Thứ Sáu, ngày 27 tháng 12 năm 2024

Quyền con người và sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người trong thời kỳ mới

Ngày phát hành: 22/12/2024 Lượt xem 133

 

Bác Hồ thăm nông dân đang gặt lúa trên cánh đồng xã Hùng Sơn, (huyện Đại Từ, Thái Nguyên) vào năm 1954. Ảnh: TL.

 

1. Quyền con người, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về quyền con người

 

Quyền con người (QCN) và việc hiện thực hóa QCN là một trong những nội dung cơ bản và đặc biệt quan trọng trong nội hàm của khái niệm “phát triển con người”. Nhưng, con người là mục tiêu, là trung tâm, là động lực, là chủ thể của mọi quá phát triển trong xã hội hiện đại. Con người lại là trung tâm, là nội dung chủ yếu nhất, căn bản nhất, quan trọng nhất, là nguồn lực căn bản, quyết định nhất của mọi nguồn lực trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy, QCN và việc hiện thực hóa QCN cần được hiểu và khảo sát, đánh giá theo cả hai nghĩa, nghĩa hẹp và nghĩa rộng.

QCN theo nghĩa hẹp, đó là các quyền khác biệt với các quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, được công nhận, được tôn trọng, bảo vệ, được đảm bảo theo hiến pháp và pháp luật, khác biệt với dân quyền và tài quyền.

 

QCN là toàn bộ các đặc quyền của con người được xã hội công nhận do tính chất nhân bản của nó, được sinh ra từ bản chất con người chứ không phải do hiến pháp và pháp luật tạo ra. Đó là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm, được dành cho con người, như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, là những quyền tối thiểu của mỗi con người mà các nhà nước phải bảo vệ, tôn trọng và đảm bảo thực hiện trong thực tế xã hội. Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu, bảo vệ các cả nhân và các nhóm, các cộng đồng người khác nhau. Thực hiện QCN cũng là chổng lại bất cứ hành vi, hoặc bỏ mặc, lãng quên, thờ ơ, hoặc làm tổn hại đến nhân phẩm, đến sự được phép và sự tự do cơ bản của con người và các cộng đồng người đang tồn tại.

 

Về phương diện văn bản QCN hiện thời ở Việt Nam được ghi nhận cụ thể trong các văn bản quốc tế và Hiến pháp của nước ta. Những văn bản chủ yếu ghi nhận các QCN mà Việt Nam đã tham gia là: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (The Universal Declaration of Human Rights - UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 (International Covenant on Economic, Social and Culturaỉ Rights - ICESCR), Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ công hòa năm 1946, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ công hòa năm 1959, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có hàng loạt các văn bản luật pháp ghi nhận các quyền cơ bản của con người, như luật Lao động, luật Hình sự, luật Lao động, v.v., các văn kiện Đảng ở các kỳ Đại hội, các Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 của Ban Bí thư,  Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền, Thông báo Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới, v.v., đã đúc kết, chỉ rõ các nội dung về QCN và hiện thực hóa QCN ở Việt Nam trong tình hình mới.

 

QCN theo nghĩa rộng là toàn bộ các quyền con người theo nghĩa hẹp và tất cả các quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, gồm cả các quyền về dân quyền và tài quyền, các quyền của nhóm, của các cộng đồng, của quốc gia – dân tộc lẫn các quyền cá nhân. QCN theo nghĩa rộng là tất cả các quyền của mọi người dân, mọi nhóm người, cộng đồng và quốc gia, dân tộc, được xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo thực thi. Nghĩa là tất cả các quyền trong xã hội đều là QCN, bởi vì, xét đến cùng, tất cả các quyền khác, cũng là thể hiện từng phần, từng nội dung cụ thể, cũng là những cấu phần của QCN.

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM) về quyền con người là hệ thống tổng thể các quan niệm, quan điểm, luận điểm, ý kiến của Người về quyền con người và về việc hiện thực hóa quyền con người trong đời sống. Tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN thể hiện không chỉ qua các bài phát biểu, các văn bản do Người viết, mà còn qua hoạt động thực tiễn hiện thực hóa các quyền con người trong những điều kiện cụ thể. Hệ thống các tư tưởng về QCN của Hồ Chí Minh bao hàm không chỉ các quyền cá nhân, mà trước hết và đặc biệt là quyền của dân tộc: độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Đây là tư tưởng rất mới, hiện đại, là bước phát triển về QCN trong lịch sử nhân loại, là đóng góp về phương diện khoa học, phương diện cách mạng, sáng tạo, rất đặc thù Hồ Chí Minh – Việt Nam.

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, trước hết, xuất phát từ truyền thống văn hóa nhân bản của dân tộc, mà cốt lõi của văn hóa ấy là tinh thần yêu nước nồng nàn, là truyền thống đại đoàn kết, là tư tưởng “dân vi quý, xã tắc thứ chi”, dân là gốc, “đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Mặt khác, tư tưởng ấy dựa trên nền tảng lý luận Mác – Lê nin, mà trước hết là các tư tưởng về con người, về sứ mạng giải phóng con người của giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản. “Trong luận điểm về cách mạng của Hồ Chí Minh trung tâm là luận điểm về con người. Đối với Hồ Chí Minh, mục tiêu, cứu cánh, phương tiện và động lực cách mạng đều ở trong con người”[1]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN cũng bắt nguồn từ cả tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây từ cổ đại đến cận đại, những tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng, các nhà hoạt động chính trị - xã hội, trong đó có các tư tưởng tiến bộ của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, của Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của nước Pháp.

 

Tư tưởng về QCN của Hồ Chí Minh còn là sự tiếp thu có chọn lọc các tư tưởng nhân quyền tiến bộ của thế giới thời kỳ hơn 50 năm đầu thế kỷ XX, của thực tiễn đấu tranh thực hiện quyền con người của các lực lượng tiến bộ, của các Đảng Cộng sản trên thế giới và của các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ. Tư tưởng đó còn là sự tổng kết lịch sử đấu tranh giành và giữ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam mấy ngàn năm lịch sử và cũng xuất phát từ thực tiễn đấu tranh giải phóng, giành độc lập, tự do cho dân tộc từ nửa cuối thế kỷ XIX qua nửa đầu thế kỷ XX. Tư tưởng Hồ Chí Minh (HCM) về QCN là hệ thống lý luận có nội dung rất phong phú, bao quát, toàn diện, rất sâu rộng.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm lớp bổ túc văn hóa của bà con lao động ở khu Lương Yên, thành phố Hà Nội

(ngày 27-3-1956)_Nguồn: hochiminh.vn

 

Tư tưởng HCM về QCN và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng ta về QCN, ngay từ đầu là một khối thống nhất, không thể tách rời, chia cắt hay tách biệt. Các tư tưởng, quan điểm, chủ trương, đường lối đó rất nhất quán từ khi thành lập Đảng đến nay. Xuất phát từ lòng yêu nước nồng nàn và thực tế dân tộc bị áp bức, ngay từ đầu tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN đã có những nội dung mới, khác hoàn toàn với tư tưởng của các học giả tiến bộ phương Tây. Tiếp đó, tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin tư tưởng về QCN của HCM lại được củng cố và phát triển sáng tạo thêm trên cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng khoa học, cách mạng làm cho tư tưởng đó ở tầm cao hơn, rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, toàn diện hơn và đầy đủ hơn. Ngay từ năm 1919 trong Yêu sách của nhân dân An Nam” HCM đã xuất phát từ lập trường yêu nước chân chính trong vấn đề QCN: quyền con người, quyền dân sinh, dân chủ chỉ có thể được đảm bảo khi mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến tay sai của thực dân Pháp được giải quyết. Tuyên Ngôn Độc lập năm 1945 HCM thể hiện rõ hơn nữa sự tổng kết và khái quát, mở rộng và nâng cao quyền cá nhân của mỗi người, mỗi công dân, trở thành và gắn với quyền dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"[2] . QCN và quyền dân tộc luôn luôn gắn liền nhau và là một nội dung, một bộ phận cấu thành, một khối thống nhất không thể tách rời nhau. Tư tưởng đó là nét đặc trưng, là nền tảng, là cốt lõi trong tư tưởng về QCN của HCM. Tư tưởng đó cùng với các tư tưởng khác về QCN của HCM được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc, được quán triệt nhất quán và thống nhất suốt quá trình cách mạng của Đảng.

 

Nhận thức về lãnh đạo của Đảng trong việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về QCN giai đoạn từ thập niên 1970, đặc biệt là từ khi bắt đầu đổi mới (năm 1986) đến nay, rất có ý nghĩa và giá trị cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Một mặt, bối cảnh đất nước đã thay đổi rất căn bản cả trên phương diện quốc tế lẫn trong nước. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã qua đời, không trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành việc thực hiện quyền con người. Nhưng di sản tư tưởng quý báu của Người trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam, ngọn đèn soi đường cho Đảng và dân tộc trong thực hiện quyền con người. Đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, tất yếu phải thực hiện quyền con người với nhiều nội dung mới và thực tiễn mới. Điều đó lại tất yếu đòi hỏi những phương thức, giải pháp hiện thực hóa QCN mới.

 

2. Một số nhận xét và khuyến nghị về nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người.

 

Qua khảo sát các văn kiện của Đảng về QCN và thực thi QCN trong thực tế, đặc biệt là từ khi bắt đầu đổi mới đến nay, chúng tôi rút ra một số nhận nhận xét và khuyến nghị về việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người như sau:

 

Thứ nhất, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về QCN, hiện thực hóa QCN, đấu tranh chống lại các thế lực xuyên tạc, chống phá việc thực hiện QCN ở Việt Nam là một quá trình. Nhận thức đó xuất phát trực tiếp từ tư tưởng HCM về QCN nói riêng và về cách mạng Việt Nam nói chung. Tư tưởng HCM về QCN và quan điểm, chủ trương của Đảng hoàn toàn không tách rời nhau, mà gắn bó chặt chẽ, là một thể thống nhất hữu cơ. Điều đó không chỉ đúng trong thời kỳ HCM lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, mà cả từ khi HCM từ giã cõi đời đến nay. Những luận điệu cho rằng tư tưởng HCM và các quan điểm của Đảng về QCN nói riêng, về cách mạng Việt Nam nói chung từ sau khi HCM mất, không còn thống nhất, là hoàn toàn phi lý. Đó là ý đồ xuyên tạc sự thật và là âm mưu chính trị thâm hiểm, tách rời Đảng và lãnh tụ, xóa mờ vai trò và ảnh hưởng của Đảng và của HCM. Cuộc đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc đó phải thường xuyên, liên tục, nhất quán và gắn kết chặt chẽ hơn với việc nâng cao dân trí về QCN và phát triển con người trong hiện thực. Dân trí cao “sức đề kháng” sẽ khỏe, “bệnh” không thể xâm nhập phá hoại “cơ thể”.

 

Thứ hai, nếu ở Đại hội VI, Đảng đã đề cập nhiều đến QCN một cách gián tiếp, thông qua các quyền công dân, quyền dân sự và chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, chưa sử dụng thuật ngữ QCN, thì từ Đại hội VII thuật ngữ QCN đã được sử dụng trực tiếp. Các Đại hội sau đó thì QCN sử dụng với tần suất ngày càng nhiều, nội dung càng cụ thể, phong phú hơn. Các nội dung, hình thức của đường lối, chủ trương về QCN và đảm bảo QCN tùy thuộc vào bối cảnh, tình hình cụ thể trong và ngoài nước, kể cả tình hình cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận trong nước và trên các diễn đàn quốc tế về QCN có những thay đổi rất linh hoạt. Tất cả các nội dung, hình thức của đường lối, chủ trương về QCN là sự vận dụng sáng tạo, là sự phát triển tư tưởng HCM về QCN vào bối cảnh cụ thể của đất nước. Thông qua đường lối, chủ trương về QCN Đảng đã chỉ đạo các tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội triển khai bằng các chiến lược, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các hoạt động của các Ban Đảng, bằng pháp luật, các nghị định, nghị quyết và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Những văn bản đường lối, chủ trương, nghị quyết, chỉ đạo, điều hành của Đảng và Nhà nước về QCN trong quá trình đổi mới là nhất quán, thống nhất và cởi mở, mềm dẻo và mang tính hội nhập rõ rệt. Những đặc đặc điểm này cần được tiếp tục sâu rộng hơn trong thời gian tới, các lực lượng trực tiếp hiện thực hóa QCN là “quân chủ lực” trên lĩnh vực này cần quán triệt tốt những đặc điểm này.

 

Thứ ba, cốt lõi, hạt nhân, sợi chỉ đỏ và nội dung căn bản nhất của việc kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN chính là tư tưởng về con người. Tư tưởng về con người của HCM cũng là nền tảng, hạt nhân cốt lõi của tư tưởng về QCN của HCM. Có thể hình dung rằng tư tưởng HCM về con người và về QCN là nền móng của tòa nhà lý luận về QCN của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng về con người và QCN được triển khai trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau và nổi bật khác nhau ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, tùy thuộc và bối cảnh cụ thể. Nhưng ở mỗi phương diện, khía cạnh, luôn có những điểm chung xuyên suốt, thể hiện bản chất khoa học, cách mạng, chính trị, văn hóa và nhân văn cao cả. Quyền dân tộc được ưu tiên so với quyền cá nhân là một thí dụ. Thống nhất đất nước thì các quyền dân sự và chính trị, kinh tế và văn hóa, xã hội được cụ thể hóa và thực hiện đầy đủ, bao quát và sâu rộng hơn. Điều đó lại củng cố và phát triển quyền dân tộc. “… quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình”[3]. Đây là tư tưởng cốt lõi, trục trụ chính của QCN trong điều kiện Việt Nam ở mọi thời kỳ, cần phải được quán triệt ở tất cả các khâu, các lực lượng, các thời kỳ hiện thực hóa QCN.

 

Thứ tư, quá trình nhận thức, lãnh đạo của Đảng từ khi đổi mới đến nay theo tư tưởng HCM về QCN cho thấy, một mặt, quá trình đó vừa nhằm hiện thực hóa các QCN cá nhân, cụ thể trên các phương diện dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo xu hướng ngày càng mở rộng phạm vi các vấn đề, các quyền theo tư tưởng HCM về QCN thể hiện tập trung trong Tuyên ngôn Độc lập, trong Hiến pháp 1946. Nhưng mặt khác, quá trình đó cũng nhằm củng cố quyền dân tộc. Những thành tựu của việc thực thi cả quyền dân tộc lẫn quyền con người đã nâng vị thế quốc gia – dân tộc và con người Việt Nam lên tầm cao mới, thúc đẩy không chỉ nhận thức mà còn thúc đẩy sự phát triển con người và xã hội trong hiện thực. “Việt Nam đã đạt được tăng trưởng đáng kể trong phát triển con người kể từ năm 1990 đến nay. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đã có những bước tiến bộ trong thực hiện chính sách chăm lo phát triển con người toàn diện”[4]. Tiềm lực và vị thế Việt Nam nhờ đó được nâng cao chưa bao giờ có trong lịch sử. Như vậy, việc tách rời quyền dân tộc và QCN ở Việt Nam là không thể và sẽ không có bất cứ thành công nào nếu tách rời 2 loại quyền đó. Sự thống nhất, nhất quán, kiên trì, bền bỉ thực hiện tư tưởng thống nhất quyền dân tộc và QCN này của HCM và của Đảng là một bài học vô giá, là di sản kinh nghiệm vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc, cần được và tất yếu phải được tiếp tục cho các thế hệ mai sau trong vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN. Trong thời đại ngày nay, quyền dân tộc độc lập, dân chủ, tự do cũng chính là quyền con người cơ bản. Sử dụng, thực thi trong sự kết hợp khéo léo, đồng bộ, sát đúng với thực tiễn cụ thể các quyền dân tộc và QCN ở từng giai đoạn phát triển là nghệ thuật lãnh đạo tài tình của Đảng từ nhận thức đến lãnh đạo và triển khai hoạt động thực tiễn. Tách rời quyền con người và quyền dân tộc trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc, bành trướng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và đấu tranh giai cấp vẫn còn tiếp tục trỗi dậy, là sai lầm vô cùng nguy hại. Hiện thực hóa QCN, do vậy, vẫn phải luôn quán triệt ưu tiên quyền dân tộc, dân quyền phù hợp với sự phát triển con người.

 

Thứ năm, nhận thức và quá trình lãnh đạo của Đảng thực hiện QCN khi tham gia các công ước quốc tế về QCN – “bộ luật nhân quyền quốc tế”: Tuyên bố nhân quyền (năm 1948) của Liên Hợp Quốc, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966), Việt Nam đã phê chuẩn tham gia và thực thi bảy trong chín công ước quốc tế trực tiếp về QCN và đang tiếp tục nghiên cứu, xem xét để tham gia hai công ước còn lại trong thời gian tới. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều hiệp định, văn bản quốc tế song phương và đa phương, trực tiếp hoặc gian tiếp liên quan đến việc thực hiện các QCN cụ thể. Khi tham gia các công ước, hiệp định, văn bản quốc tế đó Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn luôn nhất quán và trung thành với tư tưởng HCM về nhân quyền và quyền dân tộc, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN. Điều này cho phép chúng ta nhận xét rằng: Nhận thức của Đảng và Nhà nước ta không giáo điều, không bảo thủ, mà luôn mở, động, linh hoạt, kết hợp hài hòa, đồng bộ, phù hợp những tư tưởng nhân quyền của HCM với những thành tựu của văn minh nhân loại. Đảng ta luôn đồng hành, chủ động hội nhập và có trách nhiệm trong việc thực thi QCN, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa của Việt Nam mang lại lợi ích chính đáng cho nhân dân, cho dân tộc Việt Nam. Bài học này đặc biệt quan trọng và cần tiếp tục trở thành nguyên tắc căn bản trong việc hiện thực hóa QCN ở thời kỳ mới.

 

Thứ sáu, trên một khía cạnh khác, nhận thức, lãnh đạo hiện thực hóa QCN của Đảng luôn có sự cập nhật, tiếp thu các tư tưởng nhân quyền tiến bộ của nhân loại và “Việt Nam hóa” các QCN đó trên nền tảng tư tưởng HCM về con người và QCN. Nhận thức và sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta về QCN, đặc biệt từ khi đổi mới đến nay ngày càng thể hiện rõ xu thế hội nhập quốc tế trên 2 phương diện. Một mặt, Đảng luôn chú ý thông tin, truyền thông ra thế giới về các tư tưởng, quan điểm của Việt Nam về QCN và những thành tựu thực tế của việc thực hiện QCN trong điều kiện Việt Nam, làm thất bại âm mưu của những kẻ chủ tâm xuyên tạc các quan điểm, tư tưởng QCN. Mặt khác, Đảng luôn chú ý tiếp cận, tiếp thu, cập nhật có chọn lọc các nội dung tư tưởng QCN tiến bộ, những bài học kinh nghiệm vận dụng và thực thi QCN trên thế giới áp dụng cho Việt Nam một cách phù hợp. Trên cả hai phương diện đó Đảng luôn luôn đứng trên lập trường tư tưởng HCM, trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng tư tưởng đó, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “dân là gốc”, “dân là chủ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”,… Quyền lợi của dân tộc, của nhân dân luôn được đặt lên trên hết. Đó là QCN cao nhất phải thực hiện. Mục tiêu, lý tưởng, sứ mạng của Đảng là ở đó. Thực hiện mục tiêu, lý tưởng, sứ mạng đó cũng là thực hiện tư tưởng cốt lõi, nền tảng của HCM về QCN. Nói cách khác việc tiếp cận, tiếp thu, cập nhật các nội dung tiến bộ về nhân quyền của nhân loại và “Việt nam hoá” chúng cho phù hợp với điều kiện, bối cảnh Việt Nam của Đảng luôn quán triệt và đứng vững trên lập trường tư tưởng HCM về QCN. Trong hiện thực hóa QCN Đảng không đơn giản là “học tập và làm theo” tư tưởng HCM mà chính là “học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo” tư tưởng HCM về con người và QCN, Học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về con người và QCN phải là tư tưởng chủ đạo trong thời kỳ mới.

 

Thứ bảy, quá trình nhận thức, lãnh đạo thực hiện QCN ở Việt Nam, đặc biệt là từ khi đổi mới đến nay của Đảng, cũng là quá trình phát triển các nội dung lý luận mới, vừa tổng kết thực tiễn, vừa khái quát lý luận, sát, đúng, trúng, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình đó Đảng luôn đứng vững trên nền tảng tư tưởng HCM về QCN. Đó là quá trình  vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng HCM về QCN của Đảng. Điều đó trong thực chất làm cho các quan điểm, chủ trương của Đảng thống nhất chặt chẽ với tư tưởng HCM. Về bản chất hai cái đó là một trên tất cả các nội dung, hình thức thể hiện, biện pháp thực thi.

Ở mỗi giai đoạn phát triển đất nước, việc nhận thức, lãnh đạo hiện thực hoá QCN có những vấn đề, nội dung, quy mô, mức độ khác nhau đòi hỏi Đảng phải đổi mới nhận thức, phương pháp, hình thức thực hiện QCN ở các địa phương, địa bàn, lĩnh vực cụ thể. Các quan điểm, chủ trương, các nội dung QCN thể hiện trong các văn kiện của Đảng ở các thời kỳ đều cho thấy sự nhanh nhậy, kịp thời, định hướng sát hợp, chỉ đạo quyết liệt và triển khai đồng bộ không chỉ trong phạm vi các vấn đề của QCN mà cả giữa các vấn đề về QCN với các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, phát triển xã hội. Nghệ thuật lãnh đạo, quản lý phát triển xã hội mà hiện thực hóa QCN trong thực tế là một nội dung trong đó, được Đảng chú trọng thường xuyên, liên tục. Những vấn đề về nhận thức, thực hiện QCN luôn được Đảng đặt trong mối quan hệ biện chứng với tất cả các vấn đề khác của đời sống xã hội nói chung, đặc biệt gắn liền với việc cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, xem con người là mục tiêu, động lực, trung tâm và chủ thể của mọi sự phát triển, bảo đảm công bằng, bình đẳng và tiến bộ trong mỗi chính sách, mỗi bước đi, mỗi giai đoạn phát triển. Đó cũng chính là thực chất, cốt lõi của tư tưởng HCM về đảm bảo QCN. Vì vậy, việc phát triển các nội dung lý luận mới, vừa tổng kết thực tiễn, vừa khái quát lý luận về QCN của Đảng trong thời kỳ đổi mới cũng dựa trên nền tảng tư tưởng HCM và cũng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo các tư tưởng HCM về QCN sát hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam. Bài học phát triển sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh quốc gia – dân tộc là cực kỳ căn bản, quyết định thành công trong việc hiện thực hóa QCN theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

Thứ tám, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về QCN trong thời kỳ đổi mới luôn được cụ thể hóa thành pháp luật, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, các quy định của Nhà nước, gắn liền với việc hoàn thiện bộ máy Nhà nước, nâng cao vai trò của Nhà nước trong hiện thực hóa QCN. Theo đường lối, chủ trương của Đảng, trong bộ máy Nhà nước, Chính phủ đã hình thành các cơ quan chuyên trách, mang tính chuyên nghiệp về QCN. Các cơ quan đó thực hiện các chức năng chuyên môn như nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục, hoạch định pháp luật, chính sách, pháp quy, và thực thi, kiểm tra, giám sát QCN. Chưa bao giờ trong lịch sử bộ máy Đảng và Nhà nước, Chính phủ và các đoàn thể chính trị, xã hội lại có hệ thống các cơ quan chuyên môn về QCN như hiện nay. Điều này thể hiện quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn, nhận thức gắn liền với hành động, nói đi đôi với làm, lý luận dẫn đường cho thực tiễn, thực tiễn bổ sung, phát triển lý luận. Đó cũng chính là tư tưởng, quan điểm, phương pháp HCM. Từ góc độ này cũng cho thấy Đảng ta trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng HCM trong tất cả các khâu, các quá trình nhận thức và thực hiện QCN không chỉ về mặt lý luận mà cả về phương diện tổ chức, xác lập bộ máy thực hiện thực tiễn QCN. Cải cách, đổi mới, dù chỉ trong lĩnh vực hành chính, tổ chức bộ máy đảm bảo tinh, gọn, hiệu quả, là đòi hỏi tất yếu. Nhưng hiệu quả hoạt động của bộ máy cần phải được kiểm định qua thực tiễn hiện thực hóa QCN để điều chỉnh, hoàn thiện bộ máy thực thi QCN.

 

Thứ chín, quá trình nhận thức, lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới luôn gắn liền với cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch CNXH xuyên tạc, chống phá việc thực hiện QCN ở Việt Nam. Cuộc đấu tranh này trong gần bốn thập niên qua diễn ra trên mặt trận tư tưởng, lý luận, ngoại giao ở tất cả các diễn đàn quốc tế, từ diễn đàn Liên Hợp Quốc đến các hội nghị quốc tế, khu vực, song phương và đa phương. Đó còn là cuộc đấu tranh trực diện bằng việc phấn đấu giành được những thành công lớn trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, các điều khoản trong các công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam đã ký kết. Cuộc đấu tranh này vừa vạch trần những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, vừa phải bằng việc phổ biến, truyền bá, các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, thuyết phục nhân dân, bạn bè quốc tế hiểu đúng những quan điểm, tư tưởng của Đảng ta về QCN, về những nét đặc thù của QCN ở Việt Nam. Thắng lợi của cuộc đấu tranh này được thể hiện ở nhiều thành tựu nổi bật. Trận địa của các thế lực thù địch bị thu hẹp dần, Việt Nam đã giành được thế chủ động, nhân dân và các nước trên thế giới đã hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn về QCN ở Việt Nam, tín nhiệm Việt Nam, Việt Nam được vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc với số phiếu tán thành cao. Đã hai lần trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu 184/192, cao nhất trong số 14 nước thành viên mới. Năm 2023 được bầu lần thứ hai, nhiệm kỳ 2023 – 2025, Việt Nam đã vượt qua 7 nước được đề cử[5]. Những thắng lợi trong cuộc đấu tranh này vừa thể hiện rõ ràng là Đảng ta đã nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN. Đấu tranh chống lại các thế lực thù địch xuyên tạc, bóp méo hiện thực thực thi QCN cần phải phối hợp trong nước và quốc tế, phối hợp các lực lượng một cách nhịp nhàng, khôn khéo, đồng bộ, hợp tác và đoàn kết, nhất quán và linh hoạt, giữ vững nguyên tắc.

 

Thứ mười, quá trình nhận thức, lãnh đạo của Đảng về việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM cũng là quá trình nâng cao dân trí về QCN theo tư tưởng và phương pháp HCM. Việt Nam bắt đầu hiện đại hóa, đi lên CNXH từ nền sản xuất nhỏ tiểu nông, từ xã hội phong kiến thực dân, với nền văn hóa Á Đông mang bản sắc nông nghiệp lúa nước từ ngàn đời nay. Bởi thế những vấn đề về QCN mới chỉ bắt đầu được tiếp cận ở đầu thế kỷ XX. Nhưng ba cuộc chiến tranh kéo dài gần nửa thế kỷ tiếp theo ngay sau cách mạng tháng Tám (từ 1945 đến 1991)[6] đã làm cho quá trình hiện đại hóa, xây dựng Tổ quốc, thực hiện QCN có những đặc thù riêng biệt. Từ khi sự nghiệp đổi mới được bắt đầu (1986) đến nay, việc nghiên cứu, nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo QCN cũng bắt đầu có những đổi mới. Văn hóa Á Đông nói chung, văn hóa làng xã nói riêng cùng với nền nông nghiệp lúa nước trong bối cảnh mới của thời đại ngày nay trở thành rào cản đối với việc thực hiện QCN, nhất là từ phương diện quyền cá nhân, Ý thức xã hội và lối sống của nông dân nông nghiệp sản xuất nhỏ làng xã vốn không coi trọng cá nhân và QCN. Thậm chí, QCN theo tư tưởng HCM và theo quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng là “xa lạ”, “bên ngoài”, là “áp đặt”. Vì  vậy, quá trình nghiên cứu, nhận thức và vận dụng QCN theo tư tưởng HCM của Đảng còn là quá trình thay đổi, đổi mới ý thức xã hội và lối sống của đông đảo nhân dân. Đó là quá trình “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” theo tinh thần mới của Đảng, của thời đại.

 

Từ góc độ này mà xét thì việc nghiên cứu, nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN trước hết là quá trình nâng cao dân trí. Bởi thế, tuyên truyền, giải thích, vận động, thuyết phục, giáo dục tư tưởng HCM và các chủ trương, đường lối của Đảng về QCN là một công việc cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa thành bại đối với việc hiện thực hóa QCN. QCN theo tư tưởng HCM và đường lối, chủ trương của Đảng khi chưa thấm sâu, lan rộng, bám chắc trong ý thức quần chúng nhân dân, chưa thay thế, đổi mới được ý thức xã hội cũ thì chưa thể có bước tiến nào về QCN trong hiện thực. Quá trình nghiên cứu, vận dụng tư tưởng HCM về QCN của Đảng từ khi đổi mới đến nay cũng là quá trình tìm tòi, nghiên cứu, hoạch định chủ trương, chính sách, tìm kiếm phương thức, giải pháp tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục và triển khai thực thi QCN. Đây là một trong những đặc điểm của quá trình nghiên cứu, nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN của Đảng ta từ khi đổi mới.

 

Như vậy, tư tưởng HCM về QCN luôn là nền tảng lý luận, là bản chất, là kim chỉ nam cho việc nghiên cứu, vận dụng, phát triển và hiện thực hóa QCN của Đảng ta. Quá trình nghiên cứu, nhận thức, hoạch định và thực thi QCN ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là quá trình học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về QCN trong những điều kiện, bối cảnh mới của cách mạng Việt Nam. Đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để hiện thực hóa QCN và tư tưởng HCM về QCN luôn thống nhất, nhất quán, mang bản chất cách mạng, tiến bộ, nhân văn, vì con người, lấy con người làm trung tâm, làm mục tiêu, động lực, là chủ thể của các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về QCN của Đảng. Mọi thành tựu về QCN của Việt Nam đều xuất phát từ tư tưởng HCM và  đường lối, chủ trương của Đảng về con người và QCN.

 

Thứ mười một, mặc dầu trong lĩnh vực QCN và phát triển con người, bốn mươi năm qua Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử góp phần tạo nên thế và lực của đất nước chưa từng có trong lịch sử, những còn nhiều việc vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu Đảng mong dân muốn. Trong thời kỳ mới, việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng HCM về con người và QCN cần phải được tiếp tục triển khai sâu rộng hơn, gắn liền với cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách HCM, xem như một nội dung đặc biệt của cuộc vận động này. Từ thực tế của 40 năm đổi mới thực hiện nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng HCM về con người và QCN cũng cho thấy, cuộc vận động “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” sau 20 năm cần thiết phải chuyển thành cuộc vận động “Học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” với tinh thần chủ động hơn, tích cực hơn, đa dạng hơn, sáng tạo hơn, phù hợp hơn với thực tiễn thì mới có thể tạo nên được những đột phá trong sự phát triển không chỉ của lĩnh vực phát triển con người và QCN mà ở tất cả các lĩnh vực khác./.

 

PGS.TSKH. Lương Đình Hải

TS. Lê Minh Thảo

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
  2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
  3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
  4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
  5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 201
  6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,
  7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII. Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H. 1986, 1981, 1991, 1996, 2002, 2006, 2011, 2016, 2021.
  8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chỉ đạo Tổng kết. Báo cáo tổng kết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới. Nxb. Chính trị quốc gia, H.2015.
  9. Hội đồng lý luận Trung ương. Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
  10. Phạm Văn Đồng.- Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, H.1990, tr.28.
  11. Hội thảo Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn. Nxb. Khoa học xã hội, H., 1990, tr.555.
  12. Báo cáo tổng kết năm 2023 của Chính phủ. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-bao-cao-cua-chinh-phu-do-thu-tuong-pham-minh-chinh-trinh-bay-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-6-quoc-hoi-khoa-xv-119231023110914052.htm, 10:23 - 31/10/2023
  13. Việt Nam đứng thứ 3 khu vực ASEAN về GDP (PPP). (https://aecvcci.vn/tin-tuc-n12357/viet-nam-dung-thu-3-khu-vuc-asean-ve-gdp-ppp.htm ngày 15 tháng 11. 2023) 
  14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 90.
  15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 64-65.
  16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 175.
  17. Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế (UDHR, năm 1948),
  18. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị” (ICCPR, năm 1966)
  19. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR, năm 1966).
  20. Chỉ thị số 41/TTg ngày 2/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ “Về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”.
  21. Thanh Huyền. Thực hiện quyền con người theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/12745-thuc-hien-quyen-con-nguoi-theo-tu-tuong-cua-chu-tich-ho-chi-minh.html  Được đăng: 07 Tháng 10/2022
  22. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người (toàn tập – tuyển chọn và trích dẫn). Nxb. Lý luận chính trị, H. 2023
  23. Phạm Ngọc Anh (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Nxb. Chính trị Quốc gia, H. 2005.
  24. Lại Thị Thanh Bình. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2020
  25. Hòa Bình. Yêu cầu và định hướng bảo đảm, thúc đẩy quyền con người trong tình hình mới. https://vietnamnet.vn/yeu-cau-va-dinh-huong-bao-dam-thuc-day-quyen-con-nguoi-trong-tinh-hinh-moi-576233.htmlThứ ba, 17/12/2019 - 01:05
  26. Đặng Dũng Chí và Hoàng Văn Nghĩa. Chủ nghĩa xã hội và quyền con người. Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2014
  27. Lương Đình Hải. Cơ sở lý luận của quyền con người vì sự phát triển con người.- T/c Triết học, số 7 (266)- 2013.
  28. Hiến pháp nước cộng hóa XHCN Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, H., năm 2013
  29. Minh Duyên.Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. https://baoquocte.vn/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-253271.html 20:25 | 09/12/2023
  30. Lê Thị Tuyết Mai. Bảy mươi lăm năm Tuyên ngôn thế giới về quyền con người: Thành tựu và thách thức. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/843902/bay-muoi-lam-nam-tuyen-ngon-the-gioi-ve-quyen-con-nguoi-%C2%A0thanh-tuu-va-thach-thuc.aspx , ngày 10-12-202305:24
  31. Trần Nghị. Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10/2021.
  32. Sơn Thái. Vấn đề nhân quyền trong tư tưởng Hồ Chí Minh. https://nhandan.vn/van-de-nhan-quyen-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-post713213.htmlThứ năm, ngày 01/09/2022 - 15:17
  33. Nguyễn Minh Trí. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825568/tu-tuong-ho-chi-minh-ve-quyen-con-nguoi-va-su-van-dung--o-viet-nam-hien-nay.aspx, 14:18, ngày 09-07-2022
  34. Nguyễn Thanh Tuấn (chủ biên). Quyền con người trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Nxb. Lý luận chính trị, H.2014.
  35. Nguyễn Thanh Tuấn. Thực hiện quan điểm của Đảng về quyền con người. https://www.quanlynhanuoc.vn/2019/07/11/thuc-hien-quan-diem-cua-dang-ve-quyen-con-nguoi/Ngày 11/07/2019
  36. Võ Khánh Vinh. Về các xu hướng phát triển quyền con người trong giai đoạn hiện nay. Tạp chí Pháp luật về Quyền con người, số 1-2023.


[1] Phạm Văn Đồng.- Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, H.1990, tr.28.

[2] Hội thảo Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn. Nxb. Khoa học xã hội, H., 1990, tr.555.

[3] Chỉ thị số 41/TTg ngày 2/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ “Về tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”.

[4] Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam. Trích theo:https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/12745-thuc-hien-quyen-con-nguoi-theo-tu-tuong-cua-chu-tich-ho-chi-minh.html  Được đăng: 07 Tháng 10/2022

[6] Theo quan điểm của chúng tôi, năm 1975, đất nước ta thống nhất hai miền Nam – Bắc, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ kết thúc, nhưng ngay sau đó lại bắt đầu cuộc chiến tranh ở biên giới phía Tây Nam và từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 là cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc. Cho tới 1991 thì cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc mới thực sự kết thúc. Hai cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc gắn chặt với nhau và về thực chất đều xuất phát từ một kẻ thù chung, do đó chung tôi gọi chung là cuộc chiến tranh biên giới, kéo dài hơn 15 năm.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết