1. Đặt vấn đề
Ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng nhân tài, coi đó là “nguyên khí của quốc gia”, là yếu tố quyết định sự hưng thịnh của đất nước. Người khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì nước mạnh, nguyên khí suy thì nước yếu.”, “Dụng nhân như dụng mộc”, “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù hiện nay còn ít, nhưng nếu ta khéo dùng, khéo khuyến khích, thì ngày càng nhiều thêm.”. Tư tưởng của Người về nhân tài vừa đặt nền móng cho một triết lý quản trị nhân lực mang tính nhân văn sâu sắc, phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ nhân tài phải được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển quốc gia, gắn với lợi ích của nhân dân và Tổ quốc.
Thấm nhuần tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về người tài, vừa nhân văn, tiến bộ và thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm coi “trọng dụng nhân tài” là một chủ trương lớn, mang tầm chiến lược quốc gia, trở thành nền tảng tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong công tác cán bộ và phát triển nhân lực, thu hút và trọng dụng nhân tài. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định rõ một trong ba đột phá chiến lược là “phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao gắn với đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”. Đây là cơ sở chính trị quan trọng thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc coi nhân tài là nguồn lực đặc biệt, là động lực then chốt của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước trong kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, thế giới đang bước vào kỷ nguyên kinh tế tri thức và chuyển đổi số, nơi nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là yếu tố then chốt quyết định năng lực cạnh tranh và sức mạnh quốc gia. Sự phát triển của giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đã và đang làm thay đổi căn bản mô hình tăng trưởng, phương thức quản trị cũng như cấu trúc kinh tế của mọi quốc gia. Trong xu thế đó, ở Việt Nam việc phát hiện, bồi dưỡng, thu hút và trọng dụng nhân tài thực hiện đột phá phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn là điều kiện tiên quyết để tạo ra đột phá trong phát triển bền vững.
2. Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài thời gian gần đây
Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, xác định quan điểm “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Trong đó, đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thì cần có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ...Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước. Có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học…
Triển khai Nghị quyết số 29-NQ/TW, để xây dựng được đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi, ngày 24/01/2014, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 86-KL/TW về chính sách phát triển nhân lực và trọng dụng nhân tài, trong đó khẳng định “cần có cơ chế, môi trường thuận lợi để nhân tài phát huy năng lực, sáng tạo và cống hiến cho đất nước; đổi mới căn bản trong đánh giá, tuyển chọn và sử dụng nhân tài theo hướng khách quan, công bằng, minh bạch, trọng dụng người có thực tài, không phân biệt thành phần hay xuất thân; xác định việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng hiệu quả nhân tài là một nhiệm vụ vừa cấp bách phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Để tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong giai mới, ngày 24/11/2023 Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW, trong đó tiếp tục khẳng định “đội ngũ trí thức là nhân tố quan trọng trong nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh toàn diện là đầu tư cho xây dựng, bồi đắp “nguyên khí quốc gia” và phát triển bền vững; chú trọng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam cả trong và ngoài nước, có cơ chế, chính sách đột phá thu hút, trọng dụng trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, chuyên gia đầu ngành và nhân tài của đất nước; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lớp trí thức trẻ” để họ phát huy năng lực sáng tạo, đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ quốc gia; đồng thời có cơ chế đặc thù để thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài, khuyến khích sáng tạo, tôn trọng tự do học thuật, bảo đảm môi trường làm việc dân chủ, minh bạch, có sức hấp dẫn và tạo động lực cống hiến lâu dài cho đội ngũ trí thức, nhà khoa học trong và ngoài nước
Trước bối cảnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vương mình của Dân tộc, ngày 22/12/2024 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết nhấn mạnh: “Chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài. Bố trí phù hợp số lượng cán bộ có trình độ chuyên môn khoa học kỹ thuật trong cấp ủy các cấp. Phát huy tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Ban hành cơ chế đặc thù thu hút người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài có trình độ cao về Việt Nam làm việc, sinh sống. Có cơ chế đặc biệt về nhập quốc tịch, sở hữu nhà, đất, thu nhập, môi trường làm việc nhằm thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các "tổng công trình sư" trong và ngoài nước có khả năng tổ chức, điều hành, chỉ huy, triển khai các nhiệm vụ trọng điểm quốc gia về khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực. Xây dựng, kết nối và phát triển mạng lưới chuyên gia, nhà khoa học trong nước và quốc tế”, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững; và phát triển đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học, yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm độc lập, tự chủ trong phát triển.
Đặc biệt, để đột phá khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia gắn chặt chẽ với đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam mới có lòng yêu nước và tự hào dân tộc, đủ bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, trình độ, sức khỏe để đáp ứng ứng yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới, ngày 22/8/2025 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo, tiếp tục khẳng định: “giáo dục là quốc sách hàng đầu, quyết định tương lai của dân tộc. Giáo dục, đào tạo phải bảo đảm “học đi đôi với hành”, “lý thuyết gắn liền với thực tiễn”, “nhà trường gắn liền với xã hội”. Giáo dục mầm non, phổ thông là nền tảng hình thành nhân cách, phát triển phẩm chất và năng lực người học. Giáo dục nghề nghiệp giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng lao động kỹ năng cao. Giáo dục đại học là nòng cốt phát triển nhân lực trình độ cao, nhân tài, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng chính sách phù hợp để huy động được người giỏi ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy, huấn luyện trong các cơ sở giáo dục; thực hiện chế độ giảng viên đồng cơ hữu cho những người giỏi đang công tác tại các đơn vị sự nghiệp công lập; có cơ chế khuyến khích huy động người giỏi chủ trì các hoạt động nghiên cứu khoa học tại các cơ sở giáo dục. Mở rộng các chương trình, đề án đào tạo, phát triển đội ngũ giảng viên, tăng chế độ hỗ trợ cho giảng viên đi học nâng cao trình độ trong và ngoài nước. Xây dựng chương trình thu hút giảng viên xuất sắc từ nước ngoài với các ưu đãi vượt trội. Đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế; tích hợp nội dung về phân tích dữ liệu và trí tuệ nhân tạo, tinh thần doanh nhân và khởi nghiệp. Hỗ trợ mở rộng triển khai các chương trình đào tạo tài năng, đào tạo sau đại học gắn kết với nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo trong các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ chiến lược, công nghệ ưu tiên của công nghiệp 4.0, các ngành phục vụ các dự án trọng điểm quốc gia. Gắn kết các hoạt động đào tạo với nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia”…Đây là nền tảng vững chắc để hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài ngay từ trong trường học, khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo, tôn vinh các nhà khoa học, nhà giáo, chuyên gia có đóng góp nổi bật; đồng thời, thiết lập cơ chế trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng, tạo động lực để nhân tài yên tâm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ nước nhà.
Thể chế chủ trương của Đảng, tạo hành lang pháp lý cho việc phát hiện, thu hút và phát huy đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học và giảng viên chất lượng cao trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo: Nghị định số 140/2017/NĐ-CP, ngày 05/12/2017 “về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ”, đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hình thành cơ chế phát hiện và bồi dưỡng nhân tài ngay từ trong hệ thống giáo dục đại học. Tiếp theo, Quyết định số 146/QĐ-TTg, 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu: Hình thành mạng lưới chuyên gia chuyển đổi số quốc gia trên cơ sở liên kết 1.000 chuyên gia chuyển đổi số với các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước làm việc trong lĩnh vực chuyển đổi số, công nghệ số để gắn kết sức mạnh tri thức, thúc đẩy chuyển đổi số. Với nhóm nhiệm vụ, giải pháp về chính sách: Nghiên cứu, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, triển khai đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên trách và trực tiếp triển khai chuyển đổi số trong các cơ quan nhà nước; Nghiên cứu, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách thu hút các giảng viên giỏi tham gia giảng dạy về chuyển đổi số, công nghệ số tại các cơ sở giáo dục; xây dựng chính sách ưu tiên để thu hút học sinh, sinh viên học chuyên sâu các chuyên ngành về chuyển đổi số, công nghệ số; xây dựng quỹ học bổng từ nguồn đóng góp, tài trợ của các tổ chức, tập đoàn, hãng công nghệ để cấp cho sinh viên theo học chuyên sâu các ngành về chuyển đổi số, công nghệ số có thành tích học tập xuất sắc. Nghị định số 179/2024/NĐ-CP, 31/12/2024 của Chính phủ: Quy định chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng làm việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức; sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ tài năng; chuyên gia, nhà quản lý, nhà quản trị doanh nghiệp, nhà khoa học đầu ngành là người Việt Nam hoặc là người nước ngoài. Đồng thời, quy định Nguyên tắc thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng đối với người có tài năng phải: Bảo đảm thống nhất, đồng bộ và khả thi từ khâu phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh. Bảo đảm công khai, minh bạch, khách quan, đúng đối tượng, thẩm quyền trong việc thực hiện chính sách; thực hiện chính sách trọng dụng phải tương xứng với đóng góp của người có tài năng, gắn với đánh giá hàng năm thông qua sản phẩm, chất lượng công việc cụ thể. Đây là khung chính sách, tập trung vào đổi mới cơ chế đánh giá, tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ nhân tài theo hướng cạnh tranh, hiệu quả và minh bạch, đồng thời khuyến khích sáng tạo, bảo đảm điều kiện cống hiến và phát triển nghề nghiệp lâu dài cho người tài trong khu vực công lẫn khu vực tư.
Gần đây, tại Quyết định số 1002/QĐ-TTg, 24/05/2025 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035 và định hướng tới năm 2045, chỉ rõ: Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, cần các chính sách đột phá, cơ chế đặc thù, nguồn lực đầu tư xứng tầm, giải pháp cấp bách và lâu dài, lộ trình thực hiện phù hợp. Mở rộng đào tạo trình độ cao, chất lượng cao trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán (STEM) nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng về cơ cấu nhân lực của các lĩnh vực công nghệ cao; tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân tài trong các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật và công nghệ then chốt trực tiếp phục vụ phát triển công nghệ chiến lược, công nghệ cao được ưu tiên. Gắn kết chặt chẽ đào tạo với thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các cơ sở giáo dục đại học; gắn kết với thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chiến lược…
Đặc biệt, để triển khai quyết liệt tinh thần chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW, ngày 19/9/2025 Chính phủ ban hành Nghị định số 249/2025/NĐ-CP, Quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tập trung quy định cơ chế, chính sách với tiêu chí cụ thể; xác định rõ quy trình tuyển chọn; cũng như quyền và nghĩa vụ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được giao chủ trì thực hiện chương trình, nhiệm vụ, dự án khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong việc xây dựng chính sách thu hút đối với chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài đáp ứng những tiêu chí chuyên gia mà nghị định này yêu cầu. Đây là những quy định được kỳ vọng cho việc mở đường, thu hút nhân tài vào khu vực công và các đơn vị sự nghiệp, cho phép nhân tài quyền tự chủ nhiều hơn, như toàn quyền quyết định các vấn đề kỹ thuật, công nghệ thuộc phạm vi trách nhiệm được giao; được quyền chủ động lựa chọn, huy động nhân lực; chủ động sử dụng kinh phí để mua sắm sản phẩm, thiết bị, bí quyết công nghệ với giá thỏa thuận. Tạo điều kiện để các cơ quan, cơ sở giáo dục đại học, viện nghiên cứu vận dụng thu hút những chuyên gia đầu ngành, đúng tầm, đúng thời điểm, đúng công việc, qua đó dẫn dắt các chương trình nghiên cứu, đổi mới và chuyển đổi số.
Với những định hướng nêu trên thể hiện rõ tính cấp thiết và ý nghĩa chiến lược của việc thu hút, phát huy và trọng dụng nhân tài trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Khẳng định quan điểm của Đảng và Nhà nước về thu hút, trọng dụng nhân tài là nhất quán, xuyên suốt và ngày càng toàn diện hơn. Chính sách nhân tài không chỉ là công cụ quản lý nhân sự, mà là một chiến lược quốc gia có tính định hướng lâu dài, gắn liền với mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện, xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Đó là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, phản ánh nhận thức sâu sắc rằng nhân tài là nguồn lực đặc biệt, là “nguyên khí quốc gia”, là trụ cột của sức mạnh dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần xây dựng đội ngũ nhân tài Việt Nam, nguồn lực trung tâm, động lực then chốt của sự nghiệp phát triển nhanh, bền vững đất nước, nâng cao năng suất lao động, năng lực đổi mới sáng tạo và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời khẳng định vị thế, uy tín và bản lĩnh Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Một số khuyến nghị
Chuyển đổi số và cạnh tranh tri thức ngày càng sâu sắc, sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng ứng dụng công nghệ cao và trí tuệ nhân tạo của hệ thống giáo dục, việc thu hút, trọng dụng và phát huy nhân tài trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đang trở thành nhiệm vụ chiến lược, vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra là phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Trước hết, về nhận thức, cần quán triệt sâu sắc quan điểm nhất quán của Đảng ta rằng “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, coi phát triển nhân tài là một bộ phận trọng yếu trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và là động lực nội sinh của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền phải nhận thức rõ công tác nhân tài không chỉ là nhiệm vụ của riêng một ngành nào, mà là trách nhiệm chính trị của toàn hệ thống chính trị. Do đó, cần đưa mục tiêu phát hiện, bồi dưỡng, thu hút và trọng dụng nhân tài vào nghị quyết, chương trình hành động của từng cấp, từng ngành; đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước, các hiệp hội khoa học. giáo dục trong việc tư vấn, phản biện và giám sát chính sách nhân tài.
Thứ hai, về cơ chế, chính sách, nhân tài chỉ có thể phát huy được khi có môi trường chính sách thực sự công bằng, minh bạch và đãi ngộ tương xứng. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung thể chế nhằm tạo động lực để nhân tài cống hiến và phát triển. Cần rà soát, điều chỉnh tạo hành lang pháp lý đồng bộ về cơ chế, chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ theo hướng tăng tính hấp dẫn và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Bên cạnh đó, cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ thông qua các quỹ như Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) và Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia (NATIF), đồng thời ban hành cơ chế tài chính linh hoạt, khuyến khích nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ lõi. Một cơ chế lương thưởng gắn với hiệu quả, năng lực và sáng tạo thay vì thâm niên cần sớm được thiết lập để khơi dậy động lực cống hiến thực chất.
Ngoài ra, việc hoàn thiện chính sách thu hút trí thức Việt Nam ở nước ngoài cần được triển khai theo hướng bền vững, gắn với chiến lược “Kết nối chuyên gia trí thức Việt Nam toàn cầu” do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, tạo điều kiện thuận lợi để chuyên gia Việt kiều tham gia giảng dạy, tư vấn và chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển quốc gia.
Thứ ba, về môi trường làm việc, cần xây dựng môi trường sáng tạo, dân chủ, tôn trọng tự do học thuật và khuyến khích nghiên cứu khoa học liêm chính. Một môi trường minh bạch, nơi nhân tài được trọng dụng theo năng lực và hiệu quả, sẽ là nền tảng để thu hút và giữ chân người tài. Việc đẩy mạnh tự chủ đại học là bước đi quan trọng nhằm tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục được tự quyết trong tuyển dụng, bổ nhiệm và đãi ngộ đội ngũ giảng viên, nhà khoa học. Cần khuyến khích mô hình kết nối giữa viện nghiên cứu công lập và doanh nghiệp tư nhân, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu thực tiễn sản xuất, đồng thời phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia về nhân tài để liên thông thông tin, quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc hình thành và vận hành hiệu quả mô hình “bốn nhà”: Nhà nước, nhà trường, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp sẽ tạo nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện, thúc đẩy ứng dụng khoa học vào đời sống kinh tế -xã hội.
Thứ tư, về công tác đào tạo, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, giáo dục cần thực sự trở thành nền tảng của chiến lược phát triển nhân tài quốc gia. Cần tiếp tục thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng học sinh, sinh viên có năng khiếu trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM) và đổi mới sáng tạo. Việc đổi mới chương trình giáo dục theo hướng phát triển năng lực, tư duy sáng tạo, kỹ năng số và kỹ năng nghiên cứu cần được triển khai mạnh mẽ ở tất cả các cấp học. Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường chính sách học bổng, hỗ trợ tài chính cho sinh viên tài năng, tạo điều kiện cho họ được học tập, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục hàng đầu trong nước và quốc tế. Các trường đại học, viện nghiên cứu cần đẩy mạnh hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo, vườn ươm khoa học trẻ, câu lạc bộ nghiên cứu sinh viên nhằm phát hiện và nuôi dưỡng tài năng từ sớm, tạo điều kiện để thế hệ trẻ phát huy năng lực sáng tạo và khát vọng cống hiến.
Thứ năm, về đội ngũ người dạy và người học, cần xác định rõ rằng giảng viên, nhà khoa học, giáo viên là lực lượng nòng cốt trong việc hình thành, lan tỏa và phát triển nhân tài. Cần có cơ chế tôn vinh và bảo vệ danh dự học thuật, bảo đảm điều kiện làm việc, nghiên cứu và sinh hoạt phù hợp cho đội ngũ trí thức. Việc bồi dưỡng thường xuyên, cập nhật kiến thức mới về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và phương pháp dạy học hiện đại phải trở thành yêu cầu bắt buộc và liên tục. Về phía người học, cần khuyến khích tinh thần học tập suốt đời. Người học phải được định hướng trở thành chủ thể tích cực trong việc chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu và sẵn sàng đóng góp cho xã hội. Người dạy và người học cần không ngừng trau dồi tri thức, gắn học tập với cống hiến, biến tri thức thành động lực phát triển đất nước.
Những giải pháp trên phát huy hiệu quả khi được triển khai một cách đồng bộ, nhất quán, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan và cộng đồng. Trước hết cần tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc hoạch định và triển khai chiến lược phát triển nhân tài quốc gia. Đồng thời, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách theo hướng công bằng, minh bạch và dựa trên năng lực thực chất; tạo môi trường làm việc sáng tạo, dân chủ và khuyến khích tự do học thuật. Khi chiến lược nhân tài được đặt đúng vị trí trong tổng thể chiến lược phát triển quốc gia, Việt Nam mới có thể xây dựng thành công hệ sinh thái nhân tài quốc gia, nơi trí tuệ, đổi mới sáng tạo và tinh thần cống hiến trở thành động lực trung tâm cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên tri thức và chuyển đổi số. Khi nhân tài được tôn vinh và tạo điều kiện phát huy, Việt Nam sẽ xây dựng được đội ngũ trí thức tinh hoa, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
TS. Lê Thị Mai Hoa, Phó Vụ trưởng, Vụ Giáo dục,
Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương