Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Phát huy hệ giá trị gia đình Việt Nam trong quá trình phát triển hiện nay

Ngày phát hành: 15/07/2024 Lượt xem 366

                                           

 

1. Đặt vấn đề

 

Là một thiết chế xã hội đặc biệt, gia đình mang tính ổn định những cũng hết sức linh hoạt. Gia đình không chỉ là nơi bảo tồn nòi giống, duy trì sự tồn tại của nhân loại mà còn là môi trường giáo dục, môi trường văn hoá tốt nhất cho mỗi cá nhân trưởng thành. Gia đình là nơi gắn kết các thành viên, đảm bảo đời sống kinh tế ổn định và lưu giữ, trao truyền những giá trị tốt đẹp của dân tộc như: tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đoàn kết, gắn bó, thuỷ chung, quan tâm, giúp đỡ mọi người… Văn kiện Đại hội XIII đã xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới[3]. Điều này càng khẳng định xây dựng và phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới là một vấn đề hết sức hệ trọng đối với sự phát triển chung của đất nước

 

Những biến đổi của gia đình qua các giai đoạn phát triển của xã hội luôn đòi hỏi một sự định hướng về tiêu chuẩn, giá trị để gia đình có thể dung nạp xu hướng tiến bộ nhưng cũng không bị chia cắt bởi những giá trị tốt đẹp của gia đình truyền thống. Đúc kết về vai trò của hệ giá trị gia đình Việt Nam qua các giai đoạn phát triển, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Qua nhiều thời kỳ phát triển, cấu trúc và quan hệ trong gia đình Việt Nam có những thay đổi, nhưng chức năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng, không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước[4]

 

2. Quan điểm của Đảng  ta về vai trò của gia đình Việt Nam

 

Trong công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, các quan điểm của Đảng về vai trò của hệ giá trị gia đình đã có nhiều đổi mới và phát triển khẳng định tầm quan trọng của hệ giá trị gia đình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) xác định: “Gia đình là tế bào của xã hội, có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hoá mới, bảo đảm hạnh phúc gia đình. Nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, đảm bảo sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hoá của gia đình[5]. Đây là giai đoạn bắt đầu đổi mới đất nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, việc chú trọng chăm lo gia đình là vấn đề cốt lõi quan trọng để xã hội ổn định. Nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận, Đảng chủ trường khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình. Đây là một trong những điểm mới, tạo điều kiện để gia đình có nên tảng kinh tế, có điều kiện vật chất để nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo tiền đề cho phát triển gia đình hạnh phúc.

 

Trong Cương lĩnh 1991 đã chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố: gia đình - nhà trường - xã hội trong việc giáo dục, hình thành nhân cách con người. Trong đó, đề cập “gia đình là tế bào xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách[6]. Có thể nói, lần đầu tiên trong một văn kiện của Đảng, vai trò của gia đình trong mối quan hệ với nhà trường và xã hội đã được khẳng định như là yếu tố đầu tiên, liên tục và quan trọng nhất đối với sự phát triển của mỗi con người. Cương lĩnh cũng chỉ ra những định hướng các chính sách của Nhà nước với gia đình là “phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi lớp người[7]. Cương lĩnh 1991 đã ẩn chứa tiêu chí đảm bảo gia đình hạnh phúc là “no ấm, hòa thuận, tiến bộ”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) 1998 về vai trò của gia đình trong việc thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đại hội nhấn mạnh “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, taọ nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc[8]. Đại hội VIII với mục tiêu là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã đề cao vai trò của gia đình trong giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng với xu thế phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.

Đặc biệt, Chỉ thị số 40-CT/TW về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đây là chỉ thị đầu tiên về gia đình của Trung ương từ sau đổi mới.  Chỉ thị nêu rõ “gia đình là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng trong hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[9]. Xuất phát từ những đóng góp của gia đình cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, trên cơ sở đánh giá khái quát. Chỉ thị xác một một số nhiệm vụ trọng tâm như: Đầu tư cho gia đình là đầu tư cho phát triển bền vững, gia đình có trách nhiệm với các thành viên và với xã hội ; Nhà nước và xã hội có trách nhiệm bảo vệ sự ổn định của gia đình. xây dựng gia đình phải luôn gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

 

Tại Đại hội XI, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh: “Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội” (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển năm 2011). Quan điểm của Đảng cho thấy, muốn có một xã hội phát triển lành mạnh thì trước hết từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tạo ra con người để xây dựng xã hội thì xã hội cũng không thể tồn tại và phát triển được. Gia đình không chỉ giữ vai trò nền tảng, tế bào của xã hội, mà còn là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục đạo đức, lối sống, nơi hình thành nhân cách con người đầu tiên. Gia đình giữ vai trò đặc biệt quan trọng tới số lượng, chất lượng dân số và cơ cấu dân cư của quốc gia. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn, gia đình phải trở thành môi trường tốt nhất, trước tiên để giáo dục cách ứng xử văn hoá, hình thành tính cách, đạo đức, nếp sống con người. Quan điểm của Đảng cho thấy, muốn có một xã hội phát triển bền vững thì trước hết từng “tế bào” phải phát triển lành mạnh. Gia đình không chỉ là “tế bào” tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Mối quan hệ biện chứng giữa no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là những điều kiện cơ bản để gia đình phát triển lành mạnh, ngược lại muốn có một tế bào lành mạnh thì phải xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.

 

Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng khi đề cập đến lĩnh vực gia đình trong nội dung “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người” đã đưa ra nhiệm vụ sau “Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2016). Cũng tại Báo cáo này, Đảng xác định “Coi trọng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em... đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm tổng tỷ suất sinh thay thế, giảm dần sự mất cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh và bảo đảm quyền trẻ em” (Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 2016).

So với thời kỳ trước, thời kỳ này, vai trò của gia đình trong việc giáo dục đạo đức, lối sống hình thành nhân cách người Việt Nam và việc gìn giữ phát huy văn hóa gia đình được nhấn mạnh hơn; gia đình phải tập trung thực hiện vai trò, chức năng này, cũng chính là để xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội phát triển bền vững.

 

Tại Đại hội XIII, việc xây dựng hệ giá trị gia đình cũng như mối quan hệ đặc biệt của nó đối với việc xây dựng các hệ giá trị, xây dựng phát triển đất nước và con người Việt Nam thời đại mới, đã được khẳng định: “Xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh; xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới". Như vậy có nghĩa là muốn xây dựng con người Việt Nam hiện đại với những phẩm chất tốt đẹp, đáp ứng yêu cầu của thời đại, muốn chấn hưng văn hóa, tạo sức mạnh mềm phát triển đất nước và đặc biệt muốn thực hiện khát vọng của dân tộc: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Chúng ta phải tập trung xây dựng “hạt nhân”, “tế bào” của xã hội chính là gia đình.

 

Như vậy, xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, trải qua các kỳ Đại hội Đảng ta luôn đặt gia đình ở vị trí trung tâm của quá trình phát triển. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Con người là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển. Nhưng gia đình lại là nơi khởi nguồn sinh ra con người, nuôi dưỡng, dạy dỗ… để con người trưởng thành. Vì thế, muốn có những con người tốt, muốn có một xã hội lành mạnh thì phải quan tâm xây dựng những gia đình tốt. Mỗi gia đình tốt là cả xã hội tốt, quốc gia tốt. Mỗi gia đình ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh thì xã hội, đất nước mới giàu mạnh, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc. Mỗi gia đình tiến bộ, văn minh sẽ là môi trường tốt để giáo dục, đào tạo nên những đứa con có lối sống chuẩn mực, không vướng vào những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội, luôn sống và làm việc theo pháp luật…có nghĩa là công bằng, dân chủ trong xã hội sẽ được thực hiện.

 

3. Vai trò của hệ giá trị gia đình trong phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay

 

Thứ nhất, hệ giá trị gia đình có vai trò quan trọng trong xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

 

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển với tốc độ như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã khiến tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam ngày càng nhanh hơn. Trong quá trình này con người được xác định là trung tâm của sự phát triển, có vai trò vừa là động lực, vừa là mục tiêu của quá trình phá triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Một nguồn nhân lực cao đáp ứng với yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chuyển đổi số con người với tư cách là công dân số, nguồn nhân lực số phải đáp ứng được những yêu cầu cả về thể lực, trí lực, kỹ lực và tâm lực. Cụ thể phải là một người có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ về khoa học kỹ thuật hiện đại,  có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, kỹ năng nhanh nhạy và nắm bắt kịp thời với những biến đổi của khoa học công nghệ, có sức khoẻ tốt để lao động với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Để đào tạo được một nguồn nhân lực như vậy không thể không nhắc tới vai trò của gia đình.

 

Thực tiễn đã chứng minh, cùng với nhà trường, xã hội, gia đình ngày càng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục con người. Mỗi con người trước khi trở thành công dân, con người của xã hội thì đều là những người con của gia đình, thông qua quá trình xã hội hoá, gia đình sẽ lựa chọn những nội dung và phương pháp khác nhau để giáo dục con cái mình theo xu hướng và yêu cầu, kỳ vọng của xã hội đặt ra trong đó có giáo dục đạo đức, tri thức, lối sống. Gia đình yên vui hạnh phúc sẽ là nguồn nuôi dưỡng thế hệ tương lại khoẻ mạnh về thể chất, lành mạnh về tâm hồn, minh mẫn, sáng trong về trí tuệ…gia đình là nơi tiếp lửa, truyền động lực, định hướng và đồng hành với các thành viên thực hiện những chức năng, xã hội giao phó. Với những chức năng xã hội đặc thù, gia đình vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội, vừa duy trì sự ổn định, trật tự xã hội, tạo ra những chuẩn mực giá trị đạo đức, phong tục, tập quán, truyền thống, bản sắc văn hoá của từng vùng cũng như của cả dân tộc. Gia đình là một mắt xích quan trọng trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cộng đồng, làng xóm, đất nước. Như vậy, hệ giá trị gia đình được nhìn nhận dưới góc độ thực hiện chức năng gia đình, đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

 

Để tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao, chức năng giáo dục của gia đình có vai trò quan trọng nhất. Để trở thành một con người trong xã hội công nghiệp, xã hội số hoá, gia đình sẽ góp phần giáo dục con em trở thành những công dân số có tri thức, hiểu biết và am tường nhất định về chuyển đổi số, có tư tưởng ủng hộ, đồng thuận, xây dựng xã hội số và thích ứng cao với xã hội siêu thông minh; thực hành các chuẩn mực, văn hoá và nguyên tắc ứng xử trong môi trường số. Từ đó, hình thành và phát triển nên những nguồn nhân lực số, có chất lượng. Chuyển đổi số mang đến những công việc mới mẻ với sự tối ưu hoá sức lao động, sự xuất hiện của AI và công nghệ sẽ làm thay đổi về chất của thế giới việc làm, ảnh hưởng đa chiều đến vấn đề lao động, thu nhập và trả lương. Lao động giản đơn sẽ bị cắt giảm, thất nghiệp gia tăng, nhận diện được những thách thức này, các gia đình sẽ đóng vai trò nền tảng, tạo điệu kiện hỗ trợ, giáo dục con em mình cùng với nhà trường, xã hội về kiến thức số, kỹ năng số và thái độ để tạo chuyển biến về mặt nhận thức ngay từ khi con nhỏ, chuẩn bị cho một thế hệ con người trong xã hội số có chất lượng đáp ứng kịp thời với xu hướng chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay.

 

Thứ hai, hệ giá trị gia đình Việt Nam duy trì sự ổn định và phát triển xã hội

 

Thực tiễn cho thấy trải qua nhiều giai đoạn phát triển, hệ giá trị gia đình cũng có những biến đổi phức tạp từ truyền thống tới hiện đại. Đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi số xã hội như hiện nay, sự phát triển của công nghệ truyền thông một mặt tác động tích cực đối với sự phát triển của đời sống xã hội của mỗi người. Mặt khác tạo ra những khoảng cách giữa vô hình các thành viên, các thế hệ trong gia đình, mức độ tương tác, tính kết nối giữa các thành viên bị giảm sút do giới trẻ dành nhiều thời gian cho các thiết bị công nghệ và tương tác ảo trên không gian mạng, theo đuổi những đam mê, lối sống hưởng thụ mà quên đi sợi dây kết nối của gia đình. Mô hình gia đình truyền thống đang thu hẹp lại nhường chỗ cho gia đình hạt nhân, gia đình khuyết thiếu, điều này ảnh hưởng đến việc duy trì nòi giống, giáo dục, trao truyền văn hoá, giá trị gia đình cho thế hệ trẻ, dẫn đến có nhiều thanh, thiếu niên có lối sống, hành vi lệch chuẩn, xem nhẹ những giá trị thiêng liêng của gia đình. Các hiện tượng này diễn ra tạo nên những biến động lớn về hệ giá trị giữa truyền thống và hiện đại với những mẫu thuẫn, bất đồng đang diễn ra.

 

Tuy nhiên, sự ổn định, phát triển của mỗi gia đình góp phần duy trì sự ổn định phát triển của xã hội. Những giá trị văn hoá của gia đình truyền thống mang tính bền vững như: tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, yêu thương, đùm bọc, sẻ chia, truyền thống hiếu học, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ…Ngày nay, những truyền thống tốt đẹp đó vẫn được tiếp tục phát huy lan toả, đồng thời bổ sung những giá trị, chuẩn mực văn hoá mới tạo ra không gian, môi trường văn hoá lành mạnh để điều chỉnh hành vi, suy nghĩ, nhận thức của con người theo hướng nhân văn, tốt đẹp, hạn chế những xung đột, bất đồng, mâu thuẫn đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái thấp hèn. Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập, sự phát triển của công nghệ, Việt Nam có khoảng 77 triệu người sử dụng Internet (chiếm 79,1% dân số). Mạng xã hội cũng trở thành nền tảng quan trọng với hơn 70 triệu người tham gia để truy cập vào các nền tảng của mạng xã hội đặc biệt là giới trẻ[10]. Với vai trò, vị trí và chức năng định hướng, giáo dục gia đình đã phát huy được những ưu việt của thế giới công nghệ khi năng lực ngoại ngữ của giới trẻ được cải thiện, sự giao lưu, kết nối, mở ra kho tàng tri thức nhân loại, những tinh hoa văn hoá được truyền tải rộng rãi; những nét đẹp văn hoá ứng xử trong các mô hình gia đình thuộc cộng đồng, tộc người, tôn giáo trong khu vực và thế giới được lan toả; những giá trị văn hoá mới được xuất hiện và kiến tạo…Đó là lượng tri thức phong phú, đồ sộ mà mỗi thành viên trong gia đình Việt Nam hiện nay có thể tiếp cận, soi chiếu vào hệ giá trị gia đình truyền thống để thấy được nét tương đồng và khác biệt. Những giá trị nào cần được bảo tồn gìn giữ, phát huy, những yếu tố lạc hậu cần nhiện diện để  loại trừ, đặc biệt là biết chọn lọc để ổn định và phát triển.

 

Để duy trì sự ổn đinh và phát triển xã hội, hệ giá trị gia đình đóng vai trò như nhân sinh quan, thế giới quan để định hướng, điều chỉnh hành vi của mỗi con người trong xã hội. Bởi hệ giá trị gia đình là những quy tắc, những chuẩn mực về hành vi ứng xử xác định cách thức hành động của con người “giá trị là cái quy định mực đích của hoạt động và động cơ thúc đẩy hoạt động để đạt múc đích đó[11]. Có thể nói, hệ giá trị gia đình là nền tảng tinh thần, là tổng hoà giá trị về kinh tế, văn hoá, xã hội, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, có vai trò trong duy trì sự ổn định và phát triển xã hội. Như chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình[12].

 

Thứ ba, hệ giá trị gia đình góp phần bảo tồn, giữ gìn bản sắc, văn hoá dân tộc

 

 Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại mà các cộng đồng văn hoá ngày càng xích lại gần nhau, hiểu biết lần nhau để cùng giao lưu, hợp tác và phát triển. Chính trong qua trình đó, sự xuất hiện của nhiều mô hình gia đình đa văn hoá hay gia đình có yếu tố nước ngoài mà một xu thế tất yếu của thế giới và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Sự ra đời và phát triển của gia đình đa văn hoá tác động không nhỏ đến văn hoá gia đình Việt Nam, đặt ra những thách thức trong việc gìn giữ, bảo vệ các giá trị cốt lõi của hệ giá trị gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, dù trong bối cảnh nào của quá trình phát triển gia đình Việt Nam vẫn là một thiết chế xã hội quan trọng, là nơi bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống, nơi lưu giữ và trao truyền giá trị tộc người. Với cái nôi gia đình, các giá trị văn hoá truyền thống lẫn hiện đại được thẩm thấu một cách tự nhiên thông qua việc tổ chức cuộc sống có nề nếp gia phong, gia đạo, dạy dỗ, ứng xử, giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong gia đình. Các thế hệ đi trước truyền thụ, bồi đắp những giá trị văn hoá truyền thống tộc người, góp phần tạo nên nhân cách văn hoá mang dấu ấn cốt cách, bản lĩnh, trí tuệ và tâm hồn của mỗi tộc người trong thế hệ trẻ. Đây cũng chính là hướng giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống giữa các dân tộc một cách bền vững.

 

4. Những khó khăn và thách thức trong việc phát huy vai trò của hệ giá trị gia đình Việt Nam

 

Thứ nhất, kinh tế thị trường với với những áp lực về kinh tế, thời gian, sức khoẻ đã khiến các mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo. Tính gắn kết, chia sẻ, tương trợ, tôn trọng và nhường nhịn lẫn nhau trong gia đình đang có những thay đổi do cấu trúc gia đình thay đổi từ “tam, tứ đại đồng đường” thay bằng “gia đình hạt nhân”, gia đình cha mẹ đơn thân, gia đình đồng tính…Những gia đình kiểu mới phản ánh tính thu hẹp, giản tiện các mối quan hệ phức tạp trong gia đình đông đúc, nhiều thành phần, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội và cuộc sống bận rộn. Nhưng mặt khác lại phản ánh những xung đột trong hệ giá trị gia đình khi sự liên kết, hỗ trợ chia sẻ, yêu thương giữa các thành viên ngày càng ít đi do lối sống “gấp” và “vội”. Những người trẻ sống lệ thuộc vật chất, xao nhãng tình cảm gia đình, tìm kiếm những giá trị “ảo”, biểu hiện “lệch chuẩn” với những giá trị đạo đức, phẩm chất con người. Đây là cơ sở dẫn đến những “rạn nứt” trong quan hệ tình cảm gia đình. Yếu tố gắn kết cá nhân, gia đình, làng xóm ngày nay trở nên hời hợt, xa cách hơn so với gia đình truyền thống.

 

Thứ hai, hiện nay sự sẻ chia, bình đẳng, yêu thương giữa vợ và chồng có đã có những thay đổi theo hướng tích cực, tiến bộ so với gia đình truyền thống. Tuy nhiên, trong một số gia đình Việt Nam, sự sẻ chia công việc nội trợ giữa người chồng và người vợ vẫn còn hạn chế, người phụ nữ vẫn đảm nhận “gánh nặng kép”, vừa làm việc xã hội, vừa gánh vác việc gia đình nhưng không được coi trọng đúng mức. Bất bình đẳng vẫn diễn ra khi quyền quyết định những công việc quan trọng, vai trò làm chủ gia đình vẫn là chuẩn mực xã hội ít được thay đổi, vẫn thuộc về người đàn ông là chủ yếu. Bạo lực gia đình vẫn diễn ra nghiêm trọng, có đến 63% phụ nữ từng kết hôn hoặc có chồng trải qua ít nhất một hình thức bạo lực bởi chồng hoặc bạn tình[13], tình trạng bạo lực của phụ nữ và nam giới đang có xu hướng gia tăng. Gắn với bạo lực gia đình là ly hôn, tỷ lệ phụ nữ ly hôn ngày càng nhiều và độ tuổi ngày càng giảm. Đằng sau những lá đơn ly hôn phản ánh một sự thật là tác động của kinh tế thị trường đã ngày càng len lỏi vào đời sống gia đình, chi phối tình cảm vợ chồng dẫn tới những cuộc li hôn đáng tiếc. Hậu quả của bạo lực gia đình và ly hôn là sự phát triển thiếu toàn diện của con cái, sự tôn trọng của con cái đối với cha mẹ bị ảnh hưởng và sự bất ổn định của xã hội khi “một tế bào của xã hội không khoẻ mạnh”.

 

Thứ ba, trách nhiệm của cha mẹ là nuôi dưỡng và giáo dục con cái trưởng thành. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay, một bộ phận cha mẹ không điều kiện quan tâm đầy đủ đến con cái. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá một mặt thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mặt khác cũng gây ra những trở ngại đối với sự quan tâm của cha mẹ đối với con cái. Quá trình di cư nội địa và quốc tế dẫn tới sự “phân ly gia đình”, trẻ em thiếu đi sự chăm sóc trực tiếp và tình cảm yêu thương của cha mẹ. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu tính gắn kết và nhiều hành vi lệch chuẩn diễn ra ở trẻ em hiện nay khi thiếu đi sự giáo dục của cha mẹ, trong khi giáo dục xã hội chưa đủ sức để thay thế. Bên cạnh đó, quá trình di cư và xu thế hạt nhân hoá gia đình đã gây ra tình trạng khó khăn trong chăm sóc cha mẹ cao tuổi. Tình trạng ly hôn, ly thân và quá trình di cư để tìm kiếm việc làm khiến cho người cao tuổi càng cô đơn và thiếu nơi nương tựa. Người cao tuổi phải sống một mình, đôi khi còn phải chăm sóc cháu và tự chăm sóc bản thân. Con cái chủ yếu chăm sóc về mặt vật chất còn đời sống tinh thần thì bỏ bê do không có thời gian, không sẵn sàng lắng nghe và giữa hai bên thiếu sự quan tâm chung. Điều đó dẫn đến tình trạng cô đơn của người cao tuổi trong gia đình hiện nay.

 

Điều lo ngại nhất hiện nay là tình trạng người cao tuổi bị bạo lực thể chất và tinh thần do con đẻ của mình có dấu hiệu gia tăng. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường với sự đề cao lợi ích kinh tế cũng dẫn đến mâu thuẫn trong việc chăm sóc bố mẹ hay chia tài sản thừa kế giữa anh em trong cùng gia đình. Nhiều vụ việc đau lòng liên quan đến tài sản thừa kế đã xảy ra, gây mất tình cảm anh em và đang là hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp của mối quan hệ này.

 

Thứ tư, sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như chuyển đổi số quốc gia là những tác nhân tạo ra những thời cơ và thách thức cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những biến đổi này ảnh hưởng đến tương tác xã hội, quan hệ xã hội, giao tiếp xã hội cho đến các vấn đề về chính trị, xã hội, kinh tế...Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã tác động mạnh mẽ và làm biến đổi các chuẩn mực xã hội, giá trị xã hội đang tồn tại, đòi hỏi phải có chuyển đổi để thích ứng với những nhu cầu của xã hội hiện đại và phát huy được tính tính cực cao nhất, hệ giá trị gia đình Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó.

 

Xây dựng hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay là sự cần thiết nhằm củng cố vai trò của gia đình trong bối cảnh mới. Là thiết chế xã hội đặc biệt, gia đình vừa mang tính bền vững nhưng cũng hết sức linh hoạt. Những biến đổi của gia đình trong các giai đoạn phát triển đã chứng minh gia đình vừa có thể dung nạp những xu hướng tiến bộ của xã hội nhưng cũng không bị chia cắt với chuẩn mực đã được hình thành từ trong lịch sử. Vừa phản ánh được trình độ phát triển thực tế của Việt Nam trong giai đoạn mới, vừa phản ánh được bản chất của hệ giá trị gia đình Việt Nam truyền thống. Giữ gìn, vun đắp cho hệ giá trị gia đình Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, góp phần hình thành những con người mới để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.

 

5. Một số giải pháp phát huy vai trò hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay.

 

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xây dựng gia đình. Nhận thức đúng về vai trò, tầm quan trọng của gia đình và công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới. Xác định gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững đất nước. Gia đình là đối tượng tác động, thực hiện và thụ hưởng chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh là một trong những nội dung quan trọng, yêu cầu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng gia đình; phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu các cấp về công tác xây dựng gia đình. Cán bộ, đảng viên phải nêu gương và vận động nhân dân tích cực tham gia xây dựng gia đình hạnh phúc. Tiếp tục xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu. Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, định hướng giá trị, giáo dục thế hệ trẻ. Kiên quyết đấu tranh chống lối sống thực dụng, tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình. Khắc phục bệnh thành tích, hình thức trong công tác xây dựng gia đình.

 

Thứ hai, Nhà nước và các cấp chính quyền cần quan tâm thoả đáng tới công tác xây dựng gia đình bằng những giải pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là trước những thay đổi về giá trị gia đình hiện nay. Tiếp tục thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trong đó lấy gia đình là trọng tâm và xây dựng gia đình bảo đảm sự gắn kết xã hội và vai trò chăm sóc các thành viên trong gia đình. Tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về hôn nhân, gia đình, phòng chống bạo lực và thực hiện bình đẳng giới trong gia đình ngày một tốt hơn.

 

Thứ ba, tuyên truyền và giáo dục truyền thông để các gia đình coi trọng và chăm lo giáo dục trong gia đình. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của khoa học công nghệ tác động không nhỏ đến cuộc sống gia đình, nên cần hết sức coi trọng giáo dục cho thế hệ trẻ. Nội dung giáo dục cần chú trọng tính toàn diện bao gồm: giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống, cách thức làm việc, hành vi ứng xử, trau dồi và tiếp cận tri thức để đáp ứng với yêu cầu của xã hội, với những chuẩn mực và giá trị của xã hội hiện đại ngày nay. Nghiên cứu xây dựng ban hành và thực hiện Chương trình quốc gia về giáo dục làm cha mẹ, cung cấp kiến thức, kỹ năng và phương pháp giữ gìn hạnh phúc gia đình, giáo dục, bảo vệ trẻ em để xây dựng gia đình hạnh phúc và tiến bộ.

 

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật, chính sách, phát triển hệ giá trị gia đình trong thời kỳ mới; Hoàn thiện pháp luật và chính sách; các luật đang được sửa đổi và hoàn thiện như: Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật người cao tuổi, Luật trẻ em…Thực hiện chiến lược phát triển gia đình đến năm 2030; Chú trọng giữ gìn, phát triển các giá trị gia đình. Các chính sách xây dựng, phát triển gia đình được lồng ghép trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các chương trình mục tiêu quốc gia. Xây dựng các tiêu chí giữ gìn, phát triển gia đình, trong đó có các tiêu chí cụ thể về thế hệ gia đình, xác định rõ những tiêu chí đáp ứng các giá trị cốt lõi của gia đình hướng tới “ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh” .

 

   Đặng Thị Ánh Tuyết[1] & Lê Thị Thuỳ Linh[2]

 

                 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 143
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, T.12, Tr.300
  3. Hồ Chí Minh, Nam nữ bình quyền, tháng 3 năm 1952
  4. Hồ Chí Minh, Nam nữ bình quyền, tháng 3 năm 1952
  5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, t.12, tr.300
  6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 187
  7. Lê Ngọc Văn, Hạnh phúc của người Việt Nam; Khái niệm, cách tiệp cận và chỉ số đánh giá, Nxb Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM, 2019.
  8. Nguyễn Phú Trọng, “Văn hoá soi đường cho quốc dân đi”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12-2021, Tr.19.
  9. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Điều 17
  10. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006, Tr.49-50
  11. Phạm Minh Hạc: Giá trị học, Nxb Dân trí, Hà Nội,2012, Tr46.
  12. Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2003
  13. Từ điển mở Wikipedia
  14. Văn Tạo - Furuta Motoo, Sđd, tr.699


[1] PGS.TS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

[2] ThS Giảng viên Khoa Xã hội học và Phát triển, Học viện Chính trị Khu vực II

[3] Nguyễn Phú Trọng, “Văn hoá soi đường cho quốc dân đi”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 12-2021, Tr.19.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư về xây dựng gia đình trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hà Nội, ngày 21/2/2005

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.47. Tr.429-430

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.51, Tr.141

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.51, Tr.141

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđđ, t.65. Tr.203

[9] Chỉ thị số 49-CT/TW về xây dựng gia đình trong thời kỳ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngày 21/02/2005

[10] https://www.vnetwork.vn/news/internet-viet-nam-2023-so-lieu-moi-nhat-va-xu-huong-phat-trien/

[11] Phạm Minh Hạc: Giá trị học, Nxb Dân trí, Hà Nội,2012, Tr46.

[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđđ, T.12, Tr.300

[13] Tổng cục Thống kê; 2021

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết