1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế qua các kỳ Đại hội
Trong đường lối phát triển đất nước sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đại hội IV (năm 1976) đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc kết hợp giữa nội lực với ngoại lực trong phát triển kinh tế đất nước, Đại hội IV xác định: Trong khi dựa vào sức mình là chính để phát huy tối đa năng lực sản xuất hiện có thì chúng ta cũng cần tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và với các nước khác (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004: 498). Những năm 1970 và đầu những năm 1980, trong tình thế đối đầu giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, Đảng chủ trương phát triển kinh tế tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trong những năm đầu thập niên 1990, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Đảng chủ trương tăng cường sức mạnh kinh tế trên cơ sở nội lực, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế.
Đại hội VIII (năm 1996) khẳng định: Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính, cùng đó là tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới... Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ .
Trong bối cảnh hòa bình, hợp tác, phát triển trở thành xu thế lớn của thời đại và thực tiễn quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ cũng như hội nhập kinh tế của đất nước, Đại hội IX (năm 2001) chủ trương: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững.
Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng chủ trương: “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”, “hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương”, “đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006: 112). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng”
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 nêu rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ”.
Đại hội XI xác định phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tích cực, chủ động hội nhập nhằm tạo dựng sức mạnh dân tộc với tính chất là yếu tố quyết định; tranh thủ yếu tố ngoại lực và thời đại với vai trò yếu tố quan trọng. Trong điều kiện Việt Nam chuyển sang giai đoạn hội nhập toàn diện với hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng nhất, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị khóa XI về Hội nhập quốc tế xác định: Hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.
Tại Đại hội XII (năm 2016), Đảng tiếp tục khẳng định: Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016b: 154-155). Trong bối cảnh Việt Nam tích cực hội nhập toàn diện và đẩy mạnh tham gia các hiệp định thương mại tự do, ngày 05/11/2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Nghị quyết nêu rõ mục tiêu thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội nhằm tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tình hình thế giới “đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn… Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh, ảnh hưởng của các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan… Kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và có thể còn kéo dài do tác động của đại dịch Covid-19. Cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt”
Trong điều kiện đó, Đại hội XIII (năm 2021) xác định: “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021: 135). Điều này thể hiện sự nhất quán, kế thừa và phát triển chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ của Đảng phù hợp với tình hình mới.
2. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế trong gần 40 năm qua.
Sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng về phát triển kinh tế, được phản ánh qua nhiều chỉ số đo lường sự tiến bộ có thể so sánh quốc tế. Một trong những chỉ số tổng hợp nhất phản ánh kết quả phát triển quốc gia được các chuyên gia sử dụng là tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo chỉ số này, trong giai đoạn kể từ khi Việt Nam bắt đầu thực hiện Đổi mới vào năm 1986, Việt Nam đã có kết quả vượt trội trong so sánh quốc tế.
Cụ thể, trong giai đoạn 1986-2023, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam hàng năm trung bình đạt 6,42%, cao hơn rất nhiều so với tốc độ này ở nhóm nước thu nhập thấp, thu nhập trung bình thấp và toàn thế giới, đạt tương ứng là 3,01%, 5,29% và 2,72%[1]. Nhờ kết quả vượt trội đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng nhanh. Số liệu của WB (Hình 2) cho thấy GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 4.347 USD (còn thu nhập bình quân đầu người - GNI per capita là 4.180 USD) vào năm 2023[2]. Những con số ấn tượng đó đã đánh dấu những thay đổi về chất trong sự phát triển của đất nước. Với mức thu nhập bình quân đầu người 1.158 USD đạt được năm 2008, Việt Nam đã ra khỏi danh sách nước nghèo vào năm đó để tham gia nhóm các nước thu nhập trung bình thấp. Năm 2023, GDP của Việt Nam đạt 430 tỷ USD, đứng thứ 37 trên thế giới; GNI bình quân đầu người đã đạt 4.180 USD, như vậy Việt Nam sẽ sớm gia nhập nhóm các nước thu nhập trung bình cao. Điều này có những hàm ý chính sách quan trọng đối với Việt Nam trong những thập niên tới.
Trong những năm gần đây, bên cạnh sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế, lạm phát - một trong những chỉ số quan trọng nhất phản ánh sự bình ổn của kinh tế vĩ mô, có xu hướng giảm tốc rõ nét. So sánh quốc tế cho thấy, giai đoạn từ năm 2006-2014, chỉ số lạm phát ở Việt Nam luôn cao hơn đáng kể so với chỉ số lạm phát trên thế giới nói chung và nhóm các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình thấp nói riêng (Hình 3). Trong các năm từ 2011-2015, chỉ số lạm phát của Việt Nam đã giảm nhưng vẫn ở mức cao hơn khá nhiều so với thế giới và nhóm các nước có thu nhập thấp, nhóm thu nhập trung bình thấp. Nhưng từ năm 2015 trở lại đây, chỉ số lạm phát của Việt Nam đã giảm khá sâu, tương đương hoặc thấp hơn so với nhóm các nước so sánh là nhóm các nước thu nhập trung bình thấp hay nhóm các nước thu nhập thấp.
Mở cửa và hội nhập là một trong những động lực chính của tăng trưởng ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Nền kinh tế Việt Nam có mức độ mở cửa tăng nhanh và hiện nay ở mức rất cao so với các nước có thu nhập trung bình thấp nói riêng và thế giới nói chung. Trong năm 2023, tổng giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam là 683 tỷ USD, bằng khoảng 160% GDP. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại, đầu tư với trên 60 quốc gia, vùng lãnh thổ, chiếm 2/3 tổng dân số và 3/4 tổng GDP toàn cầu.
Năng suất lao động là chỉ số quan trọng nhất để đo hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế[3]. Theo Tổng cục Thống kê, năng suất lao động ở Việt Nam theo giá hiện hành năm 2019 ước tính đạt 110,4 triệu đồng/lao động (tương đương 4.791 USD/lao động, tăng 272 USD so với năm 2018); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 6,2% do lực lượng lao động được bổ sung và số lao động có việc làm năm 2019 tăng cao. Nhìn trong một giai đoạn dài hơn có thể thấy năng suất lao động ở Việt Nam có những sự cải thiện rõ nét. Hình 4 so sánh năng suất lao động (được tính theo ngang giá sức mua năm 2017 của WB để tính đến sự khác biệt trong mức giá cũng như cơ cấu giá quốc gia) của Việt Nam với một số nhóm nước chọn lọc ở trên thế giới. So sánh này cho thấy, nếu như cách đây hai thập niên, vào năm 1991, năng suất lao động ở Việt Nam so với nhóm các nước thu nhập trung bình thấp, nhóm nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình trên thế giới tương ứng chỉ bằng 48%, 98% và 20% thì sau một thập niên, vào năm 2000, các tỷ lệ này đã tăng lên tương ứng là 76%, 161% và 29%. Sang đến năm 2024 (ước tính), các tỷ lệ này tiếp tục tăng lên là 110%, 421% và 53%. Điều này cho thấy kết quả ấn tượng của Việt Nam trong việc thu hẹp khoảng cách với các nước trên thế giới về năng suất lao động. Số liệu của những năm gần đây cho thấy trong giai đoạn 2015 - 2023, năng suất lao động của Việt Nam tăng trung bình 5,9%/năm, cao hơn hẳn so với nhóm các nước thu nhập trung bình thấp 2,1%, các nước thu nhập trung bình cao 3,5%.
Liên quan đến một thước đo khác về hiệu quả là năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Theo Tổng cục Thống kê, đóng góp của yếu tố này vào tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011-2015. Trong giai đoạn dài hơn từ 1991 đến 2019, Hình 5 cho thấy chỉ số ICOR sau khi đạt đỉnh vào năm 2009 đã giảm dần từ đó cho đến nay, cho thấy hiệu quả sử dụng vốn được cải thiện đáng kể. Theo chiều ngược lại, chỉ số tăng trưởng TFP được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 2010-2019. So sánh quốc tế cho thấy trong giai đoạn 2010-2019, Việt Nam xếp thứ 10 trong tổng số 25 nước châu Á (Hình 6), đồng thời chỉ số này ở Việt Nam cải thiện đáng kể so với các giai đoạn 1970-1990, 1990-2010 trước đó.
Nền kinh tế Việt Nam cũng ít phụ thuộc vào tài nguyên khoáng sản hơn. Hoạt động khai thác chỉ chiếm 7,3% GDP vào năm 2017; giá trị xuất khẩu dầu thô năm 2018 vào khoảng hơn 2 tỷ USD, chưa bằng 1% giá trị xuất khẩu của đất nước[4]. Tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm thuộc công nghiệp chế tạo tăng nhanh. Đặc biệt, tỷ trọng các sản phẩm chế tạo thuộc nhóm công nghệ cao trên tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế tạo đã gia tăng nhanh chóng trong giai đoạn khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ 9% năm 2008 lên 39% năm 2022, tỷ trọng này của Việt Nam từ chỗ chưa bằng nửa so với nhóm các nước thu nhập trung bình cao vào năm 2008 sau hơn 10 năm đã cao gần gấp đôi so với nhóm các nước này vào năm 2022. Kết quả này nhờ một phần đáng kể vào việc Việt Nam đã thu hút được FDI có chất lượng cao, trong đó có nhiều tập đoàn công nghệ đa quốc gia dẫn dắt các chuỗi giá trị toàn cầu.
Sự gia tăng hiện diện của các tập đoàn công nghệ đa quốc gia đã giúp làm thay đổi đáng kể cơ cấu của khu vực doanh nghiệp theo trình độ công nghệ, hàm lượng tri thức trong giai đoạn 2010-2018. Tỷ trọng lao động giảm dần trong giai đoạn 2010-2020 trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; khai khoáng; sản xuất phân phối điện, nước và xử lý rác thải; xây dựng. Ngược lại, các ngành có tỷ trọng lao động gia tăng gồm có chế biến chế tạo công nghệ cao, tăng khoảng 3 lần, từ 1,99% trong tổng số lao động năm 2010 lên 5,91% năm 2020; chế biến chế tạo công nghệ thấp giảm từ 8,18% xuống 7,81% trong cùng giai đoạn. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức cũng đều có tỷ trọng lao động tăng lên trong giai đoạn này. Ở các ngành còn lại tỷ trọng lao động tương đối ổn định qua các năm.
Trong năm 2024 vừa qua, tăng trưởng cả năm ước đạt trên 7% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư cao; riêng lương thực, tính chung 11 tháng, xuất khẩu gạo đạt trên 8,5 triệu tấn, kim ngạch trên 5,3 tỷ USD, tăng lần lượt 10,6% và 22,4% so với cùng kỳ. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023. - Tính đến cuối tháng 11, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt khoảng 715 tỷ USD, tăng 15,3%, xuất siêu trên 23 tỷ USD; ước cả năm đạt 807,7 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Thu NSNN ước cả năm vượt trên 10% dự toán (thu NSNN 11 tháng bằng 106,7% dự toán và tăng 16,4% so với cùng kỳ); bội chi NSNN, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia được kiểm soát tốt, thấp hơn giới hạn cho phép.
Thu hút FDI là điểm sáng và nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới; trong 11 tháng, thu hút FDI đạt 31 tỷ USD, vốn FDI thực hiện đạt 20,4 tỷ USD, tăng 7%, cao nhất trong nhiều năm qua.
- Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực; nhìn chung các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, phát huy vai trò nòng cốt, chủ lực, chủ đạo trong nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế quan trọng và có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế.
- Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực: Khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm 79,9%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ còn 11,64%. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,58%, đóng góp 4,08% vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,11%, đóng góp 48,88%; khu vực dịch vụ tăng 7,51%, đóng góp 47,04%. (kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng. Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khá (Đến nay, có 05 tỉnh, 96 cấp huyện và 8.162 cấp xã đạt chuẩn nông thôn mới; có 11 cấp huyện, 2.182 cấp xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 480 cấp xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu. Đã công nhận 14.085 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên với 7.846 chủ thể tham gia). Công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng (Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 4% so với tháng 9 và tăng 7% so cùng kỳ; tính chung 10 tháng tăng 8,3% (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,5%), trong đó ngành chế biến chế tạo tăng 9,6% (cùng kỳ năm 2023 tăng 0,5%); ngành sản xuất và phân phối điện tăng 10,3%.). Dịch vụ phục hồi tốt (Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 8,5%); thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, du lịch phát triển mạnh (Doanh thu thương mại điện tử năm 2024 ước đạt 27,7 – 28 tỷ USD, tăng 36%, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới. Ước cả năm đón 18 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng 43%).
- Tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược (về thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực) và đạt được nhiều kết quả quan trọng:
+ Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật được chỉ đạo quyết liệt với tư duy đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, thông thoáng hơn, đúng thẩm quyền hơn; đồng thời tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn từ thực tiễn.
+ Hoàn thành Dự án 500kV mạch 3 Quảng Bình - Hưng Yên sau hơn 6 tháng thi công thần tốc và tích cực triển khai nhiều dự án, công trình năng lượng trọng điểm như khai thác mỏ khí Lô B, trung tâm nhiệt điện Ô Môn…; hoàn thành một số đoạn đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài lên 2.021 km. Hạ tầng số, hạ tầng năng lượng được tháo gỡ về thể chế và đầu tư.
+ Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao.
- An sinh xã hội được tập trung bảo đảm; đời sống người dân được cải thiện. Tăng 30% lương cơ sở, tăng 6% lương tối thiểu vùng hằng năm cho người lao động và điều chỉnh lương hưu, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, trợ cấp xã hội từ ngày 01/7/2024 (đã tích lũy trên 700 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách tiền lương mới cho năm 2024 và các năm sau). Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143. Tập trung hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả cơn bão số 3; tinh thần “tương thân, tương ái”, “tình dân tộc, nghĩa đồng bào” tỏa sáng mạnh mẽ.
- Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,9% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Chất lượng giáo dục các cấp được cải thiện. Ứng dụng khoa học công nghệ được tăng cường; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển, xếp thứ 56/119, tăng 02 bậc so với năm 2023; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam tăng 4 bậc so với năm 2022, xếp thứ 44/132.
- Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên; lực lượng lao động, tỷ lệ lao động có việc làm tăng; thu nhập bình quân người lao động đạt khoảng 7,6 triệu đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023.
- Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng được ưu tiên, chú trọng; công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thông tin truyền thông... được tăng cường. Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023.
- Tiếp tục xây dựng bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; tập trung sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đạt kết quả tích cực; quản lý thu, chi NSNN hiệu quả hơn, tiết kiệm chi, nhất là chi thường xuyên (ngoài tiết kiệm 10% để tăng lương, còn tiết kiệm thêm khoảng 6 nghìn tỷ chi thường xuyên năm 2024 cho xóa nhà tạm, nhà dột nát, dành nguồn lực tăng chi cho phát triển con người, bảo đảm an sinh xã hội và chi đầu tư phát triển; khắc phục hiệu quả việc đầu tư dàn trải.
Theo Báo cáo của Bộ Tài chính, cơ cấu chi cho con người trong tổng chi thường xuyên tăng từ 56,7% năm 2021 lên 62% năm 2023; chi cho an sinh xã hội tăng từ 13,7% năm 2021 lên 17% năm 2023. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển trong tổng chi NSNN tăng từ 27,8% năm 2021 lên 34,4% năm 2023. Đã cắt giảm số lượng dự án đầu tư công trung hạn từ hơn 10 nghìn dự án trong giai đoạn 2016 - 2020 xuống còn dưới 5.000 dự án trong giai đoạn 2021 - 2025, qua đó tập trung nguồn lực cho các dự án trọng điểm, nhất là các dự án đường cao tốc, các dự án kết nối vùng, liên vùng, quốc tế. Đồng thời, quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công, đất đai, tài nguyên, khoáng sản được tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán được chú trọng; điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án kinh tế, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản. Điều này đã cho thấy chủ trương của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới là đúng đắn, sáng tạo.
3. Quan điểm, yêu cầu và định hướng giải pháp nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế
Từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước những năm qua, bên cạnh những thành tựu đạt được cùng những tồn tại, hạn chế, bất cập, Đại hội XIII đã chỉ rõ những yêu cầu và định hướng giải pháp để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế, bao gồm:
Một là, giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước, bởi chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính định hướng cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia.
Ba là, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
Bốn là, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của kinh tế thế giới, khu vực; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.
Năm là, thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước từng giai đoạn. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm nhiều hình thức với mức độ và yêu cầu đòi hỏi khác nhau như: thỏa thuận thương mại ưu đãi; khu vực thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung; liên minh kinh tế…
Sáu là, hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Bảy là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, nhất là yêu cầu phát triển bền vững và khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc là hết sức quan trọng và cần thiết. Để hiện thực hóa chủ trương đó, đòi hỏi các cấp, các ngành, mỗi doanh nghiệp và người dân cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực, trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với từng ngành, từng lĩnh vực, Những yêu cầu và định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế là một thể thống nhất, có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, cần được quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả,… góp phần hiện thực hóa chủ trương Đại hội XIII của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế trong tình hình mới./.
TS Lê Thị Thúy
Hội đồng Lý luận Trung ương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 37, 1976, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 55, 1996, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016a), Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 60, 2001, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016b), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), “Báo cáo Tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2010-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030”, Báo Nhân dân, ngày 20/10.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
9. Phạm Minh Chính, Thủ tướng chính phủ, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 (Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc quán triệt, tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII), Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2024.
10. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Việt - Úc, Việt Nam: 40 năm Đổi mới và Tầm nhìn 2045, 2024, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
[1] Trên cơ sở thu nhập bình quân đầu người (GNI) tính theo USD theo giá trị hiện hành, WB phân chia các quốc gia làm 4 nhóm chính: (1) thu nhập thấp; (2) thu nhập trung bình thấp; (3) thu nhập trung bình cao; (4) thu nhập cao. Các ngưỡng của các nhóm đó theo phân loại mới nhất của WB áp dụng từ ngày 01/7/2023 đến ngày 30/6/2024 tương ứng là: (1) dưới 1.135 USD; (2) từ 1.136 đen 4.465 USD; (3) từ 4.466 đến 13.845 USD; (4) trên 13.845 USD, https://blogs.worldbank.org/en/opendata/new-world-bank-group-country- classifications-income-level-fy24
[3] Theo Giáo sư Paul Krugman, người được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 2008, khả năng cạnh tranh là một cách nói khác của năng suất lao động, Nguồn: Krugman: The Age of Diminishing Expectations, MIT Press 1994.