Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong áng văn bất hủ ấy, Người không chỉ tuyên bố với thế giới sự ra đời của một quốc gia độc lập, tự do, mà còn đặt nền móng tư tưởng cho sự phát triển của quyền con người ở Việt Nam. 80 năm đã trôi qua, từ tư tưởng nhân quyền được khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập, đất nước ta đã có những bước tiến dài trong việc đảm bảo và thúc đẩy quyền con người trên mọi lĩnh vực.

Tuyên ngôn độc lập - khẳng định quyền con người gắn liền với quyền dân tộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Tuyên ngôn Độc lập là một tác phẩm tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc.
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791. Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc. "Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (1).
Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.
Nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, Giáo sư Singô Sibata (Nhật Bản) cho biết “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình” (2).
Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người. Và việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.
Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp. Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam.
Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” (3).
Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn Độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu Độc lập-Tự do-Hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
80 năm đã trôi qua, nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn Độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam không ngừng phấn đấu và trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về đảm bảo quyền con người.
80 năm bảo vệ và thực thi quyền con người
Kế thừa tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập, trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên định quan điểm: con người là trung tâm của chiến lược phát triển, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Đảm bảo và phát huy quyền con người không chỉ là một nguyên tắc mang tính hiến định mà còn là thực tiễn được triển khai đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật, giáo dục, y tế, môi trường, an sinh xã hội và đối ngoại.
- Quyền chính trị, dân sự được tôn trọng và phát huy
Ngay sau ngày độc lập, dù đất nước còn muôn vàn khó khăn, Chính phủ lâm thời đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (ngày 6/1/1946) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, với sự tham gia của mọi công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng. Đây là minh chứng sớm nhất cho việc bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Ngày nay, quyền chính trị của công dân được hiến định và thực thi trên thực tế thông qua các kỳ bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội… Việt Nam đã và đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, lấy Hiến pháp và pháp luật làm nền tảng, nhằm bảo đảm dân chủ, công bằng và minh bạch trong quản trị quốc gia.
Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương riêng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, khẳng định rõ nguyên tắc “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Các văn bản pháp luật sau đó, như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Tố cáo, Luật Tiếp cận thông tin, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật... đã cụ thể hóa, mở rộng không gian pháp lý cho người dân thực hiện quyền của mình.
Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân - ngày càng đổi mới phương thức hoạt động, gắn bó mật thiết với cử tri. Nhiều kỳ họp Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp được truyền hình, phát thanh trực tiếp, tạo điều kiện để người dân theo dõi, tham gia, phản biện và giám sát. Nhà nước cũng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính, minh bạch hóa các dịch vụ công, góp phần bảo đảm quyền tiếp cận công lý và quyền được phục vụ của nhân dân.
Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của báo chí, truyền thông và không gian mạng đã tạo điều kiện để người dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin, phản biện và tham gia vào các vấn đề công. Việt Nam hiện có hơn 70% dân số sử dụng Internet, là một trong những nước có tỷ lệ người dân tương tác trên mạng xã hội cao trong khu vực.
- Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa được bảo đảm, nâng cao đời sống nhân dân
Trên phương diện kinh tế, thành tựu phát triển qua gần bốn thập kỷ đổi mới đã giúp nâng cao đáng kể đời sống người dân. Từ một nước nghèo, Việt Nam đã vươn lên nhóm nước có thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người năm 2024 đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD. Tỷ lệ nghèo đa chiều toàn quốc giảm mạnh, năm 2024 còn 4,06% (gồm tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo). Đây là minh chứng cho chính sách xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững, đảm bảo quyền được hưởng mức sống đầy đủ hơn cho người dân.
Chính phủ cũng đặc biệt quan tâm đến các chương trình an sinh xã hội, điển hình là Đề án xây dựng 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội giai đoạn 2021-2030, cùng với chương trình xóa bỏ nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo. Những chính sách này không chỉ bảo đảm quyền có chỗ ở mà còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc của hệ thống chính trị.
Ở lĩnh vực văn hóa, xã hội, Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ quan trọng. Về giáo dục, tỷ lệ biết chữ của người dân từ 15 tuổi trở lên đạt trên 97%, trong đó nhiều địa phương miền núi, vùng sâu, vùng xa cũng đã phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ trẻ em đi học tiểu học đúng độ tuổi cao trên thế giới (trên 98%). Chủ trương miễn, giảm học phí cho học sinh, đặc biệt là việc Bộ Chính trị mới đây quyết định miễn toàn bộ học phí từ mầm non đến hết trung học phổ thông, là bước tiến lớn nhằm bảo đảm quyền học tập của mọi trẻ em, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Trong lĩnh vực y tế, hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân ngày càng được củng cố. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế năm 2024 đạt trên 94,3% dân số. Việt Nam cũng đạt nhiều thành tựu trong kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt là trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những quốc gia kiểm soát dịch hiệu quả, đảm bảo quyền được bảo vệ sức khỏe của người dân.
Trong lĩnh vực văn hóa, các chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn với sáng tạo hiện đại đã giúp nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Việc UNESCO liên tiếp vinh danh các di sản vật thể và phi vật thể của Việt Nam, như: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên… hay gần đây là việc Hà Nội, Hội An, Đà Lạt được công nhận là Thành phố Sáng tạo đã khẳng định nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền tham gia và hưởng thụ đời sống văn hóa cho người dân.
- Quyền bình đẳng giới và quyền của các nhóm yếu thế được thúc đẩy
Một trong những điểm sáng trong chính sách nhân quyền ở Việt Nam là sự quan tâm đến các nhóm yếu thế, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó, phụ nữ Việt Nam có vai trò ngày càng lớn trong các lĩnh vực chính trị, khoa học, công nghệ, kinh doanh… Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV đạt 30,26%, cao hơn mức trung bình của thế giới và khu vực, đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Trẻ em được bảo vệ và chăm sóc toàn diện hơn thông qua việc triển khai Luật Trẻ em 2016, cùng nhiều chương trình quốc gia về dinh dưỡng, giáo dục, tiêm chủng, bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực và xâm hại.
Với người khuyết tật, chính sách hỗ trợ học nghề, tạo việc làm và trợ giúp xã hội được mở rộng, góp phần giúp họ hòa nhập cộng đồng.
Với đồng bào dân tộc thiểu số, Chính phủ triển khai nhiều chính sách, trong đó có Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, thu hẹp khoảng cách phát triển. Sau 5 năm thực hiện chương trình (2021-2025), tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt bình quân 3,4%, vượt dự kiến chương trình là 3,2%; thu nhập bình quân của người đạt bình quân 43,4 triệu đồng, tăng 3,1 lần so với năm 2020; nhóm mục tiêu về giáo dục, lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện đạt bình quân 54,8, vượt mục tiêu chương trình là 50%…
- Tích cực đối ngoại và hợp tác quốc tế về nhân quyền
Trên trường quốc tế, Việt Nam tích cực tham gia, ký kết và thực thi nhiều công ước quốc tế quan trọng về quyền con người, như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR), Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), Công ước về quyền trẻ em (CRC), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)...
Việt Nam đã hai lần được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016 và 2023-2025). Đây là minh chứng quốc tế ghi nhận những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Với vai trò thành viên tích cực của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc Việt Nam không chỉ thực thi nghiêm túc nghĩa vụ quốc tế mà còn góp phần thúc đẩy đối thoại, hợp tác vì sự tiến bộ chung của nhân quyền toàn cầu.
Những thành tựu to lớn về nhân quyền của Việt Nam hôm nay là minh chứng cho giá trị bền vững của Tuyên ngôn Độc lập, đồng thời khẳng định con đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã lựa chọn là đúng đắn. Trên hành trình bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, quyền con người là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực phát triển đất nước vẫn là mục tiêu kiên định, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam./.
Theo TTXVN
(1), (3): trích Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, sđd, tập 4, tr. 1,2,3
(2): Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân thế giới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1979, tr. 96.