1. Đặt vấn đề:
Kể từ năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, ghi nhận trong Hiến pháp “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, thành tựu hay hạn chế đều có liên quan đến nội dung và phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đưa ra chủ trương: Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện.
Quy định cụ thể Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phát huy vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của người đứng đầu và có cơ chế xử lý đối với người đứng đầu khi vi phạm.
Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện phân cấp, phân quyền, chống tha hoá quyền lực; có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của Trung ương. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, kịp thời, đúng đắn của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp; phát huy vai trò nêu gương, thúc đẩy đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; xây dựng và thực hiện phong cách làm việc khoa học, tập thể, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, vì dân, bám sát thực tiễn, chịu khó học hỏi, nói đi đôi với làm.
Phát triển tư duy lý luận qua từng thời kỳ cách mạng, đến Đại hội đại biểu toàn quốc khoá XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mười mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, gồm:
1. Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; 2. Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3. Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; 4. Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; 5. Giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; 6. Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; 7. Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; 8. Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 9. Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; 10. Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Những mối quan hệ lớn này được giải quyết thông qua hoạt động lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết các các mối quan hệ lớn này, những yêu cầu mới liên tục nảy sinh, đôi khi hình thành những mâu thuẫn lớn giữa mong muốn và thực tiễn, và giải quyết được các mâu thuẫn này hay không phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng, có nắm vững bản chất của các mối quan hệ hay không, có đề ra chủ trương đường lối đúng đắn hay không, có tổ chức thực hiện tốt hay không, có phương thức lãnh đạo phù hợp hay không.
Do đó, nhận diện những mối quan hệ lớn trong thực tiễn, nhận thức về các mâu thuẫn nảy sinh là con đường từ lý luận đến thực tiễn. Việc kết hợp giữa lý luận khoa học và thực tiễn cách mạng là để nhìn nhận rõ bản chất của sự việc, cung cấp tư duy đúng đắn, gợi mở những giải pháp nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, phát huy tính dân chủ và chủ động trong hoạt động của các cấp uỷ, tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
2. Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình Đảng lãnh đạo giải quyết các mối quan hệ lớn thời gian qua
Thứ nhất: Nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề với năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Những dự báo về tình hình trong nước và quốc tế được đưa ra tại đầu nhiệm kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã thành hiện thực, có những nội dung còn diễn biến gay gắt, phức tạp hơn.
Về tình hình trong nước: Sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam hội nhập quốc tế sâu, rộng, nâng cấp mối quan hệ với các đối tác chiến lược như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản… tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế xã hội của đất nước.
Nền kinh tế phát triển đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới tác động của đại dịch Covid-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hoá, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường; chưa bảo đảm phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù.
Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới.
Về tình hình quốc tế: Tuy hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, chiến tranh về lãnh thổ, sắc tộc… tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng.
Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới trong khi kinh tế toàn cầu lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á vẫn là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hoà bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Bối cảnh quốc tế và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững.
Tuy thế, thực tiễn năng lực của Đảng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả quan trọng nhưng vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng với yêu cầu đặt ra, tồn tại những hạn chế cần khắc phục, như một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa đảm bảo tính dự báo, cũng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi thấp. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Kiểm soát quyền lực chưa thực sự hiệu quả, tình trạng tham nhũng, tiêu cực tiếp tục diễn biến phức tạp. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được ngăn chặn, ảnh hưởng đến niềm tin và mối quan hệ của nhân dân đối với Đảng.
Thứ hai, Yêu cầu triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống nhanh và tích cực mâu thuẫn với công tác thể chế hóa của Nhà nước chưa kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi.
Trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng nề, Đảng đã nhanh chóng ban hành các chủ trương, đường lối lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, việc thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng vẫn còn hạn chế, bất cập, một số văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành đúng kế hoạch, hoặc đã ban hành nhưng chưa phù hợp, chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn. Công tác lãnh đạo việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng của một số cấp ủy chưa quyết liệt, chậm trễ, chưa xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo quản lý, tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW, Đảng đã khẳng định định vẫn còn “Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi”[2].
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế trên, trong đó trước hết là do nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị chưa đủ sâu sắc. Năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao…[3] Ngoài ra, các quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đối với hoạt động thể chế hóa vẫn chưa đầy đủ, chưa thực sự quy định rõ trách nhiệm từng chủ thể thể chế hóa.
Thứ ba, Yêu cầu trách nhiệm càng cao của người đứng đầu địa phương, đơn vị và cấp ủy với quyền hạn của người đứng đầu và phân quyền của người đứng đầu trên thực tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cán bộ là gốc của mọi công việc. Hơn thế nữa người đứng đầu lại càng có ảnh hưởng lớn sự thành công của đơn vị, địa phương. Trong mọi trường hợp, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm lớn hơn cán bộ, nhân viên thuộc quyền, không những chỉ là liên đới trách nhiệm mà đây còn là trách nhiệm trong chỉ đạo, quản lý, điều hành, kiểm tra, đôn đốc. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị có trọng trách lớn trước mọi thành công hay thất bại trong mọi hoạt động lãnh đạo, tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn được giao; tự mình phải chịu trách nhiệm chính trong việc ra các quyết định, chủ trương, giải pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Yêu cầu trách nhiệm ngày càng cao đòi hỏi người đứng đầu phải xác định cho thật rõ cơ chế trách nhiệm và chỗ đứng của mình trong tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể và cơ quan, đơn vị, phân biệt thật rạch ròi quyền và trách nhiệm của mình, mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể ban lãnh đạo.
Tuy nhiên, trong khi trách nhiệm càng cao thì việc phân quyền cho người lãnh đạo còn có lúc chưa tương xứng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước ta là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhiều lúc, nhiều khi giao cho tập thể quá nhiều quyền hạn trong khi quyền hạn cho cá nhân người đứng đầu lại chưa đủ để có thể quyết định quyết đoán những vấn đề nảy sinh trong điều hành công tác. Bên cạnh trường hợp một số người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương đã phớt lờ, thậm chí vô hiệu hoá sự lãnh đạo của tập thể, cấp ủy thì cũng có những trường hợp tập thể dùng “quyền lực số đông” để kiềm hãm những cá nhân lãnh đạo đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Thứ tư, Yêu cầu đổi mới, sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng hiện nay với bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm,
Đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá trước hết là nhằm tập trung giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm của đất nước, của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị, những điểm nghẽn, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn để bứt phá, đồng thời góp phần làm cơ sở hoàn thiện cơ chế, thể chế. Đổi mới, sáng tạo chính là động lực phát triển, là nhân tố quan trọng đem lại những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực, là yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Quy định về bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm đã được ban hành với quan điểm khuyến khích cấp ủy, người đứng đầu dám quyết cho chủ trương để cán bộ, đảng viên triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo của mình. Quy định về kỷ luật đảng cũng có nêu rõ: Đảng viên thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo được cơ quan có thẩm quyền cho phép nhưng xảy ra thiệt hại thì cơ quan có thẩm quyền xác định nguyên nhân, đánh giá toàn diện; nếu đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm.
Tuy nhiên có thể thấy đổi mới, sáng tạo, nhất là đột phá vào những nội dung đã lạc hậu, không còn phù hợp trong các quy định của Đảng và Nhà nước là vấn đề rất nhạy cảm.. Những mâu thuẫn giữa mới và cũ, giữa năng động sáng tạo nhưng có thể sai và an toàn là những mâu thuẫn thực tiễn. Do đó, việc cấp ủy có ý kiến phân tán, không thống nhất rất dễ xảy ra và chính quy định về việc người đứng đầu có thể sử dụng quyền tự quyết đối với ý tưởng đổi mới, sáng tạo khi cấp ủy không đồng thuận, có ý kiến trái ngược, nhưng phải báo cáo lên cấp trên cũng là một biểu hiện của dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu cần phải giải quyết tốt trong mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách. Ngoài ra đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong giới hạn nào cũng là một mâu thuẫn cần giải quyết để bảo vệ cán bộ. Theo Quy định của Đảng là không được xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia và đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ, vậy những đổi mới, sáng tạo ngoài khuôn khổ các quy định hiện hành nhưng không trái Điều lệ Đảng và Hiến pháp có thể được bảo vệ hay không khi “khung” tiêu chí để đánh giá giới hạn này khá rộng và liệu có vi phạm nguyên tắc tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hay không.
Thứ năm, Yêu cầu giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng với chủ nghĩa cá nhân hiện nay.
Bác Hồ đã chỉ rõ: Cách mạng nhất định sẽ thành công, nhưng thành công nhanh hay chậm, mức độ thành công lớn hay nhỏ... tùy thuộc vào đạo đức cách mạng của những người làm cách mạng “Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng là trách nhiệm của mỗi một đảng viên với Đảng, với mục tiêu, lý tưởng mà mình đã lựa chọn.
Bên cạnh những đảng viên không ngừng phấn đấu, không ngừng rèn luyện, trau dồi phẩm chất đạo đức, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phai nhạt lý tưởng, niềm tin đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa cho thấy một bộ phận đảng viên rơi vào suy thoái. Đặc biệt nguy hiểm là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, chạy theo các giá trị vật chất, xem thường các giá trị tinh thần, thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân và các hành động kèn cựa địa vị, chạy chức tranh quyền diễn ra ngày càng phức tạp, biến tướng dưới nhiều hình thức, gây nhức nhối về đạo đức trong Đảng, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân và xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng. Dù đã thành công bước đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhưng “Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”[4]. Tại Phiên họp thứ 24 ngày 16/8/2023 tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đánh giá: Trong 06 tháng đầu năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 218 đảng viên do tham nhũng, 10 đảng viên vi phạm về kê khai tài sản, thu nhập. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 13 cán bộ diện Trung ương quản lý. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay, đã thi hành kỷ luật 91 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 17 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 23 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang (tăng gần 2 lần so nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII).
Giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng là yêu cầu đối với đảng viên, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý bởi vì đây là những chủ thể thực hiện quyền lực, mà tham nhũng chính là “khuyết tật của quyền lực”. Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng vừa là chủ thể thực hiện quyền lực vừa là chủ thể kiểm soát quyền lực và phải có những giải pháp giải quyết hài hòa hai mặt của một vấn đề này. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định để tiếp tục lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải “Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực;…”[5].
Thứ sáu, Ý chí, khát vọng, lý tưởng cách mạng hiện nay với sự nêu gương của đảng viên.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 2011 xác định các phương thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên”[6]. Nêu gương là một trong các phương thức lãnh đạo của Đảng, để được nhân dân tin yêu, quý trọng và xứng đáng với vai trò lãnh đạo, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự tiên phong, gương mẫu cả về phẩm chất, nhân cách, đạo đức, tri thức…, luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, thực sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân, làm tròn bổn phận mà Đảng và nhân dân giao phó.
Đảng viên không thể thực hiện được nêu gương khi lý tưởng cách mạng cao đẹp, ý chí khát vọng của đảng viên đã bị phai nhạt; đảng viên chưa thật sự mẫu mực trong lời nói, việc làm, trong rèn luyện, tu dưỡng, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, tác phong công tác, sinh hoạt; đảng viên còn có những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, có hành vi tham nhũng, tiêu cực. Thực tiễn thời gian qua một số cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước rất nghiêm trọng, đến mức phải xử lý kỷ luật đảng, truy cứu trách nhiệm hình sự, gây dư luận bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân đã không còn xứng đáng là tấm gương để quần chúng nhân dân học tập, noi theo.
Thứ bảy, Yêu cầu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị với sự phá hoại của các thế lực thù địch, âm mưu “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong đảng viên và trong nhân dân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định nhiệm vụ xây dựng Đảng, và đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Hiện nay, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi để phát triển, chúng ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó “bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, nhất là âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chúng vẫn xem Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là trọng điểm chống phá với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, kết hợp “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ với thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đi cùng với răn đe quân sự từ bên ngoài. Các thế lực thù địch đã ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại, với trọng tâm là cổ xúy hệ tư tưởng tư sản, âm mưu xóa bỏ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội... mà mục tiêu cuối cùng là làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Có thể thấy, “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời nhau, trong đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vừa là thủ đoạn, vừa là mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình”. Tương tác qua lại giữa “diễn biến hòa bình” với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nhân dân và cán bộ, đảng viên nếu không được ngăn chặn kịp thời có thể dẫn đến sự suy thoái của tổ chức, về lâu dài, sẽ dẫn đến chuyển hóa chế độ chính trị mâu thuẫn nghiêm trọng với mục tiêu xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh và sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Do đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay phải gắn với đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đây là giải pháp quan trọng, chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và sự tồn vong của chế độ, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng.
3. Một số giải pháp đề xuất
Thực chất việc giải quyết các mâu thuẫn trên cũng chính là nhiệm vụ của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Những giải pháp tham khảo chúng tôi đề xuất như sau:
Một là, Chống suy thoái về đạo đức, lối sống, Đảng và hệ thống chính trị phải thường xuyên tự soi và tự sửa.
Các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thường xuyên, nghiêm túc “tự soi, tự sửa” nhằm ngăn chặn kịp thời các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Qua đó, xây dựng đảng bộ và hệ thống chính trị vững mạnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót; nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng và hệ thống chính trị phải “tự soi” nhìn nhận lại chính trong nội bộ mình “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách sửa chữa khuyết điểm đó, như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắc, chân chính”[7].
Tự soi là việc làm thường xuyên, hằng ngày, chứ không phải khi nào có dấu hiệu, biểu hiện thì mới “soi”, khi đó thì không cần soi nữa mà mọi người, mọi nơi đều biết những sai lầm, khuyết điểm. Cần phải “tự soi” kịp thời, thường xuyên “như rửa mặt hằng ngày” để ngăn chặn các vấn đề tiêu cực manh nha nảy sinh. “Tự soi” không phải làm hình thức, kiểu lướt sóng, mà soi thật kỹ, bởi có những biểu hiện tiêu cực tiềm ẩn mà không soi kỹ thì không phát hiện ra. Trong thực tế có biểu hiện suy thoái lúc soi thì không thấy, nhưng mãi sau này mới phát hiện ra, nên cần phải có nghiệp vụ để vừa soi vừa theo dõi, để kịp thời ngăn chặn không để hậu quả xảy ra. Bên cạnh việc “tự soi” thì để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh cần phải “tự sửa”, tức là khi soi thấy, phát hiện biểu hiện suy thoái, thì mỗi cán bộ, đảng viên cũng như các tổ chức phải sửa chữa khuyết điểm hạn chế. Việc đề ra giải pháp để sửa phải mang tính khả thi, không nêu chung chung, mà phải là thuốc đặc trị, chữa dứt điểm được biểu hiện suy thoái, biểu hiện làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức. Việc nghiêm túc “tự soi, tự sửa” để góp phần xây dựng tập thể Đảng bộ và hệ thống chính trị các cấp đoàn kết, thống nhất và lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hai là, Nâng cao trình độ nhận thức và năng lực tổ chức hoạt động cách mạng của đảng viên, xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và hệ thống chính trị đủ năng lực, phẩm chất và “dám” để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và nguyện vọng của nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ có Tâm - Tài - Tầm, trách nhiệm, tận tụy phục vụ nhân dân. Tâm của cán bộ phải trong sáng về lối sống, luôn trung thực, làm việc, phục vụ nhân dân bằng cả trái tim, phải luôn biết hy sinh lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích của nhân dân, không lợi dụng, vụ lợi, tính ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân. Người cán bộ phải có tài - đó là phải có trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phải giỏi và ngày càng nâng cao, đáp ứng yêu cầu trong thực hiện nhiệm vụ và trong phục vụ nhân dân. Đội ngũ cán bộ phải có tầm - đó là tầm nhìn chiến lược trong thực hiện nhiệm vụ, hoạch định chính sách, nhìn thấu hiểu nỗi niềm của nhân dân, để từ đó phục vụ nhân dân tốt hơn. Bởi cán bộ vừa là người tham gia xây dựng chính sách, đồng thời là người triển khai và hướng dẫn nhân dân thực hiện. Xuất phát từ vị trí, vai trò đó, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ cán bộ của Đảng và hệ thống chính trị đủ năng lực và phẩm chất. Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, sự gương mẫu, tinh thần vì Nhân dân phục vụ, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ hướng tới thực hiện cho được phương châm “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, và dám hành động vì lợi ích chung”. Thực hiện có hiệu quả Quy định 114-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ và hiện thực hóa Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29/9/2023 của Chính phủ quy định về khuyến khích bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Ba là, Giáo dục đạo đức cách mạng để xây dựng tình cảm lớn cho đảng viên.
Đại hội XIII của Đảng xác định năm nội dung của công tác xây dựng Đảng, đó là: Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện.
Để tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau: 1. Mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. 2. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII; quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. 3. Tăng cường kỷ luật đảng và thực hiện nghiêm minh pháp luật của Nhà nước. 4. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong giám sát cán bộ, công chức, phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. 5. Nêu gương sáng, giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu Đảng, yêu chủ nghĩa xã hội bằng các hình thức sinh động, thực tiễn, tránh lý luận giáo điều.
Bốn là, Tăng cường công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật.
Nghị quyết số 28-NQ/TW đã xác định mục tiêu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật; tạo chuyển biến thực sự, đạt kết quả cao trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng ở các cấp”[8]. Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện tốt các giải pháp thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, với các biện pháp cụ thể sau:
- Xác định cơ sở chính trị nền tảng cho việc thể chế hóa đường lối của Đảng. Chủ trương, định hướng lớn, đúng đắn của Đảng là căn cứ, cơ sở để Nhà nước và xã hội thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện. Thực tiễn cho thấy, trong mỗi giai đoạn, chủ trương lớn của Đảng, định hướng rõ về đường lối chiến lược sẽ tạo cơ sở để Nhà nước thể chế hóa thành văn bản pháp luật. Pháp luật có tính dự báo nhưng không thể đi trước đường lối chính trị của đảng cầm quyền. Do đó, Bộ Chính trị cần kịp thời đề ra đường lối chiến lược về những vấn đề, nội dung quan trọng của đất nước như chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng… đồng thời không ngừng bổ sung, điều chỉnh, phát triển đường lối, và định hướng về chính sách theo tình hình thực tiễn. Đây là nhiệm vụ nhằm bảo đảm nền tảng và cơ sở chính trị cho hoạt động thể chế hóa. Ngày 14/10/2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 19-KL/TW về định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, nêu rõ, quán triệt, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị xác định mục tiêu của công tác xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội Khoá XV là “hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, tạo lập khung khổ pháp lý để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025 và 12 định hướng phát triển đất nước, 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược đã được Đại hội XIII của Đảng đề ra”, đây là cơ sở chính trị quan trọng cho công tác xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật giai đoạn hiện nay.
- Xác định thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đối với hoạt động thể chế hóa. Mỗi chủ thể cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối với công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế, đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao, Ban Cán sự Đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cấp ủy, chính quyền địa phương.
Quốc hội là cơ quan lập pháp, Đảng đoàn Quốc hội cần đặc biệt chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thể chế hóa, từ quán triệt chủ trương, đường lối của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị để phân tích và xác định nhu cầu lập pháp, lập quy đến chỉ đạo việc lấy ý kiến đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, thông qua các văn bản dự thảo và hoạt động ban hành pháp luật. Tiếp tục tăng cường lãnh đạo việc đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, tăng tính chủ động của cơ quan dân cử trong công tác lập pháp, giám sát việc thi hành pháp luật.
Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh, chỉ đạo phát huy tính năng động, tích cực, vai trò, ý thức trách nhiệm trong lập pháp và lập quy của các cơ quan hành pháp, kiểm sát và xét xử, từ công tác xây dựng các dự thảo luật trình cơ quan lập pháp, thực hiện ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong thẩm quyền đến tổ chức triển khai thực hiện pháp luật.
Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lãnh đạo nâng cao chất lượng công tác phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong quy trình xây dựng pháp luật và giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật.
Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện thể chế hóa của các chủ thể có thẩm quyền, trách nhiệm, đồng thời gắn với sơ kết, tổng kết kết quả thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Đánh giá đầy đủ, khách quan kết quả, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan lãnh đạo đối với công tác thể chế hóa. Kịp thời biểu dương, khen thưởng các cơ quan, tổ chức thực hiện có hiệu quả việc thể chế hóa đường lối của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Cần xử lý nghiêm khi phát hiện những trường hợp lợi dụng việc thể chế hóa để cài cắm các nội dung lợi ích nhóm, lợi ích địa phương để giữ vững kỷ luật đảng.
- Phát huy vai trò của cấp ủy cấp tỉnh trong công tác lãnh đạo thực hiện thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật ở địa phương. Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật từ trước đến nay vẫn thường được hình dung gắn với Quốc hội, Chính phủ với kết quả thể chế hóa là Luật, Pháp lệnh, Nghị định… với phạm vi điều chỉnh rộng trong cả nước. Công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành nghị quyết của Hội đồng nhân dân và quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân chưa được nhiều địa phương chú trọng. Vì vậy, các cấp ủy địa phương cần lãnh đạo chính quyền cùng cấp làm tốt công tác thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp ủy địa phương thành các chương trình, kế hoạch để nhân dân địa phương thực hiện. Thực hiện tốt công tác thể chế hóa mang lại hiệu quả tích cực, một mặt tác động đến chất lượng các nghị quyết của cấp ủy địa phương, vừa đúng chủ trương, đường lối của Đảng vừa phát huy được thế mạnh của địa phương, tránh tình trạng sao chép, rập khuôn; mặt khác tác động đến công tác xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương gắn với chủ trương của Đảng, và tình hình địa phương, nâng cao được tính phù hợp và tính khả thi của pháp luật.
Mỗi địa phương sẽ có những đặc thù khác nhau nên chủ trương, đường lối lãnh đạo phải sâu sát tình hình, phù hợp đặc thù, phát huy thế mạnh riêng. Tuy thế những đặc thù này sẽ đặt ra thách thức cho công tác thể chế hóa ở địa phương ở chỗ, trong xây dựng và thực hiện pháp luật phải tuân theo nguyên tắc pháp chế, đó là pháp luật phải được hiểu và thực hiện giống nhau ở các địa phương, không có đặc quyền, ngoại lệ. Do đó cấp ủy địa phương cần lãnh đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tăng cường trách nhiệm, thực sự tâm huyết, trăn trở với sự phát triển của địa phương để từ đó phát huy tính chủ động, sáng tạo, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật sao cho vừa đặc thù mà vừa không vi hiến, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy địa phương, tạo cơ sở chính trị - pháp lý cho địa phương phát triển.
Trong lãnh, chỉ đạo công tác thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, các cấp ủy đảng phải trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, bàn bạc, thảo luận thực sự dân chủ rồi đi thống nhất ý chí, tránh hình thức, áp đặt trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, đảm bảo thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả”[9].
- Phát huy vai trò của đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và cán bộ tham gia vào quá trình lập pháp, lập quy và tổ chức thực hiện pháp luật. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị, thông qua các đảng viên là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân và cán bộ, đảng viên tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật để nâng cao chất lượng thể chế hóa. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm trọng trách trong xây dựng pháp luật giữ vai trò quyết định trong việc thể chế hóa, quyết định việc thể chế hóa nhanh, đúng, khả thi các chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm chất lượng của pháp luật, vì vậy, cần quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và phát huy vai trò của đảng viên trong thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, trước hết cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, nâng cao chất lượng đội ngũ đại biểu chuyên trách.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú ứng cử vào các chức danh chủ chốt của bộ máy nhà nước, vào các cơ quan thực hiện nhiệm vụ soạn thảo, thẩm định các dự luật để đảm bảo mọi tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng. Cấp ủy đảng các cấp cần coi trọng đúng mức việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này, bồi dưỡng và bố trí công tác tương xứng với vai trò, nhiệm vụ được giao. Trong lãnh đạo công tác cán bộ, cấp ủy đảng cần chỉ đạo công tác bồi dưỡng để đội ngũ này đảm bảo am hiểu sâu sắc chuyên môn, nghiệp vụ của ngành, bộ mình đồng thời hiểu biết về khoa học pháp lý để đổi mới, nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Đảng viên thực hiện vai trò đại biểu dân cử tích cực nêu gương trong thực thi nhiệm vụ, trong xây dựng pháp luật phải đặt lợi ích quốc gia và dân tộc lên hàng đầu, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân làm trọng tâm; chống tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong xây dựng pháp luật; nâng cao năng lực, trình độ và kỹ năng lập pháp hiện đại, chuyên nghiệp, khoa học.
Năm là, đổi mới tư duy theo hướng quản trị quốc gia, quản trị địa phương thông minh, đổi mới sinh thái.
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay càn tiếp cận theo hướng quản trị công hiện đại. Đảng cũng là một tổ chức thực hiện hoạt động quản trị, những giá trị hiện đại của quản trị thông minh, kết nối các hệ sinh thái quản trị cần được nhìn nhận, tiếp thu và ứng dụng trong hoạt động lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Tuy thế, là một vấn đề cũng còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam, quản trị quốc gia, quản trị địa phương thông minh cần được đổi mới theo hướng đổi mới tư duy trước, tiếp cận thực tiễn có lộ trình. Trước mắt cần chú trọng đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở bảo đảm khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, quy định chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ, quy trình công tác, khắc phục tình trạng bao biện, làm thay, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Hệ thống hóa hệ thống văn bản của Đảng bảo đảm khoa học, thực tiễn, hệ thống, chặt chẽ. Đổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng theo hướng mở rộng đối tượng tham gia, hình thức linh hoạt, phù hợp, tăng cường hội nghị chuyên đề trên các lĩnh vực, sử dụng hài hòa hình thức trực tuyến với trực tiếp và tuyên truyền miệng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở. Từng bước xây dựng và áp dụng tiêu chí, chỉ số quản trị công vào công tác lãnh đạo của Đảng. Ứng dựng chuyển đổi số vào công tác lãnh đạo của Đảng.
Từ vai trò lãnh đạo của mình, Đảng đã đưa ra định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước, đồng thời cũng là chủ thể lãnh đạo tổ chức thực hiện đường lối, chính sách trong thực tế quản trị quốc gia, những vấn đề quan trọng nhất, như định hướng, mục tiêu phát triển đất nước, các vấn đề quốc kế dân sinh, chính sách đối ngoại,… đều được Đảng đưa ra bàn bạc, thảo luận, thông qua tại các kỳ đại hội và thể chế hóa thành pháp luật. Đây thực chất là những chức năng của quản trị quốc gia mà Đảng đã thực hiện trong suốt quá trình cầm quyền, do đó, cần tiếp tục đổi mới thể chế quản trị, nhận thức về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời tham khảo, tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới trên cơ sở phù hợp với truyền thống, lịch sử, chế độ chính trị, bản sắc văn hóa và đặc điểm kinh tế - xã hội của nước ta để đổi mới tư duy về quản trị quốc gia, quản trị địa phương của Đảng. Với vị trí lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đồng thời là chủ thể thực hiện chức năng hoạch định trong quản trị quốc gia, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành công của quá trình đổi mới quản trị quốc gia ở nước ta./.
PGS TS Nguyễn Quốc Dũng[1]
[1] PGS, TS Nguyễn Quốc Dũng – Giám đốc Học viện Chính trị khu vực II
[2] Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”.
[3] Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 92-93.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.95-96
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H., 2011, tr. 88-89.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H2011, tr. 301
[8] Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa XIII “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, (2021), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr199.