Thứ Sáu, ngày 22 tháng 11 năm 2024

Nghị quyết “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế"...(tiêp theo)

Ngày phát hành: 02/07/2019 Lượt xem 4268

2. Những hạn chế, yếu kém

Thứ nhất, 07 quan điểm chỉ đạo nêu trong Nghị quyết chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ

Quan điểm GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân chưa được quán triệt mạnh mẽ và cụ thể hóa đầy đủ, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở trong quá trình tổ chức triển khai. Nguyên lý học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội có nơi, có lúc thực hiện còn bất cập. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các cấp học, trình độ và giữa các phương thức GD&ĐT chưa đạt kết quả như yêu cầu.

Thứ hai, các mục tiêu nêu trong Nghị quyết đang trong quá trình thực hiện nên chưa đạt được sự chuyển biến căn bản, rõ nét về chất lượng và hiệu quả

Thứ ba, 09 nhiệm vụ và giải pháp thực hiện còn hạn chế, kết quả chưa rõ:

a. Một số bộ, ngành, địa phương chưa sâu sát chỉ đạo, tổ chức thực hiện; chưa phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong quá trình triển khai Nghị quyết. Việc học tập, quán triệt, triển khai Nghị quyết số 29 ở một số bộ, ngành, địa phương, đơn vị còn chậm so với kế hoạch. Một số hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong xã hội chưa được chỉ đạo và giải quyết dứt điểm. Sự nhiễu thông tin trên mạng xã hội nặng về phê phán đã gây nên sự hoài nghi đối với sự thành công của đổi mới giáo dục.

b. Một số đề án triển khai Nghị quyết chậm so với kế hoạch. Các điều kiện bảo đảm thực hiện đổi mới chưa đồng bộ, còn nhiều khó khăn, nhất là về giáo viên và cơ sở vật chất. Công tác hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau trung học cơ sở hạn chế. Chất lượng giáo dục ở vùng sâu, vùng xa còn thấp, tỷ lệ tái mù chữ của học  sinh dân tộc thiểu số còn cao: hiện nay có khoảng 21% người dân tộc thiểu số chưa đọc thông, viết thạo. Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên ở một số nơi chưa được coi trọng.

c. Hoạt động thi, kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục vẫn còn hạn chế, một số tiêu cực trong giáo dục, nhất là thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia năm 2018- sự vi phạm nghiêm trọng đã làm giảm niềm tin của xã hội. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực thấp, cơ cấu nhân lực chưa hợp lý, chưa đáp ứng yêu cầu xã hội. Chưa có cơ chế khuyến khích các cơ sở sử dụng lao động tham gia vào quá trình đào tạo. Tuyển dụng cán bộ vẫn coi nặng bằng cấp.

d. Chưa tích cực rà soát quy hoạch, sắp xếp mạng lưới các cơ sở giáo dục. Chưa xác định được bộ tiêu chí về hệ thống giáo dục mở. Chậm triển khai chủ trương liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo với các tổ chức khoa học công nghệ, viện nghiên cứu chưa thực sự hiệu quả. Chưa thực hiện được phân tầng, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học. Quy mô giáo dục ngoài công lập còn nhỏ. Nhiều nơi công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn vị trí việc làm.

e. Sự phối hợp trong công tác quản lý GD&ĐT giữa trung ương và địa phương và giữa các ngành chưa đồng bộ. Cơ quan quản lý giáo dục ở địa phương chưa rõ vai trò quyết định nhân sự và tài chính. Cơ chế, chính sách về tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục còn thiếu và chưa đồng bộ. Công tác kiểm định chất lượng độc lập triển khai chậm.

f. Việc quy hoạch, sắp xếp các cơ sở đào tạo nhà giáo còn chậm. Trường đại học sư phạm và trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm chưa được ưu tiên đầu tư. Chất lượng một bộ phận nhà giáo còn thấp, nhất là khả năng sử dụng ngoại ngữ và công nghệ thông tin; số ít nhà giáo vi phạm đạo đức nghề nghiệp; việc sắp xếp lại đội ngũ nhà giáo còn hạn chế; giáo viên phổ thông còn thừa, thiếu cục bộ, thiếu nhiều giáo viên mầm non. Chính sách tiền lương đối với nhà giáo chưa thực hiện theo tinh thần Nghị quyết số 29. Chưa có chính sách đối với nhà giáo khi chuyển làm cán bộ quản lý giáo dục. Chưa thực hiện việc miễn nhiệm hoặc đưa ra khỏi ngành giáo dục những nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không còn đủ phẩm chất, năng lực không đáp ứng yêu cầu, không hoàn thành nhiệm vụ. Thiếu chính sách đủ mạnh để thu hút được sinh viên giỏi vào ngành sư phạm. 

g. Cơ chế, chính sách tài chính chưa thực sự khuyến khích và thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho GD&ÐT; chưa tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo sự bình đẳng giữa các loại hình và cơ sở giáo dục. Cơ sở vật chất cho giáo dục còn thiếu thốn, xuống cấp, nhất là vùng khó khăn; nhiều địa phương chưa dành quỹ đất “sạch” xây dựng trường.

h. Công tác nghiên cứu khoa học giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học giáo dục còn hạn chế. Công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học chưa thực sự gắn kết với đời sống xã hội; việc chuyển giao, ứng dụng các kết quả nghiên cứu ít, chưa thực sự hiệu quả. Một số phòng thí nghiệm trọng điểm chưa phát huy hiệu quả hoạt động.

i. Hợp tác quốc tế trong GD&ĐT chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu. Chủ trương ưu tiên liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục của nước ngoài những ngành khoa học và công nghệ mà Việt Nam chưa có thế mạnh thực hiện còn hạn chế. Chưa thu hút được nhiều nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài về Việt Nam giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Chưa có giải pháp thu hút học sinh, sinh viên nước ngoài đến học tập tại Việt Nam.

3. Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ÐT, chưa thực sự coi đây là công việc cấp thiết, quan trọng; chưa kiên quyết, kiên trì, sát sao lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên lĩnh vực GD&ĐT; triển khai Nghị quyết bước đầu còn lúng túng.

Hai là, chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung các Luật, Nghị định, Thông tư cho phù hợp với Nghị quyết số 29.

Ba là, sự vào cuộc thiếu đồng bộ, chưa quyết liệt của hệ thống chính trị; sự kết hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong giáo dục chưa tốt. Bệnh thành tích trong GD&ÐT còn nặng nề. 

Bốn là, một bộ phận nhà giáo và cán bộ quản lý có tâm lý ngại đổi mới, tư duy và cách làm cũ, chưa theo kịp tinh thần đổi mới của Nghị quyết số 29.

Năm là, nhà nước chưa có chính sách hấp dẫn thu hút nguồn lực xã hội đầu tư cho GD, trong khi thiếu nguồn lực để thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD&ÐT. Chưa có biện pháp đủ mạnh để phân luồng HS sau THCS đi học nghề.

4. Nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 29

Nghị quyết số 29 được thực hiện trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động đến mọi hoạt động kinh tế - xã hội; Việt Nam đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Kết quả sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 29 đã thể hiện sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, mà nòng cốt là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Tuy nhiên, đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT là một công việc khó khăn, phức tạp, cần phải có thời gian và phải huy động cao nhất mọi nguồn lực xã hội mới có thể thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải pháp nêu trong Nghị quyết.

Để đẩy mạnh và tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29, gắn với các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, khắc phục cơ bản những hạn chế, yếu kém, tiêu cực đang gây bức xúc trong xã hội, phấn đấu đến năm 2025, chất lượng GD&ĐT có sự chuyển biến rõ nét, Ban Tuyên giáo Trung ương đã đề nghị Ban Bí thư ban hành Kết luận “Về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 29“ với các nhiệm vụ và giải pháp sau.

Một là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Ðảng, chính quyền; sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 29    

Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo phải được xác định là nhiệm vụ chính trị quan trọng của cả hệ thống chính trị, cần kiên trì thực hiện. Các cấp ủy Ðảng, chính quyền từ trung ương tới cơ sở tiếp tục quán triệt sâu sắc và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong Nghị quyết số 29.

Kịp thời, đồng bộ thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục và đào tạo, tập trung xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về đổi mới giáo dục, xây dựng sớm hướng dẫn thực hiện Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia.

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành và các tổ chức chính trị - xã hội trong chỉ đạo, thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục. Kịp thời nắm bắt tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân nhất là đội ngũ nhà giáo, học sinh, sinh viên, các bậc cha mẹ học sinh nhằm thực hiện tốt hơn yêu cầu đổi mới.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận, tin tưởng của xã hội đối với sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trước hết là việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa phổ thông mới, phân luồng trong đào tạo dạy nghề.

Hai là, đẩy mạnh công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện

Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương về giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống và lý tưởng cách mạng.

Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống tốt đẹp trong học sinh, sinh viên, yêu đất nước, yêu con người, chăm học, chăm làm, trung thực, trách nhiệm. Đổi mới, nâng cao chất lượng việc giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá các môn lý luận chính trị, giáo dục công dân, giáo dục lịch sử cách mạng và văn hóa trong hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng thiết thực, hiệu quả, phù hợp với các cấp học. Quản lý chặt chẽ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài.

Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa học đường thật sự tốt đẹp, tăng cường giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng, phát huy tốt vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên Việt Nam trong việc giáo dục, rèn luyện học sinh, sinh viên về tinh thần yêu nước, trách nhiệm xã hội và tình nhân ái. 

Ba là, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, xóa mù chữ và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở; tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở; xây dựng xã hội học tập                

Đẩy mạnh các giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tập trung xây dựng dự báo nhu cầu nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu. Phát triển cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao. Xây dựng các tiêu chí, tập trung đầu tư cho một số trường đại học trọng điểm, nhất là các Đại học quốc gia và Đại học vùng trở thành những cơ sở giáo dục đại học có uy tín trong khu vực và thế giới. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập phù hợp với xu thế chung của thế giới.

 Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục và xóa mù chữ, nhất là phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 4 tuổi và 3 tuổi.

Thực hiện tốt chủ trương giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau trung học cơ sở. Xây dựng cơ chế liên thông, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong quản lý giáo dục.

Nghiên cứu xác định rõ các tiêu chí và từng bước xây dựng hệ thống giáo dục mở. Thực hiện tốt quy hoạch, sắp xếp hệ thống giáo dục gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Sắp xếp hợp lý các cơ sở đào tạo nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng một số trường đại học sư phạm trọng điểm làm hạt nhân ở các vùng miền. Nghiên cứu chuyển đổi, sắp xếp mô hình trường trung học phổ thông chuyên, trường dự bị đại học và trường phổ thông dân tộc nội trú phù hợp với điều kiện mới, bảo đảm chất lượng, công bằng, bình đẳng, hoà nhập và hội nhập trong giáo dục.

Tổ chức tốt việc học tập suốt đời cho người lớn, phấn đấu mỗi tổ chức Đảng, đảng viên và gia đình đảng viên trở thành đơn vị học tập, công dân học tập và gia đình học tập. Chú trọng bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động; làm tốt hơn nữa công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn và người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, đào tạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy và học tiếng Anh.  

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; bảo đảm các điều kiện cơ bản để thực hiện tốt chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới   

Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, bảo đảm đủ nhà giáo cho từng cấp học, môn học. Xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù, chính sách tiền lương trong đào tạo, tuyển dụng các nhà giáo, các chính sách thu hút người có phẩm chất tốt, đủ trình độ, năng lực làm giáo viên.

 Chỉ đạo tốt việc biên soạn và triển khai sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới bảo đảm công khai, minh bạch, tạo điều kiện để xã hội hóa việc biên soạn sách giáo khoa bảo đảm chất lượng trên cơ sở chương trình giáo dục phổ thông, bảo đảm tính khoa học, tính liên thông, thống nhất giữa các môn học, cấp học. Hoàn thiện nội dung và ổn định phương án thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia.

Ưu tiên nguồn tài chính cho giáo dục, bảo đảm đủ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ tốt việc triển khai chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới. Tăng cường đầu tư, phát triển nhanh trường, cụm lớp cho cấp học mầm non. Bảo đảm đủ trường, lớp cho học sinh học ngày 2 buổi, nhất là ở vùng khó khăn, trước hết tập trung cho giáo dục mầm non, tiểu học. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.

Năm là, tiếp tục đổi mới công tác quản lý; đẩy mạnh tự chủ và trách nhiệm giải trình; ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực trong các cơ sở giáo dục   

Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý, coi trọng quản lý chất lượng, gắn trách nhiệm quản lý chuyên môn với quản lý nhân sự và quản lý tài chính. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền đặc biệt chú trọng công tác quản trị nội bộ, phát huy vai trò trách nhiệm của người đứng đầu trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; của các địa phương. Phân định rõ công tác quản lý nhà nước với quản trị các cơ sở giáo dục. Tăng cường quản lý các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài và các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài. Cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài quản lý tốt lưu học sinh Việt Nam.

Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư; đẩy mạnh xã hội hóa, xây dựng cơ chế đầu tư thuận lợi, minh bạch để khuyến  khích các doanh nghiệp, xã hội và thu hút nguồn lực quốc tế đầu tư phát triển giáo dục, nhất là phát triển giáo dục chất lượng cao

Đối với giáo dục phổ thông, Nhà nước đầu tư phát triển và từng bước thực hiện miễn học phí cho học sinh ở bậc  học phổ cập; tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ học sinh ở vùng đặc biệt khó khăn.

Đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, Nhà nước không giảm đầu tư ngân sách; thực hiện tính đúng, tính đủ chi phí cho mỗi ngành, nghề, trình độ đào tạo; chỉ đầu tư, hỗ trợ cho những ngành, nghề đặc thù, quan trọng và cần thiết mà xã hội không đầu tư; những ngành, nghề khác thực hiện chính sách xã hội hóa; hỗ trợ kinh phí cho những đối tượng chính sách bằng học bổng hoặc cho vay ưu đãi; chuyển từ phân bổ kinh phí thường xuyên sang cơ chế nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ căn cứ vào kết quả cuối cùng, hoặc đấu thầu; chuyển từ việc đầu tư kinh phí cho cơ sở giáo dục sang hỗ trợ kinh phí cho người học; phát triển Quỹ Khởi nghiệp sáng tạo; Quỹ Khuyến học, khuyến tài hỗ trợ học sinh, sinh viên.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh tự chủ và trách nhiệm giải trình, thực hiện dân chủ, phát huy sáng tạo, tăng cường sự giám sát, phản biện của các tổ chức trong nhà trường và xã hội. Kiên quyết đưa khỏi ngành giáo dục những nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không đủ phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ; chống bệnh thành tích, xử lý nghiêm những tiêu cực trong giáo dục; quản lý và giám sát chặt chẽ việc thi, kiểm tra, đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục và đào tạo bảo đảm thực chất. Nâng cao trách nhiệm của địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.

Sáu là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các cơ sở giáo dục 

Tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư đối với công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các cơ sở giáo dục, gắn kết chặt chẽ nghiên cứu với đào tạo, phục vụ sản xuất, kinh doanh và hợp tác quốc tế; khai thác có hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm. Thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh, các trung tâm nghiên cứu xuất sắc ở một số trường đại học. Có chính sách khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp thành lập doanh nghiệp công nghệ, hợp tác với doanh nghiệp để sớm chuyển giao công nghệ và kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn. Xây dựng các chính sách khuyến khích giáo viên hợp tác với các cơ sở sản xuất; đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp sáng tạo trong học sinh, sinh viên. Tổ chức tốt các hoạt động nghiên cứu khoa học trong học sinh, sinh viên./.

                                                                                                                                                                        (hết)

 

GS.TS Nguyễn Thanh Long

Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết