Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Quán triệt và xử lý tốt các mối quan hệ lớn (phần 1)

Ngày phát hành: 28/10/2019 Lượt xem 4653

 

Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới, mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước. Qua gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cùng với những thành tựu thực tiễn đạt được trên các lĩnh vực, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên CNXH ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Trong đó, những quan điểm, nhận thức về những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững, quán triệt là một trong những thành tựu quan trọng trong phát triển tư duy lý luận của Đảng ta. Nhận thức đó được hình thành từng bước trên cơ sở tổng kết thực tiễn đổi mới. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng chưa nêu các mối quan hệ lớn. Trên cơ sở tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần phải nắm vững và giải quyết các mối quan hệ lớn: giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Sau 5 năm thực hiện, đến năm 2016, Đại hội XII của Đảng nói rõ hơn mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật của thị trường và bảo đảm định hướng XHCN”; đồng thời bổ sung thêm một quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt là “mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường” trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mối quan hệ này, đến Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa XII, năm 2017) được bổ sung, phát triển thêm, thành mối quan hệ “giữa nhà nước, thị trường và xã hội”.

Như vậy, đến nay, Đảng ta đã nêu ra 9 mối quan hệ lớn đòi hỏi phải nắm vững, quán triệt, giải quyết tốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta là: (1) giữa đổi mới, ổn định và phát triển; (2) giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; (3) giữa tuân theo các quy luật của thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; (4) giữa nhà nước, thị trường và xã hội; (5) giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; (6) giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; (7) giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc XHCN; (8) giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; (9) giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

Các thành tố trong mỗi mối quan hệ đều là những nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, những thành tố này một mặt, có thể phối hợp, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mặt khác, lại có thể tạo nên những mâu thuẫn, cản trở nhau khi không được nhận thức và giải quyết đúng, làm ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của đất nước. Nhận thức đúng đắn để giải quyết tốt các mối quan hệ này là hết sức quan trọng đối với Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1. Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển

Đổi mới trong quan hệ này là công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đất nước ta thực hiện từ Đại hội VIII của Đảng (năm 1986) đến nay. Đó là đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đổi mới thể chế, luật pháp, cơ chế chính sách để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới các lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, văn hóa, xã hội; đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng... Đường lối của Đảng là đổi mới toàn diện mọi lĩnh vực nhưng có bước đi thích hợp phù hợp với tình hình đất nước. Đổi mới bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, đến nay đã được tiến hành đồng bộ trên nhiều lĩnh vực; đồng thời, đổi mới là quá trình liên tục mới đáp ứng được yêu cầu phát triển không ngừng của đất nước.

Ổn định trong quan hệ này là ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Chính trị ổn định là giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giữ vững chế độ XHCN, ổn định quan hệ dân tộc, tôn giáo...; không để xảy ra những rối loạn, gây mất ổn định chính trị. Kinh tế ổn định là ổn định giá cả, ổn định tài chính, tiền tệ, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định môi trường đầu tư kinh doanh, ổn định thị trường, giữ vững các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định sản xuất, các ngành, các lĩnh vực kinh tế..., không để xảy ra rối loạn, khủng hoảng kinh tế. Xã hội ổn định là giữ vững trật tự, an toàn xã hội, cuộc sống bình yên của nhân dân; luật pháp, kỷ luật, kỷ cương được tôn trọng, dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm; quan hệ trong nội bộ nhân dân, các tầng lớp xã hội và quan hệ giữa nhân dân với Nhà nước ổn định, xã hội đồng thuận; các mâu thuẫn xã hội được giải quyết kịp thời không để phát sinh thành xung đột, khủng hoảng xã hội.

Phát triển trong quan hệ này là sự phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh cao; văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế phát triển; tiềm lực mọi mặt của đất nước tăng lên; thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên; tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước được tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở rộng, uy tín quốc tế của đất nước tăng lên; tiến tới trở thành một nước công nghệ hiện đại, một nước phát triển có thu nhập cao.

Mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển là quan hệ biện chứng, tác động qua lại, hỗ trợ thúc đẩy lẫn nhau. Ổn định là cơ sở, là điều kiện để đổi mới, đổi mới là cơ sở, là điều kiện để phát triển, do đó ổn định cũng là cơ sở, điều kiện để phát triển. Không có ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, thậm chí chỉ không ổn định một trong các yếu tố đó, mất ổn định chính trị hay mất ổn định kinh tế, hay mất ổn định xã hội đều không thể có đổi mới, không thể có phát triển. Trong mối quan hệ giữa 3 yếu tố này, ổn định là cơ sở, điều kiện; đổi mới là phương thức, là động lực, phát triển là mục tiêu. Nếu không có đổi mới thì cũng không thể có phát triển. Đồng thời nếu không có đổi mới, không có phát triển thì không thể cải thiện được đời sống nhân dân, không thể ngăn ngừa và giải quyết các mâu thuẫn, xung đột xã hội, do đó không thể duy trì được ổn định bền vững. Đổi mới, phát triển lại là điều kiện để bảo đảm cho ổn định bền vững.

Tuy nhiên, trong thực tế, đã có những nhận thức và giải quyết không đúng mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, do đó, đã đưa đến những kết quả tiêu cực. Có người vì để giữ gìn, bảo vệ sự ổn định mà lo ngại không dám đổi mới, chậm đổi mới, do đó đã cản trở sự phát triển. Sự ổn định này đồng nghĩa với bảo thủ, trì trệ, do đó, ổn định chỉ là tạm thời, không vững chắc. Sự lạc hậu về trình độ phát triển đất nước đến một thời điểm nào đó sẽ phá vỡ trạng thái ổn định, gây rối loạn đất nước mà Nhà nước không thể kiểm soát nổi, hậu quả sẽ rất lớn. Ngược lại, có người muốn đổi mới để phá vỡ trạng thái trì trệ, phát triển đất nước, nhưng chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đưa ra đường lối đổi mới sai lầm, xác định nội dung, bước đi của đổi mới không đúng, đi từ sai lầm này đến sai lầm khác, không chỉ không phát triển được đất nước, mà còn làm rối loạn đất nước, rối loạn xã hội. Đây là những bài học phản diện đã từng xảy ra trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, cần phải tránh. Đổi mới phải đúng đắn, chỉ có đổi mới đúng đắn mới đưa đến sự phát triển và ổn định của đất nước.

Mặc dù đến Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta mới nêu lên và đưa vào Cương lĩnh của Đảng những mối quan hệ lớn cần nắm vững và giải quyết tốt, trong đó có quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; nhưng thực tiễn cho thấy ngay từ những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ này. Đảng ta đã giữ ổn định chính trị, kinh tế, xã hội đất nước, lựa chọn tiến hành đổi mới trước hết trong lĩnh vực kinh tế, tập trung vào tháo gỡ khó khăn cho kinh tế phát triển, từ đó, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, củng cố nền tảng để ổn định xã hội; từ đổi mới kinh tế mở rộng đổi mới sang các lĩnh vực khác, tiến tới đổi mới toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực. Đường lối đổi mới đúng đắn đó là nguyên nhân, là động lực để đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử được nhân dân ta và bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Tuy nhiên, như đánh giá của Đại hội XII của Đảng, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện mà nguyên nhân do công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được kịp thời một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới và do những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng. Điều này đã làm cho ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định kinh tế, xã hội; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại không đạt được; tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi... Hơn nữa, tình hình thế giới và khu vực đang có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp cả về chính trị, an ninh, kinh tế xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, những diễn biến mới của biến đổi khí hậu toàn cầu... đang tác động trực tiếp đến sự ổn định, phát triển của đất nước. Điều đó đòi hỏi các cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương phải tiếp tục quán triệt nhận thức đúng đắn và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong bối cảnh mới hiện nay; phải quán triệt và xử lý mối quan hệ này một cách đúng đắn trước khi quyết định những vấn đề lớn của đất nước, của ngành, lĩnh vực, của địa phương. Không vì ổn định mà rơi vào bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ thời cơ; không vì đổi mới mà chủ quan, duy ý chí, nóng vội; ổn định, đổi mới phải hướng tới mục tiêu phát triển và ổn định ở trình độ cao hơn.

2. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị

Đảng ta khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đổi mới toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực, nhưng đó là một quá trình, có bước đi phù hợp với từng giai đoạn. Đổi mới được bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, đổi mới kinh tế được chọn là khâu đột phá đầu tiên, rồi từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực chính trị, một lĩnh vực được xem là nhạy cảm. Từ Đại hội VIII, Đảng ta đã xác định “kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”[1]. Quan điểm về gắn kết giữa đổi mới kinh tế với từng từng bước đổi mới chính trị, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị tiếp tục được xác định trong văn kiện các Đại hội Đảng sau này, từ khóa IX đến khóa XII. Đại hội XII chủ trương phải “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”[2].

Đổi mới kinh tế là đổi mới tư duy, đổi mới chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách kinh tế của Nhà nước để chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế, phát triển nền kinh tế trở thành nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế và không ngừng củng cố, tăng cường các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển; đồng thời, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không ngừng nâng cao trình độ khoa học - công nghệ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, nước phát triển, có thu nhập cao.

Đổi mới chính trị không phải là từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới chính trị là đổi mới tư duy, đổi mới chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước để xây dựng bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị tinh gọn, có chất lượng cao; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân, vì dân, liêm chính, kiến tạo phát triển, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; tạo ra sự vận hành hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trên thực tế để nước ta trở thành nước XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là quan hệ biện chứng, có tác động qua lại, có ý nghĩa rất quan trọng, đồng thời rất nhạy cảm. Để nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ này, có nhiều vấn đề cần được làm rõ. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng, về lâu dài là yếu tố quyết định kiến trúc thượng tầng. Nhưng kiến trúc thượng tầng chính trị, trực tiếp là Nhà nước, có tác động rất lớn đến cơ sở hạ tầng kinh tế, kiềm hãm hay thúc đẩy phát triển kinh tế, định hướng cho phát triển kinh tế. Các nền kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới ngày nay đều là nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, kể cả những nền kinh tế thị trường được xem là tự do nhất, như Anh, Mỹ. Ở nhiều nước, như Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc tạo ra sự phát triển “thần kỳ” trở thành những nước phát triển trong một thời gian ngắn.

Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ giữa ổn định và phát triển. Không có ổn định, nhất là ổn định chính trị thì không thể có sự phát triển. Đây là thực tế, là bài học đã xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Ngược lại, nếu không có phát triển thì không thể có ổn định vững chắc, lâu dài. Sẽ khó có cách mạng xã hội hay thay đổi chính phủ của một nước khi kinh tế nước đó đang có được những thành tựu phát triển, việc làm và đời sống của người dân được cải thiện.

Quan hệ giữa kinh tế và chính trị còn là quan hệ trong việc xác định định hướng, những ưu tiên phát triển của nền kinh tế. Đều là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, nhưng ở các nước phát triển trên thế giới hiện nay, tùy theo quan điểm của Đảng cầm quyền mà các nền kinh tế này có những định hướng khác nhau, cách giải quyết khác nhau đối với các vấn đề kinh tế, xã hội, hình thành nên những mô hình kinh tế thị trường khác nhau: kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường phúc lợi. Ở nước ta, quan hệ giữa kinh tế và chính trị còn là mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN. Quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển, không ngừng củng cố, tăng cường những yếu tố đảm bảo định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường.

Ngay từ khi bắt đầu đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã nhận thức và giải quyết đúng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, bắt đầu từ đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới chính trị. Đây là quan điểm, chủ trương đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước. Thời kỳ trước Đại hội VI của Đảng, sau thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước, lòng tin của nhân dân ta vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa rất cao, chế độ chính trị đất nước ổn định. Tuy nhiên, đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Đổi mới trở thành yêu cầu cấp bách. Giữ vững ổn định chính trị, đổi mới kinh tế là bước đột phá, bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhận thức, từ đó đổi mới chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xem đó là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Đồng thời, sau khi đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, từ Hội nghị Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) đến nay, Đảng ta lại tiếp tục thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa không ngừng được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với tình hình đất nước và sự phát triển của khoa học công nghệ trên thế giới, hiện nay là phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra.

Cùng với đổi mới kinh tế, để tháo gỡ khó khăn của đổi mới kinh tế, tạo tiền đề, để đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế đặt ra, thúc đẩy phát triển kinh tế, Đảng ta đã từng bước đổi mới chính trị, đổi mới nhận thức, tư duy, chủ trương, quan điểm làm cơ sở để Nhà nước đổi mới luật pháp, chính sách về vai trò, chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước; tách quản lý kinh tế của Nhà nước khỏi quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tách vai trò quản lý nhà nước của các bộ, ngành với chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp; phát huy vai trò của thị trường trong việc xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ, huy động, phân bổ các nguồn lực phát triển, trực tiếp điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, lưu thông hàng hóa, dịch vụ; tách các đơn vị sự nghiệp cung ứng dịch vụ công khỏi các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công... Phương thức lãnh đạo của Đảng, phương thức quản lý của Nhà nước có nhiều đổi mới. Là Đảng cầm quyền, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng lãnh đạo đất nước chủ yếu bằng Nhà nước, qua Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, định hướng, chính sách lớn (trong Cương lĩnh, Nghị quyết, chỉ thị), bằng tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước, bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, bằng công tác tuyên truyền, vận động và kiểm tra của Đảng. Phương thức quản lý của Nhà nước cũng đổi mới rất nhiều. Nhà nước quản lý bằng pháp luật, chính sách, xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường cho nền kinh tế hoạt động; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước để điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ ổn định kinh tế vĩ mô... Đồng thời với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của hệ thống chính trị cũng có nhiều đổi mới theo hướng tinh gọn để nâng cao chất lượng, hiệu lực hiệu quả.

Những đổi mới kinh tế và từng bước đổi mới chính trị đó là những yếu tố có ý nghĩa quyết định tạo nên những thành tựu đất nước đạt được trong những năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, như Đảng ta nhiều lần đánh giá, đổi mới chính trị còn chậm, chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế. Đại hội XII đánh giá “Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN còn có nhiều điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế, làm ảnh hưởng đến sự thống nhất quyền lực Nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, còn chồng chéo, tính công khai, minh bạch, khả thi, ổn định hạn chế... Cải cách hành chính còn chậm, thủ tục hành chính còn phiền hà, đang là rào cản lớn đối với việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, minh bạch, hiệu quả cho phát triển”[3], “Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu chưa rõ”[4], “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi”[5]. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng lớn, cản trở đổi mới kinh tế, cản trở sự phát triển cần phải được khắc phục.

Xử lý mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị hiện nay đòi hỏi cần tập trung vào một số việc trọng tâm sau:

- Phải sắp xếp lại, tinh giảm bộ máy tổ chức của cả hệ thống chính trị; phân định, xác định rõ, khắc phục tình trạng chồng chéo về tổ chức, về chức năng nhiệm vụ giữa các tổ chức Đảng và Nhà nước, giữa các cơ quan nhà nước; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, của từng chức danh cán bộ, công chức, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu; đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, có cơ chế kiểm soát quyền lực để ngăn ngừa, phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi lạm dụng quyền lực; nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong việc tổ chức thực hiện...

- Nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế của các cấp, các ngành, lĩnh vực; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng, công khai, minh bạch cho đầu tư, sản xuất kinh doanh; phát huy vai trò của thị trường trong huy động, phân bổ các nguồn lực sản xuất, nhất là các nguồn lực của Nhà nước (đất đai, tài nguyên, vốn đầu tư của Nhà nước), xóa bỏ cơ chế “xin - cho”, sự can thiệp của các cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức. Đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức liêm chính, có đức, có tài; có cơ chế phát hiện, trọng dụng nhân tài, phát hiện, thay thế kịp thời cán bộ, công chức có sai phạm, không hoàn thành nhiệm vụ, mất uy tín với nhân dân.

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Cụ thể hóa quan điểm Đảng (tổ chức đảng và đảng viên) hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về hoạt động của mình thành các quy định, quy chế cụ thể để thực hiện và giám sát việc thực hiện. Tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, phát huy vai trò của thị trường và xã hội, quyền làm chủ của nhân dân.

3. Quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được Đảng ta xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN là hai yếu tố đặc trưng, hai yêu cầu cốt lõi của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, đòi hỏi phải nhận thức và giải quyết đúng đắn để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Để phát triển kinh tế thị trường, phải tôn trọng và tạo điều kiện cho các quy luật của kinh tế thị trường hoạt động, phát huy vai trò của mình. Đó là các quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ. Đây là những quy luật đặc trưng, riêng có của nền kinh tế thị trường. Các quy luật này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo nên cơ chế vận hành của nền kinh tế (quyết định giá cả, huy động, phân bổ các nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, thanh lọc doanh nghiệp yếu kém...), tạo nên động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo, không ngừng cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, do đó, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, các quy luật kinh tế này, một cách khách quan, tự phát, cũng tạo nên những hậu quả tiêu cực: đưa nền kinh tế tới những cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, phá hủy lực lượng sản xuất xã hội, đẩy lùi sự phát triển kinh tế; làm phân hóa sâu sắc về thu nhập, tài sản giữa các tầng lớp xã hội, đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Phát triển kinh tế tự phát theo con đường này còn làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường. Ở các nước tư bản phát triển, sự can thiệp, vai trò điều tiết của nhà nước đã hạn chế, làm giảm tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế, của sự phân hóa xã hội và hủy hoại môi trường do các quy luật kinh tế thị trường tự phát tạo ra, nhưng không thể hoàn toàn xóa bỏ được những hậu quả tiêu cực này.

Ở nước ta, thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế thị trường, Đảng ta đã xác định đó phải là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; sử dụng, phát huy mặt tích cực của các quy luật của kinh tế thị trường nhưng đồng thời phải hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của nó, không đưa đất nước đi theo con đường tư bản mà phát triển đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, lấy con người làm trung tâm, phát triển vì con người, không để ai bị bỏ lại phía sau. Kinh tế thị trường, với vai trò của các quy luật kinh tế riêng có của mình, là phương thức phát triển và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phát triển của nền kinh tế. Không thể thực hiện được mục tiêu xã hội chủ nghĩa nếu không phát triển kinh tế thị trường, bằng kinh tế thị trường để tạo ra động lực cho phát triển kinh tế. Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế phát triển cao, có năng suất hiệu quả và sức cạnh tranh cao. Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi phải tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi cho các quy luật của nền kinh tế thị trường hoạt động, phát huy vai trò của mình; đồng thời, phải tạo ra được những yếu tố trong cơ cấu, trong cơ chế vận hành của nền kinh tế để hạn chế tác động tiêu cực do tác động tự phát của các quy luật của kinh tế thị trường, bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế. Những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN không gây cản trở những tác động tích cực của các quy luật của kinh tế thị trường. Giữa các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng XHCN có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đều do những yếu tố trong cơ cấu và cơ chế vận hành nền kinh tế tạo ra, cùng tạo ra động lực, cơ chế điều tiết để thúc đẩy phát triển và định hướng phát triển của nền kinh tế.

Tuy nhiên, đến nay, vẫn có những nhận thức, quan điểm cho rằng giữa kinh tế thị trường, các quy luật của kinh tế thị trường và định hướng XHCN của nền kinh tế là hoàn toàn đối lập nhau, phủ định lẫn nhau, không thể hòa hợp; không thể có một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn định hướng XHCN vào nền kinh tế thị trường là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không thể thực hiện được. Nhưng đây là những nhận thức, quan điểm sai lầm, xuất phát từ chỗ cho rằng cơ sở kinh tế của CNXH phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp và kinh tế thị trường là riêng có của chủ nghĩa tư bản. Thực tế lịch sử cho thấy, kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, đối lập với kinh tế thị trường, đã đưa hệ thống các nước XHCN trên thế giới trước đây rơi vào khủng hoảng trầm trọng, không chứng tỏ được sự ưu việt so với chủ nghĩa tư bản, do đó đã sụp đổ. Kinh tế thị trường, các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, đã ra đời cùng với sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Cả kinh tế thị trường và chủ nghĩa tư bản đều là sản phẩm, thành quả phát triển của nhân loại trên con đường phát triển của mình. Chủ nghĩa tư bản đã biết sử dụng kinh tế thị trường để tạo ra sự phát triển kinh tế nhảy vọt trong hơn 3 thế kỷ qua. Đồng thời, trong quá trình đó kinh tế thị trường chủ nghĩa tư bản cũng đã có rất nhiều điều chỉnh, thay đổi từ cơ cấu sở hữu, mô hình tổ chức và kinh doanh của doanh nghiệp tới sự tham gia và vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước, khác rất xa kinh tế thị trường khi chủ nghĩa tư bản mới ra đời và dù đều có những đặc trưng chung, cơ bản của kinh tế thị trường, nhưng ở các nước khác nhau, do những khác nhau về truyền thống lịch sử, văn hóa, trình độ phát triển và nhất là do quan điểm khác nhau của nhà nước, của đảng cầm quyền đã tạo nên nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau: kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường phúc lợi, kinh tế thị trường nhà nước phát triển... Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản phát triển hiện nay trên thế giới, đã xuất hiện những nhân tố mới, phủ định chế độ tư bản, hướng tới chủ nghĩa xã hội như một xu hướng tất yếu, khách quan. Do đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không phải là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí kinh tế thị trường và định hướng XHCN, mà là một mô hình kinh tế thị trường ở những nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhưng, do tính chất của thời đại, có thể bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.

Trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, nhận thức, quan điểm của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về giải quyết mối quan hệ giữa các quy luật của nền kinh tế thị trường và định hướng XHCN ngày càng rõ, đầy đủ, hoàn thiện hơn. Đến Đại hội XII của Đảng, kinh tế thị trường định hướng XHCN được xác định là nền kinh tế thị trường hiện đại hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Quan điểm của Đảng được Nhà nước thể chế hóa thành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tạo ra môi trường thuận lợi cho các quy luật của kinh tế thị trường vận động, phát huy vai trò, đồng thời làm hình thành, củng cố và phát triển các nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Cụ thể là: trong nền kinh tế đã hình thành và phát triển nhiều hình thức sở hữu: sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân), sở hữu nước ngoài; trên cơ sở đó hình thành, phát triển nhiều thành phần kinh tế: kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Quản lý kinh tế của Nhà nước được đổi mới, Nhà nước quản lý bằng pháp luật, cơ chế chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, tách khỏi quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, bình đẳng trước pháp luật; các thị trường được hình thành, phát triển ngày càng đồng bộ... Đây chính là cơ sở để cho các quy luật của kinh tế thị trường hoạt động, phát huy tác động của mình, để thị trường là yếu tố chủ yếu quyết định giá cả hàng hóa, dịch vụ, huy động và phân bổ các nguồn lực, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, đào thải những doanh nghiệp yếu kém, tương tự như trong một nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế.

Đồng thời, với sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cũng hình thành, từng bước được củng cố và phát triển. Cùng với khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, kinh tế nhà nước, cả doanh nghiệp nhà nước và việc huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước, đều được đổi mới để nâng cao hiệu quả, để thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể được hỗ trợ, khuyến khích phát triển. Luật pháp, chính sách của Nhà nước khuyến khích định hướng gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển con người, bảo vệ môi trường sinh thái; thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; khuyến khích làm giàu, đồng thời xóa đói, giảm nghèo, hạn chế sự phân hóa xã hội, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế như nêu trên đã góp phần tạo nên những thành tựu của đất nước trong những năm qua. Tuy nhiên, việc giải quyết mối quan hệ này, việc tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, cũng như việc bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, còn nhiều vấn đề vẫn cần phải tiếp tục được giải quyết. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế vẫn còn chưa thực sự được cạnh tranh bình đẳng, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ quan trọng còn chưa được xác định theo cơ chế thị trường mà vẫn do Nhà nước quyết định. Việc huy động, phân bổ các nguồn lực, nhất là các nguồn lực của Nhà nước (đất đai, tài nguyên, vốn đầu tư...), vẫn còn theo cơ chế “xin - cho”, chưa phải chủ yếu do thị trường quyết định thông qua đấu thầu cạnh tranh công khai, minh bạch. Nhiều thị trường còn chưa phát triển, vận hành thông suốt, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất (thị trường đất đai, thị trường tài nguyên khoáng sản, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ), thậm chí thị trường các yếu tố sản xuất còn bị cơ chế “xin - cho”, các thủ tục hành chính phiền hà, sự nhũng nhiễu của những cán bộ quản lý suy thoái làm cho méo mó... Những yếu tố này làm cho các quy luật của kinh tế thị trường không thể vận hành đầy đủ, đồng bộ để phát huy tác động tích cực của mình. Mặt khác, việc bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế cũng còn không ít hạn chế. Việc đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn chậm; các nguồn lực kinh tế của Nhà nước phân bổ còn chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng thấp, thất thoát, lãng phí còn lớn, làm cho kinh tế nhà nước chưa thể hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế . Quan điểm gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường chưa được thực hiện đầy đủ, có hiệu quả. Vẫn còn xu hướng chạy theo thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chưa quan tâm đúng mức, đầy đủ tới phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường. Tình trạng xuống cấp của môi trường văn hóa, suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội, trong đội ngũ cán bộ, công chức, trong thế hệ trẻ; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp xã hội có xu hướng gia tăng; môi trường còn tiếp tục bị ô nhiễm...

Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường và bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế, luật pháp, chính sách và đổi mới, nâng cao kỷ luật, kỷ cương hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực hiện của các Nhà nước về kinh tế. Tạo lập môi trường thật sự thông thoáng, công khai, minh bạch, bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; phát triển các thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất; thực hiện đầy đủ vai trò của thị trường trong quyết định giá cả hàng hóa, dịch vụ, trong huy động, phân bổ các nguồn lực, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp sản xuất và lưu thông, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém; xóa bỏ những thủ tục hành chính phiền hà, bất hợp lý, kiểm soát độc quyền cản trở tự do kinh doanh, tự do lưu thông; tạo điều kiện, khuyến khích phát triển các phương thức mua bán, thanh toán hiện đại để phát triển các loại thị trường... tạo điều kiện cho các quy luật của kinh tế thị trường vận động, phát huy đầy đủ vai trò tích cực của mình.

Đồng thời, cần tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện có hiệu quả các chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đổi mới, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của Nhà nước để kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Hỗ trợ phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển lớn mạnh, hình thành các tập đoàn kinh tế lớn dưới hình thức công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp xã hội, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, tuân thủ pháp luật, tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh, thực hiện có kết quả việc cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển kinh tế nhanh, bền vững đồng thời gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, phát triển con người và bảo vệ môi trường... Không ngừng củng cố, phát triển những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế.

(còn tiếp)

PGS.TS Nguyễn Văn Thạo

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1996, tr.14.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, H, 2016, tr.75.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương, H, 2016, tr.173-174.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương, H, 2016, tr.193

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII, Văn phòng Trung ương, H, 2016, tr.61

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết