho người khuyết tật theo hình thức kèm cặp, truyền nghề, tập nghề, hình thức đào tạo vừa học vừa làm.
- Các hoạt động hỗ trợ người khuyết tật tạo việc làm như: hỗ trợ vay vốn ưu đãi, hỗ trợ phát triển sinh kế, tư vấn và giới thiệu việc làm cũng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, tuy nhiên hiệu quả hỗ trợ việc làm còn hạn chế[10], số mô hình sinh kế còn phân tán, quy mô nhỏ lẻ chủ yếu ở giai đoạn thí điểm.
- Công tác huy động người khuyết tật tham gia học nghề còn rất khó khăn do chưa đánh giá được nhu cầu học nghề của người khuyết tật, nghề đào tạo chưa phù hợp với các dạng tật và nhu cầu thị trường lao động, tỷ lệ người khuyết tật sau đào tạo nghề có việc làm thấp; hạ tầng cơ sở dạy nghề, nơi ăn nghỉ, máy móc, thiết bị dạy nghề chưa đảm bảo điều kiện học tập của người khuyết tật; đội ngũ giáo viên dạy nghề và tư vấn việc làm cho người khuyết tật còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng.
- Các quy định, thủ tục về tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật còn phức tạp để triển khai dạy nghề cho người khuyết tật do đó chưa khuyến khích được sự tham gia của các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất kinh doanh.
- Việc tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi của người khuyết tật còn rất khó khăn, do các chương trình cho vay ưu đãi của ngân hàng chính sách xã hội thực hiện cho vay ủy thác qua các tổ chức hội, đoàn thể nhưng chưa thực hiện ủy thác cho Hội người khuyết tật vì vậy người khuyết tật mất đi cơ hội được bảo lãnh qua hội người khuyết tật; việc vay vốn từ chương trình giải quyết việc làm đòi hỏi phải có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, phải đảm bảo tạo việc làm mới.
- Về chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp sử dụng lao động khuyết tật: Điều 34 Luật Người khuyết tật quy định về chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp có tuyển dụng ít nhất 30% NKT vào làm việc, bao gồm các hỗ trợ cải tạo điều kiện, môi trường làm việc phù hợp cho NKT, được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm tiền thuê đất... Tuy nhiên, định mức 30% lao động khuyết tật là không phù hợp với các mô hình vừa và nhỏ và mô hình kinh doanh hộ gia đình. Do đó, định mức và các chính sách của Chính phủ khuyến khích tuyển dụng NKT là không hiệu quả. Vai trò của khu vực tư nhân trong phát triển và duy trì việc làm cho NKT cũng không được phát huy.
Điều 158 Bộ Luật Lao động năm 2019 cũng quy định: “Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của người lao động là người khuyết tật; có chính sách khuyến khích, ưu đãi phù hợp đối với người sử dụng lao động trong tạo việc làm và nhận người lao động là người khuyết tật vào làm việc theo quy định của pháp luật về người khuyết tật”.
4. Về hỗ trợ tiếp cận giao thông, xây dựng
Luật Người khuyết tật quy định cụ thể về việc bảo đảm các tiêu chuẩn tối thiểu nhằm đảm bảo sự tiếp cận của NKT đối với công trình và giao thông công cộng. Trong lĩnh vực xây dưng mới, Luật quy định tiêu chuẩn tiếp cận tối thiểu cho từng giai đoạn, bao gồm: thiết kế, xây dựng và giám sát thi công và đối với các công trình xây dựng cũ, ví dụ như đối với việc cải tạo công trình. Các công trình xây dựng mới phải đảm bảo tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia về xây dựng để đảm bảo tiếp cận cho NKT như được quy định tại Bộ quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng cho NKT tiếp cận nhà ở và cơ sở vật chất[11].
Ngoài ra, Luật Người khuyết tật cũng đặt ra lộ trình cải tạo nhà chung cư, trụ sở làm việc nhằm đảm bảo điều kiện tiếp cận của NKT. Các công trình xây dựng trước khi Luật Người khuyết tật được ban hành phải đảm bảo điều kiện tiếp cận cho NKT trước ngày 1 tháng 1 năm 2020 và từ ngày 1 tháng 1 năm 2025 tất cả các công trình xây dựng khác phải đáp ứng điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật[12].
Kết quả đã có rất nhiều công trình xây mới, cải tạo đã đảm bảo cho người khuyết tật tiếp cận. Công tác thẩm tra, thẩm định các công trình xây dựng mới trong những nãm gần đây cho thấy 95% công trình nhà chung cư được đánh giá là đảm bảo tiếp cận sử dụng, 80% các công trình giáo dục, y tế, văn hóa, thương mại dịch vụ, văn phòng, trụ sở cơ quan đảm bảo tiêu chuẩn tiếp cận của người khuyết tật và 85% các công trình hạ tầng kỹ thuật đảm bảo tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật.
Bộ Giao thông vận tải đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật trong đó có quy định: miễn giảm giá vé dịch vụ vận tải hành khách công cộng cho người khuyết tật, các tiêu chuẩn kỹ thuật về phương tiện phải đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật về giao thông tiếp cận, hệ thống hạ tầng giao thông (điểm dừng, nhà chờ, nhà ga, cảng hàng không…). Bộ Giao thông vận tải ban hành Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ đã có quy định cụ thể về việc đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cho NKT. Thông tư này xác định NKT được cấp giấy phép lái xe hạng A1 đối với người khuyết tật điều khiển xe mô tô ba bánh dùng cho NKT, cấp giấy phép lái xe Hạng B1 số tự động cho NKT không hành nghề lái xe để điều khiển ô tô dùng cho NKT.
Tuy nhiên, NKT còn gặp nhiều khó khăn, thách thức trong tiếp cận hệ thống giao thông công cộng và các công trình xây dựng như: kinh phí hạn chế dẫn đến việc điều chỉnh các công trình giao thông, xây dựng đảm bảo tiếp cận cho người khuyết tật còn hạn chế. Hiện nay chỉ có khoảng 22,6% số công trình y tế; 20,8% số công trình giáo dục; 13,2% số nhà triển lãm, nhà trưng bày; 11,3% trung tâm hội nghị, trụ sở cơ quan; 5,7% siêu thị; 3,8% nhà thi đấu, bưu điện, nhà ga, cửa khẩu; 7,5% nhà dưỡng lão, câu lạc bộ hưu trí và 2% ngân hàng đảm bảo tiếp cận của người khuyết tật. Tính đến năm 2018, chỉ có 30% trong tổng số 457 nhà ga đảm bảo tiếp cận cho NKT và chỉ có 478 xe buýt công cộng (chiếm khoảng 4,8% phương tiện giao thông công cộng) đã đảm bảo tiếp cận cho NKT, chủ yếu là xe buýt gầm thấp.
5. Về công nghệ, thông tin và truyền thông
Luật Người khuyết tật quy định trách nhiệm “các phương tiện truyền thông phản ánh đời sống vật chật và tinh thần của NKT”[13]. Điều 35.1 (b) của Luật Tiếp cận thông tin (2016) và Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2018 của Chính phủ cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tạo điều kiện cho người khuyết tật và người dân ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi các có điều kiện kinh tế và xã hội cực kỳ khó khăn trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Đài truyền hình Việt Nam chịu trách nhiệm về các chương trình có phụ đề tiếng Việt và ngôn ngữ ký hiệu cho NKT. Hiện nay có năm kênh truyền hình bao gồm VTV1, VTV2, VTV4, Truyền hình Nhân Dân, và O2TV có chương trình truyền hình có phụ đề và ngôn ngữ ký hiệu cho NKT. Kể từ năm 2012, Việt Nam đã có chương trình dạy ngôn ngữ ký hiệu trên vô tuyến do đó NKT có thể sử dụng ngôn ngữ ký hiệu một cách thuận tiện[14]. Hiện nay, có hơn 60% các trang mạng/cổng thông tin của các cơ quan nhà nước đã cung cấp các chức năng cơ bản hỗ trợ NKT tiếp cận và sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông, ví dụ như màn hình đọc cho người khuyết tật nhìn, tăng và giảm cỡ chữ.
Mặc dù, Nhà nước ta đã có các chính sách về tăng cường tiếp cận thông tin, NKT vẫn còn gặp nhiều thách thức, đặc biệt trong việc tiếp cận các chính sách có liên quan trực tiếp đối với họ, ví dụ như chính sách trợ cấp xã hội. Ngoài ra, các tài liệu, sách báo, các chương trình truyền hình chưa đảm bảo NKT có thể tiếp cận thông tin. Điều chỉnh hợp lý đã được thực hiện ở một số lĩnh vực. Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong trợ giúp tiếp cận thông tin. Tuy nhiên, quy định hiện hành và đầu tư chưa đảm bảo được môi trường nơi mà công nghệ có thể đảm bảo được tiếp cận thông tin cho NKT. Bên cạnh đó, pháp luật về sở hữu trí tuệ chỉ cho phép việc chuyển đổi các tài liệu in sang chữ nổi Braille hoặc các ngôn ngữ khác, và không bao gồm các dạng truyền thông, định dạng và phương tiện khác cũng là những rào cản đối với những NKT, ví dụ người mù không đọc được chữ nổi và cần có phần mềm đọc để họ có thể nghe được những tài liệu này.
Như vậy, việc tiếp cận thông tin, truyền thông của người khuyết tật còn hạn chế, tỷ lệ người khuyết tật tiếp cận được với công nghệ thông tin thấp và xu hướng tăng chậm, chưa tương xứng với tốc độ phát triển về thông tin hiện đại của xã hội. Đa số các doanh nghiệp dịch vụ viễn thông chưa quan tâm đến việc cung cấp dịch vụ cho nhóm đối tượng là người khuyết tật do số lượng khách hàng ít và khả năng thu hồi vốn chậm; rất ít đơn vị tổ chức đào tạo công nghệ thông tin cho người khuyết tật vì nguyên nhân nhu cầu thị trường thấp, chi phí cao. Đa số người khuyết tật và gia đình có người khuyết tật có hoàn cảnh kinh tế khó khăn do vậy người khuyết tật thiếu phương tiện, công cụ hỗ trợ tiếp cận với thông tin.
6. Về trợ giúp pháp lý
Hằng năm, đa số các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành Kế hoạch thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành 17 Kế hoạch trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật theo các giai đoạn; ban hành 220 Kế hoạch hàng năm thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật/người khuyết tật có khó khăn tài chính tại địa phương. Các Trung tâm trợ giúp pháp lý trong toàn quốc đã thực hiện trợ giúp pháp lý cho khoảng 28.784 lượt người khuyết tật có khó khăn về tài chính, thông qua các hình thức tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng. Một số Trung tâm đã phối hợp tốt với Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc các cơ sở của người khuyết tật để tổ chức trợ giúp pháp lý tại cơ sở hoặc chuyển gửi yêu cầu trợ giúp pháp lý của người khuyết tật có khó khăn về tài chính.
Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật cho người thực hiện trợ giúp viên pháp lý, kỹ năng làm việc với người khuyết tật, kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý, đặc biệt là kỹ năng trợ giúp pháp lý trong tố tụng cho người khuyết tật. Xây dựng các tài liệu, chuyên đề và tổ chức mỗi năm 02 lớp tập huấn kỹ năng đối với người khuyết tật cho các trợ giúp viên pháp lý nói riêng và người thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung, trung bình 100 học viên/lớp; một số địa phương đã tổ chức tập huấn lại hoặc chủ động mời giảng viên để tập huấn chuyên đề về kỹ năng trợ giúp pháp lý đối với người khuyết tật cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương. Tuy nhiên, các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền của NKT và ứng phó với bạo lực, phân biệt đối xử cũng như các biện pháp xử phạt áp dụng cho các tổ chức/cá nhân mới chỉ được quy định ở các Nghị định trong một số lĩnh vực cụ thể như xây dựng, giáo dục, tuyển dụng v.v.
Mặc dù có những hỗ trợ, nhưng NKT khó tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý vì nhiều lý do, như: do thiếu hiểu biết quy định của pháp luật và thiếu các dịch vụ trợ giúp pháp lý ở vùng nông thôn, miền núi, vùng xa, vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, NKT thường không muốn chia sẻ về vụ việc của mình do e ngại, không tiếp xúc chia sẻ với người khác hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do hạn chế về giao tiếp nên vẫn có người khuyết tật không biết hoặc không sử dụng quyền được trợ giúp pháp lý. Ngoài những thách thức đối với NKT, các tổ chức hoặc nhân viên trợ giúp pháp lý cho NKT thường không hiểu toàn bộ sự việc mà họ đang trao đổi, bao gồm cả việc thu thập bằng chứng và các tường trình từ khách hàng của họ, do dó không thể bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của NKT hoặc bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật.
Một số địa phương, các cấp chính quyền chưa thực sự quan tâm đến công tác trợ giúp pháp lý đặc thù cho người khuyết tật; sự phối hợp giữa Trung tâm trợ giúp pháp lý và các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các cấp chính quyền cơ sở, Hội người khuyết tật, các cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở kinh doanh, các tổ chức khác của người khuyết tật có lúc, có nơi chưa được kịp thời nên việc phát hiện và chuyển gửi nhu cầu trợ giúp pháp lý của người khuyết tật có khó khăn về tài chính còn hạn chế.
Nguồn ngân sách nhà nước bố trí cho công tác trợ giúp pháp lý người khuyết tật chưa đồng đều giữa các địa phương và còn hạn hẹp, chưa huy động được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho hoạt động này.
Hội người khuyết tật, các cơ sở người khuyết tật ở địa phương chưa thật sự chủ động đổi mới phương thức hoạt động, đề xuất, kiến nghị các biện pháp, chính sách hỗ trợ cho hoạt động trợ giúp pháp lý của hội viên nên chưa phát huy tối đa vai trò là cầu nối giữa các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý với người khuyết tật thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Việc trao đổi thông tin giữa người khuyết tật, đặc biệt đối với người khuyết tật nghe, nói cũng là một khó khăn khi thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý. Một số người thực hiện trợ giúp pháp lý chưa có nhiều kỹ năng và kinh nghiệm về giải quyết các vụ việc trợ giúp pháp lý liên quan đến người khuyết tật.
7. Trợ giúp người khuyết tật trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch
- Về văn hóa, giải trí: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp, hướng dẫn, hỗ trợ các tổ chức của người khuyết tật[15] tổ chức hội thi, hội diễn nghệ thuật quần chúng của cho người khuyết tật, thu hút sự tham gia hoạt động sáng tác, tạo điều kiện cho cho người khuyết tật phát triển tài năng về văn hóa, nghệ thuật. Đến nay cả nước đã có 64 đội thông tin tuyên truyền lưu động cấp tỉnh, 577 đội cấp huyện, hằng năm đã tổ chức phục vụ hàng triệu lượt người xem, trong đó có một bộ phận là người khuyết tật, trao tặng 44 xe tô tô thư viện lưu động đa phương tiện cho 44 tỉnh, thành. Mỗi xe có hơn 4.000 cuốn sách, 06 máy vi tính, 01 máy chủ, phần mềm, máy chiếu, ti vi… Trong đó có máy đọc và sách nói cho người khiếm thị, máy phóng to cho người lòa, tài liệu điện tử. Tổ chức 02 chương trình tập huấn về nội dung phục vụ người khuyết tật, người khiếm thị cho cán bộ, nhân viên thư viện được tiếp nhận xe ô tô lưu động. Bên cạnh đó nhiều máy tính, thiết bị đọc sách nói và sách nói, máy lòa được trao tặng cho các em trường học sinh Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội và một số trung tâm người khuyết tật trong cả nước. Phối hợp với Trung ương Hội người mù Việt Nam, Hội khuyến học, Hội văn nghệ trẻ người khuyết tật v.v... cử cán bộ tham gia Ban giám khảo, Ban tổ chức, hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ phát triển tài năng, năng khiếu về nghệ thuật quần chúng, kịp thời động viên, khen thưởng cho các tập thể, cá nhân có tiết mục xuất sắc tham gia trong phong trào hoạt động Hội thi, Hội diễn Nghệ thuật quần chúng người khuyết tật.
Ở địa phương, các hoạt động văn nghệ quần chúng được tổ chức thường xuyên, nhằm tuyên truyền, động viên, khích lệ, hỗ trợ người khuyết tật giảm bớt mặc cảm tự ti để phấn đấu, vươn lên trong cuộc sống. Tổ chức các hội thi văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao các tỉnh, thành trên cả nước; thực hiện miễn giảm giá vé, giá dịch vụ khi người khuyết tật trực tiếp tham gia, sử dụng các dịch vụ vãn hóa, thể thao, giải trí, du lịch tại các cõ sở văn hóa trên địa bàn.
Để đảm bảo cho người khuyết tật tiếp cận các khu du lịch đã đưa vào tiêu chuẩn cấp hạng với một số loại hình cơ sở lưu trú du lịch. Đối với các khu, tuyến, điểm du lịch cũng có quy định về tiêu chuẩn nhà vệ sinh đảm bảo cho người khuyết tật tiếp cận. Người khuyết tật đã được miễn, giảm phí thư viện, phí tham quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; miễn, giảm phí tham quan Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam...
- Về thể dục, thể thao: Đến nay cả nước có 45/63 tỉnh thành có phong trào thể dục thể thao cho người khuyết tật, trong đó 30-35 tỉnh, thành phố thường xuyên hoạt động có nền nếp. Cả nước có 68.470/118.200 thôn có Nhà văn hóa, khu thể thao thôn phục vụ cộng đồng trong đó có phục vụ người khuyết tật. Từ năm 2014, các vận động viên được tập huấn dài hạn, được hưởng chế độ dinh dưỡng cao, được tạo điều kiện tập luyện, tập huấn tốt và đó chính là lý do giúp thể thao người khuyết tật Việt Nam có bước tiến mạnh mẽ, là một trong10 đoàn dẫn đầu ở đại hội thể thao của châu lục, mở ra những cơ hội giành huy chương Paralympic.
Các giải thi đấu Thể thao cho người khuyết tật toàn quốc được tổ chức định kỳ hàng năm và thường xuyên có từ 500-6.000 vận động viên khuyết tật tham gia với 5- 8 môn thi đấu. Ðại hội Thể dục thể thao người khuyết tật được tổ chức đều 04 năm một lần. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đặc biệt quan tâm đến việc cử các đoàn thể thao người khuyết tật tham gia thi đấu các giải thể thao dành cho người khuyết tật trong khu vực và quốc tế như Ðại hội thể thao khuyết tật Ðông Nam Á; Ðại hội Paragames. Nhiều vận động viên là người khuyết tật đã giành được những thành tích đáng kể trên trường thi đấu quốc tế, tăng cường giao lưu, hòa nhập xã hội và đem lại vinh quang cho thể thao người khuyết tật Việt Nam.
Mặc dù công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao của người khuyết tật văn hóa, thể thao người khuyết tật đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các cấp chính quyền, ban ngành, tổ chức quan tâm thực hiện, tuy nhiên kết quả thực hiện còn hạn chế, tỷ lệ người khuyết tật tham gia các hoạt động văn hóa, vãn nghệ, thể dục thể thao rất thấp. Hạ tầng cơ sở thể dục thể thao (sân bãi, trang thiết bị chuyên dụng,…) hầu hết đều chưa có để phục vụ cho người khuyết tật đến tham gia tập luyện; nhiều địa phương còn thiếu hoặc không có có nơi/chỗ cho người khuyết tật tham gia văn hoá, thể thao, đến nay chỉ có khoảng 5-7 tỉnh, thành phố có Câu lạc bộ thể thao cho người khuyết tật và xu hướng không tăng trong những năm qua. Việc tổ chức các hội thi, hội diễn, liên hoan văn hóa, văn nghệ và các giải thi đấu thể thao cho người khuyết tật ở các địa phương rất khó khăn bởi những hạn chế về kinh phí và điều kiện tổ chức, sân bãi.
III. Một số giải pháp
Mặc dù hệ thống pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam tương đối đầy đủ và đồng bộ, tuy nhiên như những kết quả và hạn chế nêu ở trên có thể thấy sự đồng bộ giữa chính sách, pháp luật ở Việt Nam với CRPD cũng còn có những điểm chưa thật sự phù hợp và việc thực hiện pháp luật đối với người khuyết tật ở Việt Nam còn một số hạn chế, do đó, để thúc đẩy việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật ở Việt Nam trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
- Tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu về người khuyết tật (tổng số, tình trạng sức khỏe, dạng tật; số người trong độ tuổi lao động, còn khả năng lao động; số người có nhu cầu về nghề và học nghề của người khuyết tật; số người có nhu cầu làm việc và những công việc phù hợp với nhu cầu và sức khỏe của người khuyết tật, v.v.. ) ở từng địa phương và trong cả nước. Để có cơ sở xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách. Việc theo dõi, thống kê thực hiện đồng thời bằng báo cáo thống kê hành chính và bằng việc xác định các chỉ tiêu để đưa vào thực hiện trong điều tra lao động việc làm hoặc điều tra hộ nghèo hàng năm.
- Tổ chức rà soát các chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật phù hợp với Bộ luật Lao động, Luật Người khuyết tật, Luật Việc làm, Luật Giáo dục nghề nghiệp và Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã phê chuẩn; bổ sung người khuyết tật là đối tượng được vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội với lãi suất như đối với hộ nghèo.
- Nghiên cứu, sửa đổi các tiêu chuẩn trong xây dựng và giao thông công cộng tiếp cận cho người khuyết tật, cần quy định trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ không chỉ ở khu vực nhà nước mà cả trong khu vực tư nhân đối với lĩnh vực giao thông và xây dựng. Các khái niệm về “điều chỉnh hợp lí” và “thiết kế phổ dụng” cần được bổ sung như là các tiêu chuẩn đối với hoạt động cải tạo và xây dựng.
- Đảm bảo thực hiện trách nhiệm của các cơ sở giáo dục và chính quyền địa phương để đảm bảo giáo dục hòa nhập. Điều cần thiết là phải xây dựng năng lực của người khuyết tật thông qua loại bỏ các rào cản trong giáo dục, đặc biệt trong giáo dục đại học và đào tạo nghề. Điều này phải được thực hiện cùng với việc nâng cao năng lực nhận thức của cả chính quyền Trung ương và địa phương trong quá trình phân bổ ngân sách cho NKT để đầu tư vào giáo dục và phục hồi chức năng.
- Đảm bảo quyền tiếp cận chăm sóc y tế và phục hồi chức năng cho người khuyết tật gắn với trách nhiệm của hệ thống các cơ sở y tế, đặc biệt trong việc đầu tư các thiết bị cơ bản hỗ trợ phục hồi chức năng cho người khuyết tật.
- Có chính sách hỗ trợ để tất cả NKT phải được đảm bảo quyền tiếp cập các dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí, bất kể điều kiện tài chính của họ để đảm bảo phù hợp với Luật Người khuyết tật. Luật Trợ giúp pháp lý cần nghiên cứu nhằm đảm bảo sự phù hợp với việc bảo vệ mạnh mẽ hơn trong đảm bảo quyền tiếp cận công lý cho NKT theo Luật Người khuyết tật. Luật Trợ giúp pháp lý và Luật Người khuyết tật nên đưa ra những hỗ trợ phù hợp về thủ tục và về độ tuổi của NKT nhằm tạo điều kiện cho họ tiếp cận dịch vụ hỗ trợ pháp lý, bao gồm đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhà cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý trong phục vụ khách hàng là NKT, nhằm phù hợp với Điều 13 của CRPD.
- Tăng cường giám sát thực thi luật pháp và chính sách và tăng cường sự tham gia của NKT trong ban hành các quyết định và hoạt động giám sát. Các Tổ chức NKT và NKT phải được đào tạo phù hợp để giám sát việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của chính NKT, trong thực thi CRPD và luật pháp trong nước. Các cơ chế phải được thiết lập để đảm bảo sự tham gia hiệu quả của NKT vào quy trình ban hành các quyết định, đảm bảo rằng các nhu cầu đa dạng của NKT được pháp luật quy định. Hơn nữa, vai trò giám sát của NKT, theo quy định của CRPD, phải được xác định trong Luật Người khuyết tật, thông qua quy định rõ ràng về việc thành lập và hoạt động của các Tổ chức NKT.
- Nhà nước cần chính sách và đầu tư nguồn lực để từng bước thu hẹp khoảng cách về khả năng tiếp cận, phục hồi chức năng và giáo dục giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt trong quá trình hoạch định chính sách. Các chương trình đặc biệt dành cho NKT sống ở vùng sâu vùng xa hoặc miền núi cần được phát triển. Cách tiếp cận dựa trên quyền con người đòi hỏi tất cả mọi người có thể thực hiện các quyền của mình dựa trên điều kiện của cá nhân, tuy nhiên một số quyền vẫn bị hạn chế do khoảng cách đáng kể giữa khu vực đô thị và nông thôn./.
TS. Phí Mạnh Thắng, Vụ trưởng Vụ Pháp chế-Thanh tra,
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
ThS. Đào Trọng Độ, Vụ trưởng Vụ Đào tạo thường xuyên,
Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
[1] Tổng cục Thống kê, Báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật, 2016 -2017 (2019), trang 15.
[2] Báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật, 2016 -2017 (2019), trang 17.
[3] Báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật, 2016 -2017 (2019), trang 126.
[4] Như đã dẫn, trang 69.
[5] Báo cáo đánh giá về hỗ trợ đối với Người khuyết tật trong giai đoạn 2012 - 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo (ngày 18/10/2019).
[6] Điều tra quốc gia về người khuyết tật, trang 19.
[7] Như đã dẫn, 2016 -2017 (2019), trang 19.
[8] Người khuyết tật được các doanh nghiệp, cơ sở SXKD, cơ sở dạy nghề nhận vào làm việc hoặc học nghề.
[9] Đến nay tổng nguồn vốn của chương trình là 14.670 tỷ đồng; trong đó nguồn vốn Quỹ Quốc gia về việc làm là 4.477 tỷ đồng; nguồn vốn của địa phương ủy thác sang NHCSXH cho vay giải quyết việc làm là 6.353 tỷ đồng; nguồn vốn do NHCSXH huy động là 3.840 tỷ đồng.
[10] Người khuyết tật có việc làm sau học nghề chỉ đạt mức dưới 50%, tỷ lệ người khuyết tật được vay vốn ưu đãi thấp (dưới 1% so với tổng số người được vay từ NHCSXH)
[11] Quy định tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng để dảm bảo tiếp cận cho người khuyết tật, Bộ Xây dựng, (2014) (QCVN 10:2014/BXD).
[12] Điều 40 Luật Người khuyết tật (2010), Điều 13 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật Người khuyết tật.
[13] Luật Người khuyết tật (2010) Điều 43 (2).
[14] Báo cáo thực hiện công ước quốc tế về người khuyết tật, trang 31.
[15] Hội người mù Việt Nam, Hội khuyến học, Hội văn nghệ trẻ