I. Nhận thức về mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"
1. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, sự ra đời của Nhà nước muộn hơn rất nhiều so với sự hình thành của xã hội loài người, bắt đầu với sự ra đời của Nhà nước chủ nô thời cổ đại (khoảng hơn 4.000 trước Công nguyên); còn sự ra đời của các đảng chính trị mới bắt đầu từ thế kỷ 17, và các đảng chính trị hiện đại được coi là xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỷ 19, đầu tiên ở châu Âu và Hoa Kỳ, có nghĩa là muộn hơn rất nhiều so với sự ra đời của Nhà nước. Cả sự ra đời của Nhà nước và sự ra đời của các đảng chính trị đều là hệ quả tất yếu - khách quan trong sự phát triển của xã hội loài người. Do đó, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và xã hội là mối quan hệ có tính khách quan, phổ biến trên thế giới, nhất là trong các xã hội dân chủ, tiến tiến, hiện đại. Mối quan hệ này có những đặc điểm chung, mang tính phổ quát; song có sự khác nhau về bản chất, thể chế, cơ chế thực hiện, về vị trí, vai trò của từng chủ thể trong thể chế pháp quyền, phụ thuộc vào chế độ chính trị - xã hội, điều kiện và trình độ phát triển của mỗi nước.
2. Để hiểu rõ bản chất của vấn đề, có một số khái niệm cần được nhận thức rõ hơn; đó là các khái niệm “pháp quyển”, “thể chế pháp quyền”, “nhà nước pháp quyền”, “pháp trị”, “nhà nước pháp trị”[1]:
- Khái niệm “pháp quyền” (Rule of Law) thường được hiểu là quyền lực tối thượng của luật pháp (nguyên tắc pháp quyền) trong một chế độ xã hội, với các đặc trưng cơ bản là: (i) - sự bình đẳng trước pháp luật; không ai đứng được trên pháp luật; tất cả các tổ chức, mọi người, bất kể địa vị đều là đối tượng của pháp luật và chịu sự xét xử của cơ quan tư pháp; (ii) - Quyền được bảo vệ trước pháp luật (khi quyền lực nhà nước được sử dụng trái pháp luật, tùy tiện đối với mình); không ai bị trừng phạt hoặc phải chịu tổn hại về thân thể hay lợi ích vật chất và tinh thần trừ khi có sự vi phạm rõ ràng theo quy định của luật pháp, và có kết luận của tòa án; (iii) - Các nguyên tắc hiến pháp và luật pháp phải hướng tới bảo vệ và thực thi các quyền của con người, quyền công dân theo tinh thần thượng tôn pháp luật; lấy đó làm yếu tố pháp lý nền tảng, định hướng, chi phối hoạt động của một xã hội. Nguyên tắc pháp quyền đặt mọi chủ thể trong xã hội (nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân) vào một khung pháp lý chung, do pháp luật là chuẩn mực điều tiết.
- Khải niệm “pháp trị” (Rule by Law) có những khía cạnh nội hàm giống và khác với khải niệm “pháp quyền”. Điểm giống nhau của hai khái niệm này là đều lấy pháp luật làm nền tảng chi phối hoạt động của xã hội; nhưng, nếu khái niệm “pháp quyền” nói về nềm tảng pháp lý tối cao chung cho sự hoạt động của mọi chủ thể trong xã hội (trong đó có nhà nước), thì khái niệm “pháp trị” lại chủ yếu nói về phương diện Nhà nước quản lý xã hội bằng luật pháp (“cai trị” bằng pháp luật, dù luật pháp đó có mang đầy đủ tính chất và các nguyên tắc pháp quyền hay không).
- Khái niệm “Thể chế pháp quyền”, được dùng để chỉ thể chế chính trị - xã hội (hay chế độ chính trị - xã hội) của một đất nước được xây dựng, vận hành và pháp triển trên nền tảng pháp quyền đối với cả xã hội (bao gồm Nhà nước, các tổ chức và tất cả các cá nhân).
- Khái niệm “Nhà nước pháp quyền”, hiện đang được hiểu với hai nội hàm hẹp và rộng: nội hàm hẹp để chỉ Nhà nước được được xây dựng và vận hành theo các nguyên tắc pháp quyền; còn nội hàm rộng được hiểu tương đương với khái niệm “Thể chế pháp quyền”. Trong bài này, khi nào nói về Nhà nước pháp quyền là theo nghĩa hẹp (để tránh nhần lẫn với nghĩa rộng, hiện cũng đang được sử dụng ở Việt Nam).
- Khái niệm “Nhà nước pháp trị” thường được dùng với nghĩa Nhà nước quản lý (“cai trị”) xã hội bằng pháp luật (nhưng chưa đề cập rõ pháp luật được xây dựng và vận hành theo nguyên tắc nào).
Như vậy, khải niệm “pháp quyền”, “Nhà nước pháp quyền”, “Thể chế pháp quyền” đã được thừa nhận là những giá trị có tính phổ quát trên thế giới, cả trong nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn chính trị - pháp lý.
3. Mối quan hệ giữa Đảng (trước hết là các đảng cầm quyền), Nhà nước và xã hội cũng chứa đựng các bản chất khác nhau trong các thể chế chính trị - xã hội khác nhau. Trong thế giới đương đại hiện nay, ngay trong các nước có thể chế chính trị - xã hội “quân chủ lập hiến” cũng có các đảng chính trị cầm quyền hay tham chính; cũng có những nước xây dựng thể chế chính trị - xã hội theo các nguyên tắc “pháp trị”; đồng thời tại nhiều nước xây dựng thể chế chính trị - xã hội theo các nguyên tắc “pháp quyền”, tức xây dựng “Thể chế pháp quyền”.
Bản chất cơ bản nhất của mối quan hệ giữa ba chủ thể Đảng (trước hết là các đảng cầm quyền), Nhà nước và xã hội trong “Thể chế pháp quyền” là sự chế định tương hỗ về quyền, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình giữa ba chủ thể Đảng lãnh đạo - cầm quyền, Nhà nước quản lý và vai trò chủ thể của nhân dân, theo các nguyên tắc pháp quyền, tức thượng tôn pháp luật. Ở đây rất cần làm rõ vị chí, vai trò của từng chủ thể.
Về Đảng, thế nào là một đảng lãnh đạo - cầm quyền trong một thể chế dân chủ pháp quyền (?). Trên thế giới, trong một thể chế dân chủ pháp quyền, về nguyên tắc, một đảng giành được vai trò “cầm quyền” cũng phải bằng con đường dân chủ pháp quyền, thông qua bầu cử vào các cơ quan lập pháp, hành pháp (ở đây không nói tới các tiêu cực vẫn có thể xảy ra trong các cuộc bầu cử).
Vai trò của Đảng được thể hiện trước hết ở năng lực lãnh đạo chính trị, định hướng phát triển của đất nước trong một giai đoạn cụ thể (được thể hiện ở Cương lĩnh tranh cử). Cương lĩnh đó được đa số nhân dân ủng hộ tới mức nào phụ thuộc vào nó phản ánh đúng xu thế phát triển, tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân tới mức nào (?). Đảng muốn thắng cử phải có Cương lĩnh tranh cử được đa số nhân dân ửng hộ; đồng thời các ứng cử viên do đảng đó đưa ra tranh cử phải là những người có “đức - tài” được xã hội thừa nhận. Đảng thắng cử (đảng giành được đa số cần thiết theo quy định của Hiến pháp) trong bầu cử vào cơ quan lập pháp sẽ được quyền đứng đầu cơ quan lập pháp; đồng thời có quyền đứng ra lập Chính phủ, và thường là “thủ lĩnh” đảng đó sẽ làm Tổng thống, hay thủ tướng.
Như vậy, nhân dân thông qua (từ) uy tín chính trị của Đảng, bằng con đường pháp quyền để “ủy quyền” cho đảng đó đứng ra lãnh đạo Nhà nước (“cầm quyền”) trong một thời gian xác định (theo quy định của Hiến pháp). Điều đó đã tạo nền tảng pháp lý cho tính chính danh (cẩm quyền) của Đảng. Bằng việc “lãnh đạo” để Nhà nước “quản lý” xã hội bằng pháp luật, thực hiện cương lĩnh phát triển đất nước đặt ra khi tranh cử, thể hiện ở hiệu lực, hiệu quả thực tế của quản lý nhà nước đối với sự phát triển đất nước, và bằng tấm gương của các đảng viên được đảng cử ra tham chính, nhân dân sẽ bày tỏ chính kiến về tính chính đáng (xứng đáng) của đảng cầm quyền trong nhiệm kỳ đang cầm quyền, hay khi hết nhiệm kỳ, bằng việc bỏ phiếu tín nhiệm, bầu lại (thực chất là uỷ quyền tiếp) hay không bầu lại khi bước sang nhiệm kỳ mới.
Việc trong các nước với thể chế dân chủ pháp quyền, Hiếp pháp quy định bầu lại cơ quan lập pháp (Quốc Hội, và kéo theo đó là lập Chính phủ mới) sau mỗi nhiệm kỳ (thường là 4-5 năm), là để các đảng chính trị luôn luôn được đặt trước sự giám sát, đánh giá trực tiếp của nhân dân cả về tính “chính danh” và tính “chính đáng” của các đảng được nhân dân “ủy thác” cầm quyền và các đảng tham chính, và của các cá nhân đại diện do đảng đó cử ra tham chính. Nếu hết nhiệm kỳ, mà nhân dân thấy đảng đang cầm quyền không còn đảm bảo tính “chính đáng”, tức không còn đủ uy tín cầm quyền qua thực tế, thì sẽ không bầu cho ở nhiệm kỳ tiếp theo (tức là tước bỏ tính “chính danh” của đảng đó, hay của các cá nhân cụ thể đại diện cho đảng đó).
Đây chính là thể hiện “quyền lực” của nhân dân đối với các đảng chính trị trong thể chế dân chủ pháp quyền: Từ uy tín chính trị của Đảng để trao cho đảng đó tính “chính danh” cầm quyền Nhà nước; từ trao cho tính “chính danh”, nhân dân sẽ giám sát, đánh giá xem đảng đó có xác lập được tính “chính đáng” trên thực tế không; và từ mức độ đáp ứng tính “chính đáng” để quyết định xem có tiếp tục trao cho đảng đó tính “chính danh” (“ủy thác”) cầm quyền nhiệm kỳ tiếp theo hay không (thông qua bỏ phiếu bầu). Nhưng ở đây tuyệt nhiên không nên nhầm lẫn giữa sự “ủy thác” chính trị của nhân dân đối với một đảng về sự “cầm quyền” (hay gọi là “lãnh đạo”) nhà nước (đây không phải là nhân dân “ủy thác” cho đảng đó trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước), với việc nhân dân “ủy quyền” cho Nhà nước thực hiện quyền lực của mình theo các nguyên tắc pháp quyền.
Một đảng được trao “cầm quyền”, không có nghĩa là đảng đó có thể lấy đường lối, tư tưởng, chủ trương, nguyên tắc của đảng, kỷ luật của đảng trực tiếp áp đặt vào xã hội, thay cho pháp luật nhà nước; mà đường lối đó, chủ trương đó phải được thể chế hóa bằng con đường pháp quyền, được cơ quan lập pháp (có thể là đa đảng) thông qua và được cơ quan hành pháp thực thi (nhưng khi đó, đối với xã hội không phải danh nghĩa của đảng, mà là danh nghĩa pháp luật, chính sách của nhà nước pháp quyền). Một đảng, nếu mất uy tín, nhân dân sẽ không trao cho “cầm quyền” Nhà nước tiếp nữa (qua bầu cử), nhưng thể chế - thiết chế nhà nước vẫn tồn tại và vận hành theo chế định của Hiến pháp và pháp luật, không phụ thuộc vào đảng nào “cầm quyền”. Bởi vì, nhân dân “ủy quyền” cho Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước bằng con đường pháp quyền, với tư cách “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”; còn đảng chính trị thường là đại diện cho một gia cấp, một tầng lớp xã hội, thậm chí cho một tập hợp những người cùng tư tưởng, quan điểm nào đó (ví dụ Đảng Xanh là của những người có chung quan điểm về bảo vệ môi trường sinh thái). Ở những nước này, đảng chính trị (kể cả đảng cầm quyền) không phải là đại diện pháp lý cho đất nước, cho xã hội. Như vậy, đảng không thể “đứng trên” Nhà nước, không thể “sử dụng” Nhà nước làm “công cụ” riêng của đảng để “quản lý” xã hội; Nhà nước là một thiết chế pháp quyền độc lập theo Hiến pháp.
4. Vậy, các đảng chính trị ra đời và tham chính nhằm mục đích gì ? Đương nhiên các đảng chính trị có quyền và lợi ích gắn với giai cấp, tầng lớp hay nhóm xã hội mà đảng đó đại diện. Tuy nhiên, như C. Mác đã từng nói rằng: Một đảng để giành được chính quyền và lãnh đạo chính quyền (cầm quyền) của một đất nước, đảng đó “không thể không trở thành dân tộc”; theo nghĩa, đảng đó còn phải đại diện, bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích chính đáng của cả dân tộc, của đại đa số nhân dân, của cả các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội; không thể chỉ “biệt phái” vì quyền và lợi ích của riêng giai cấp mình, tầng lớp xã hội mình, hay của “nhóm xã hội mình”. Đây cũng là một phương diện thể hiện bản chất quan hệ giữa đảng và xã hội của một đảng được đa số nhân dân tín nhiệm trao cho “cầm quyền” Nhà nước thông qua bầu cử công khai, dân chủ. Trên thực tế, có những đảng ra đời rất sớm, tồn tại lâu dài, nhưng chưa bao giờ được đa số nhân dân tin cậy, “ủy thác” cho “cầm quyền” chính là chủ yếu bởi lý do đảng này chưa thể hiện được rõ và cao trình độ “trở thành dân tộc”, như Mác nói. Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng (cầm quyền) và Nhà nước là mối quan hệ giữa một chủ thể (tổ chức chính trị - xã hội) được nhân dân “ủy thác” trách nhiệm chính trị đứng ra “lãnh đạo” (“cầm quyền”) Nhà nước trong một thời hạn xác định, với thiết chế Nhà nước tồn tại ốn định lâu dài, được nhân dân thành lập bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện quyền lực nhà nước theo sự “ủy quyền” của nhân dân. Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng đối với Nhà nước rất quan trọng, nhưng trong thể chế pháp quyền Nhà nước mới là trung tâm, là cấu nối cơ bản nhất, chủ yếu nhất mang tính pháp lý giữa Đảng (cầm quyền) và xã hội (nhân dân).
Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng và xã hội được thiết lập qua hai kênh chủ yếu: kênh trực tiếp với xã hội, thông qua tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách của đảng đến các tầng lớp nhân dân trong xã hội theo các phương thức mà pháp luật quy định. Kênh gián tiếp thông qua Nhà nước, là khi được nhân dân trao cho “cầm quyền” hay tham chính, Đảng phải đưa những chủ trương, chính sách phát triển thành các đề xuất pháp lý trình cơ quan nhà nước liên quan (qua đại diện của đảng tại các cơ quan đó), đề các cơ quan đó xem xét (có thể đứng trước sự phản biện, phản bác của các đại diện của các đảng khác). Nếu được đa số nhất trí thông qua, có nghĩa là chủ trương, chính sách đó được thể chế hóa về mặt pháp luật. Sau đó, các cơ quan nhà nước mới đưa ra xã hội để thực hiện với tính cách là chính sách của Nhà nước. Xã hội (nhân dân và các chủ thể trong xã hội) chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện các cơ chế, chính sách đó với tính cách là của Nhà nước; chứ không phải là chịu trách nhiệm pháp lý trước Đảng.
Mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng (cầm quyền) sẽ mang tính hai mặt: một mặt, chịu sự lãnh đạo chính trị của Đảng cầm quyền, tìm các giải pháp để thể chế hóa chủ trương, chính sách phát triển của đảng thành cơ chế, chính sách của nhà nước; mặt khác, Nhà nước phải thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công quyền được chế định trong Hiến pháp và pháp luật và chịu trách nhiệm giải trình trước xã hội, không phụ thuộc vào đảng cầm quyền (và các Đảng cầm quyền không được làm trái phát luật). Hai mặt đó không phải khi nào cũng trùng hợp với nhau, nhất là khi trong các cơ quan lập pháp có nhiều đảng tham chính, không dễ dàng nhất trí với nhau để thể chế hóa các chính sách, khi các đề xuất chính sách đưa ra không phù hợp với thực tiễn, không được xã hội đồng tình cao, hoặc trái pháp luật.
Mối quan hệ giữa Nhà nước và xã hội (nhân dân) là mối quan hệ đa diện: đó là mối quan hệ giữa chủ thể được “ủy quyền” thực hiện quyền lực nhà nước với chủ thể trao “ủy quyền” đó là xã hội (nhân dân) bằng con đường pháp quyền. Trong thể chế dân chủ pháp quyền, việc trao “ủy quyền” cho một bộ máy nhà nước cụ thể là có điều kiện, theo quy định của pháp luật, thông qua định kỳ bầu cử (trực tiếp hoặc đại diện) vào các cơ quan nhà nước. Nều đa số nhân dân thấy bộ máy nhà nước đó có đủ tín nhiệm sẽ bằng lá phiếu của mình để tiếp tục “ủy quyền” ở nhiệm kỳ tiếp theo, nếu không sẽ bầu ra một bộ máy mới. Mặt khác, đó là mối quan hệ giữa cơ quan quyền lực nhà nước (quản lý nhà nước) với tất cả các chủ thể hoạt động trong xã hội; theo nghĩa này và trên phương diện này, Nhà nước Phải “đứng trên” các chủ thể trong xã hội (về mặt pháp lý); đồng thời, Nhà nước còn phải thực hiện chức năng “đối tác phát triển” với tất cả các chủ thể trong xã hội (chức năng này ngày càng tăng lên trong xã hội hiện đại), mà hiện nay đang được đề cập đến trong quan niệm “quản trị quốc gia” (hay quản trị nhà nước).
Trong thể chế phát triển dân chủ pháp quyền hiện đại, các phương diện quan hệ trên giữa nhà nước và xã hội ngày càng có bước phát triển mới về chất, với các hình thức ngày càng phong phú, hiệu quả hơn. Trong đó nhất quán các nguyên tắc pháp quyền: cả Nhà nước và xã hội đều hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và phát luật, không chủ thể nào được đứng trên, đứng ngoài pháp luật; Nhà nước quản lý xã hội bằng luật pháp, trách nhiệm giải trình của Nhà nước trước xã hội ngày càng tăng lên; quyền con người, quyền công dân, quyền dân chủ, quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể được luật pháp (thông qua nhà nước) bảo vệ và phát triển ngày càng cao hơn; quyền và ý thức trách nhiệm của người dân tham gia xây dựng nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng nâng lên và hiệu quả hơn.
Về vai trò chủ thể - quyền làm chủ của nhân dân: có ý nghĩa bao trùm là quyền lực nhà nước tối cao thuộc về nhân dân, nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Nguyên tắc chủ quyền nhân dân có nội dung là mọi quyền lực (nhà nước) được thực hiện thông qua các cuộc hội nghị nhân dân (các cơ quan đại diện của nhân dân). Chủ quyền nhân dân là một giá trị phổ quát được các nhà nước hiện đại thừa nhận; đó là một nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Vai trò chủ thể và quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện thông qua các nội dung chủ yếu sau: quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và các tổ chức xã hội được luật pháp và Nhà nước tôn trọng và bảo vệ (trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…) ; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia vào đời sống chính trị của người dân và các tổ chức trong xã hội; quyền bày tỏ chính kiến về cương lĩnh, chủ trương, chính sách về phát triển đất nước của các đảng chính trị; quyền lựa chọn và trao “ủy quyền” cho đảng cầm quyền; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người dân trong việc thiết lập nên Nhà nước (chính quyền) thông qua Hiến pháp và bầu cử; quyền trực tiếp tham gia vào các công việc của nhà nước, giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước; quyền quyết định những vấn đề lớn về thể chế nhà nước, cơ chế, chính sách thông qua trưng cầu dân ý. Như vậy, để chủ quyền nhân dân có tính thực chất và hiệu quả, thì, một mặt nhân dân phải có trình độ nhận thức và ý thức trách nhiệm đầy đủ về “quyền là chủ và làm chủ của mình”; đồng thời, phải chế định đồng bộ hệ thống luật pháp, cơ chế để nhân dân thực hiện các quyền và trách nhiệm của mình; nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các phương tiện cần thiết để người dân thực hiện các quyền và trách nhiệm của mình.
5. Mối quan hệ giữa Đảng (cầm quyền) - Nhà nước - xã hội (nhân dân) chứa đựng tổng hợp rất nhiều phương diện: kinh tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, đạo đức, xã hội…Sức sống và sức mạnh hiện thực của mối quan hệ này không chỉ chủ yếu bởi phương diện pháp lý - áp đặt, mà được thể hiện ở việc hiện thực hóa các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể trong xã hội, được quy tụ ở hình thành giá trị niềm tin quốc gia dân tộc, tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo thành sức mạnh chủ đạo đưa dân tộc vượt qua những thử thách cam go nhất để phát triển, để vươn lên trong thế giới hiện đại. Sự suy yếu của mối quan hệ này được thể hiện sự suy yếu về mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với xã hội (nhân dân), ở sự suy yếu, “đứt gãy” về trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của Đảng, Nhà nước trước xã hội (nhân dân); ở việc Đảng “đóng không đúng vai trò lãnh đạo chính trị” đối với Nhà nước và xã hội; ở việc Nhà nước hoạt động và quản lý xã hội không tuân thủ đúng các nguyên tắc pháp quyền. Điều đó làm tổn hại không chỉ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; mà điều quan trọng là nó làm suy yếu đi niềm tin vào Đảng, vào Nhà nước, niềm tin quốc gia - dân tộc; sói mòn động lực phát triển, đến mức nghiêm trọng có thể dẫn đến khủng hoảng, đổ vỡ xã hội (sự sụp đổ của Liên Xô, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng này được tích tụ qua nhiều năm, nhưng không được nhận ra kịp thời và khắc phục có hiệu quả. Tại Việt Nam, cũng có những nơi như ở Thái Bình đã để xẩy ra vụ việc năm 1997, khi nhiều người dân đứng lên tố cáo, chống đối lại các cán bộ, đảng viên, cán bộ chính quyền có tham nhũng tiêu cực, nhưng không được giải quyết thỏa đáng; một số cán bộ lại cho rằng có bàn tay của kẻ địch. Nhưng nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị, chỉ rõ đây là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, trong đó có sai lầm, khuyết điểm rất nghiên trọng của một số tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên; trên cơ sở nhận thức đúng đắn đó đã giải quyết thỏa đáng vấn đề. Cán bộ chủ chốt của hơn 200 xã trong 285 xã của tỉnh được thay thế. Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND, Chánh Thanh tra, Giám đốc Công an, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân được điều đi khỏi Thái Bình. Đây là một bài học xương máu về mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Nhân dân).
Như vậy, tính hiệu lực, hiệu quả của mối quan hệ giữa Đảng (cầm quyền, tham chính) - Nhà nước - xã hội (nhân dân) được quy định bởi mức độ đồng mục tiêu, đồng định hướng, đồng lợi ích cơ bản giữa ba chủ thể này; các mối quan hệ này được thể chế hóa thành cơ chế mang tính pháp lý công khai, minh bạch về quan hệ tương hỗ giữa ba chủ thể về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình theo các nguyên tắc pháp quyền. Trong thể chế dân chủ pháp quyền, sự “đồng điệu” giữa ba chủ thể đó tạo thành “cỗ xe tam mã” để tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Trong đó, Đảng cầm quyền có vai trò định hướng chính trị cho sự phát triển của cả Nhà nước và xã hội; Nhà nước đóng vai trò trung tâm của thể chế pháp quyền; xã hội (nhân dân, và các tổ chức trong xã hội) đóng vai trò chủ thể mục tiêu và động lực của sự phát triển (cả sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đều phải hướng tới phục vụ cho sự phát triển quyền và lợi ích của chủ thể mục tiêu này, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân).
Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện, truyền thống văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển và thể chế chính trị - xã hội của mỗi nước, mà mức độ “đồng điệu” giữa ba chủ thể Đảng, Nhà nước, xã hội có những cấp độ khác nhau, hiệu quả khác nhau. Đối với Việt Nam, với bản chất cốt lõi của Đảng ta “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, với bản chất của nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, đó là cơ sở nền tảng để tạo sự “đồng điệu” cao về mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng, Nhà nước và xã hội (nhân dân) trong xây dựng và phát triển thể dân chủ pháp quyền. Như vậy, xét từ quan điểm “dân là gốc, dân là chủ thể”, “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “lợi ích quốc gia - dân tộc là trên hết”, thì bản chất cốt lõi của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” là tôn trọng, bảo vệ và phát triển các giá trị con người - giá trị công dân, giá trị cộng đồng, giá trị xã hội, giá trị quốc gia - dân tộc trong thể chế dân chủ pháp quyền, trong mỗi bước phát triển.
II. Thực trạng và những vấn đề đặt ra về mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" ở nước ta
1. Khái quát những kết quả chủ yếu:
Trên thực tế, mối quan hệ giữa Đảng - Nhà nước xã hội (nhân dân) đã được xác lập và tồn tại ngay từ khi ra đời chính thể “Việt Nam dân chủ cộng hòa” (năm1945). Nhưng, đến Đại hội XI (năm 2011) Đảng ta mới nhận thức và xác định chính thức thành mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, coi đây là mối quan hệ lớn, cơ bản, có ý nghĩa bao trùm, xuyên suốt cho quá trình vận hành của hệ thống chính trị, cần phải được “đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt”. Để xây dựng và thực hiện mối quan hệ này có hiệu quả, Đảng đã xác định phải tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN theo Hiến pháp 2013; phải đề cao và thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân. Trên thực tế, cả về nhận thức và thực tiễn thực hiện mối quan hệ này đã có những bước tiến quan trọng.
Về mặt nhận thức, đã xác định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò cơ bản của các chủ thể trong mối quan hệ: (i) Đảng giữ vị trí, vai trò lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng tuyên truyền thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên, bằng công tác cán bộ, hướng sự lãnh đạo vào đảm bảo phát huy cao vai trò của quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân; (ii) Xây dựng nhà nước pháp quyền theo nguyên lý “của dân, do dân, vì dân”, Nhà nước là công cụ thực hiện quyền lực nhà nước, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, đảm bảo và phát huy cao quyền làm chủ của nhân dân; chịu sự giám sát của nhân dân; (iii) Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước (thông qua cơ chế “ủy quyền” và kiểm soát quyền lực nhà nước), thông qua các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp của mình, và bằng thực hiện các quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và luật quy định; thông qua quyền và trách nhiệm tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước.
Về mặt thực tiễn: Vai trò, chức năng của từng chủ thể và mối quan hệ giữa ba chủ thể được chế định ngày càng đầy đủ và rõ hơn trong Điều lệ và các quy định của Đảng, trong Hiến pháp và luật pháp của Nhà nước (trên bình diện chung, cũng như từng cấp, từng lĩnh vực). Việc phát huy vai trò của từng chủ thể, của mối quan hệ giữa ba chủ thể là một nhân tố quyết định đưa lại những thành lựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau 35 năm Đổi mới; làm cho thế và lực của đất nước ta ngày càng được tăng cường; đời sống mọi mặt của nhân dân ngày càng được nâng cao; vị thế của đất nước - dân tộc ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng lên. Đó là điều khẳng định.
2. Khái quát những hạn chế, bất cập:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, chúng ta cần thấy rằng những yếu kém, bất cập trong sự phát triển đất nước có nguyên do cơ bản là nhận thức về vị trí, vai trò, chức năng của từng chủ thể và mối quan hệ giữa ba chủ thể, cũng như thực tiễn xây dựng và thực hiện thể chế, cơ chế về mối quan hệ này theo yêu cầu và các nguyên tắc dân chủ pháp quyền còn nhiều hạn chế, có những mặt chưa phù hợp.
(1). Nhận thức về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” còn có những hạn chế, bất cập chủ yếu sau:
- Nhận thức về thể chế pháp quyền (hay còn gọi rõ là thể chế dân chủ pháp quyền) còn có những mặt chưa đầy đủ và sâu sắc, chưa phân định rõ khái niệm về “Nhà nước pháp quyền” và “Thể chế pháp quyền”; chưa nhận thức đầy đủ xây dựng Thể chế pháp quyền là phải xây dựng đồng bộ Nhà nước pháp quyền, xã hội pháp quyền, và con người - công dân pháp quyền; chưa nhận thức rõ, đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kiến trúc thượng tầng theo các nguyên tắc pháp quyền của Nhà nước pháp quyền XHCN, với nền tảng cơ sở hạ tầng vận động theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; chưa nhận thức rõ và đầy đủ thể chế pháp quyền, Nhà nước pháp quyền thể hiện trình độ phát triển tổng hợp của một đất nước, gắn liền với trình độ, năng lực của tất cả các chủ thể, được chế định bởi trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…; không đơn giản là chỉ cần hoàn thiện đồng bộ hệ thống luật pháp (dù rất hiện đại). Vì chưa nhận thức rõ những vấn đề nêu trên, nên có cả tình trạng chủ quan duy ý chí, cả tình trạng bảo thủ trì trệ.
- Nhận thức về vị trí, vai trò của Đảng trong thể chế dân chủ pháp quyền còn những mặt chưa rõ, chưa đầy đủ. Trong Cương lĩnh của Đảng (2011), cũng như trong Hiến pháp xác định “Đảng cộng sản Việt Nam là … lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, trên thực tế có sự hiểu không đúng rằng Đảng (cụ thể là các cấp ủy) có vị trí tối cao trong xã hội, đứng trên Nhà nước và xã hội, có quyền quyết định tối cao về mọi việc; coi Đảng là chủ thể lãnh đạo, còn Nhà nước là chủ thể thừa hành quản lý thực thi; nhấn mạnh một chiều vai trò lãnh đạo của Đảng, coi Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là như là hệ quả đương nhiên; chưa nhận thức đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của Đảng trong hệ thống chính trị. Chưa nhận thức rõ, đẩy đủ và thống nhất về vai trò “lãnh đạo” và vai trò “cầm quyền” của Đảng, về phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng (các cấp ủy) trong Thể chế dân chủ pháp quyền. Vẫn còn tình trạng chưa nhận thức và phân định rõ chức năng lãnh đạo và định hướng chính trị của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy mà phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước, đối với từng nhánh quyền lực, đối với từng lĩnh vực xã hội có mặt chậm được đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu (đây là điều mà Đảng ta đã đề cập trong Văn kiện, Nghị quyết của Đảng trong nhiều nhiệm kỳ, nhất là trong Văn kiện Đại hội XIII .
- Nhận thức về Nhà nước pháp quyền còn những mặt chưa đầy đủ và sâu sắc. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng trong nhận thức về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; tuy nhiên, vẫn còn những điều nhận thức chưa rõ ràng và thiếu thiếu thống nhất, như về các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của luật pháp. Nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ và còn có sự khác nhau và lúng túng trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhận thức chưa đủ rõ vấn đề “quyền lực nhà nước là thống nhất” được hiểu như thế nào? Thống nhất vào đâu? Thống nhất theo cơ chế nào ?.
Có những ý kiến cho rằng, ở nước ta do một Đảng cầm quyền, nên quyền lực nhà nước tập trung thống nhất ở sự lãnh đạo của Đảng (quan niệm này sẽ “coi” Đảng thành chủ thể pháp lý “phán quyết, điều tiết, cầm trịch” sự thống nhất quyền lực nhà nước, liệu như thế có đúng nguyên tắc pháp quyền không ?). Ngược lại, cũng có những ý kiến cho rằng quyền lực nhà nước cần tập trung và thống nhất ở Quốc hội; bởi Quốc hội được Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (nếu thế, có phải Quốc hội là thiết chế là cấp trên của thiết chế hành pháp và tư pháp ?).
Tất cả quyền lực Nhà nước, về nguyên lý dân chủ pháp quyền, là thuộc về Nhân dân, cần phải được hiểu thể nào cho đầy đủ, làm cơ sở chế định cơ chế để nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền lực của mình thông qua Nhà nước. Nhận thức về “sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” vẫn chưa đủ rõ; đây chỉ là phương thức, cơ chế phối hợp, hay là nội dung mang tính bản chất trong xây dựng và cơ chế hoạt động của Nhà nước pháp quyền ?. Nhận thức về “kiểm soát quyền lực nhà nước” giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp vẫn chưa đủ rõ; nội dung, cơ chế, thiết chế kiểm soát quyền lực lẫn nhau là như thế nào? Không làm rõ những vấn đề này sẽ không đủ cơ sở để chế định trách nhiệm giải trình của từng loại thiết chế nhà nước.
- Nhận thức về vai trò chủ thể - quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn không ít bất cập cả từ phía các tổ chức đảng, tổ chức nhà nước và từ xã hội. Khái niệm “Nhân dân” còn được hiểu khá là chung; nhận thức nội hàm quan điểm “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chưa đủ rõ; vai trò của nhân dân được nhận thức chủ yếu về phương diện tuân thủ, thực thi pháp luật, thực thi dân chủ, kỷ cương; nhận thức chưa đầy đủ, đồng bộ về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia của người dân và các tổ chức vào đời sống chính trị xã hội, vào góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; nhận thức về quyền dân chủ của nhân dân còn bó hẹp chủ yếu trong hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện qua bầu cử, chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa trên các lĩnh vực khác; quan điểm “lấy dân làm gốc” cũng chưa được nhận thức cụ thể, sâu sắc.
Nhận thức về vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chưa đầy đủ, trên thực tế nhận thức còn thiên về coi đó là các tổ chức phong trào, các cuộc vận động xã hội hỗ trợ cho việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước (điều này là đúng), nhưng nhận thức về tính độc lập, tự chủ của các tổ chức này chưa rõ, chưa tương xứng với vai trò là nền tảng chính trị - xã hội của thể chế dân chủ pháp quyền.
- Nhận thức về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở nhiều nơi chủ yếu còn mang tính bị động, một chiều Đảng - Nhà nước - Nhân dân, coi nhân dân là chủ thể cần được lãnh đạo và quản lý, chưa nhận thức đầy đủ nhân dân còn là “đối tác” phát triển bình đẳng trong thể chế pháp quyền; nhận thức chưa sâu sắc và đầy đủ nội hàm quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dân là chủ và dân làm chủ”. Do đó, nhận thức chưa đầy đủ nội hàm và cơ chế hiện thực hóa quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ở các cấp, các lĩnh vực. Chưa nhận thức sâu sắc bản chất của mối quan hệ này là toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo thực hiện có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân dân, theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh tránh”.
(2). Về mặt thực tiễn thực hiện mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” còn có những hạn chế, bất cập chủ yếu sau:
- Chưa cụ thể hóa và thể chế hóa đầy đủ, đồng bộ cơ chế mang tính pháp lý, công khai, minh bạch, trong đó thể hiện rõ mối tương quan về quyến hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình trong mối mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Điều này làm cho việc thực thi cơ chế này trong thực tiễn mang tính một chiều, gặp nhiều trở ngại; hiệu lực, hiệu quả trong nhiểu trường hợp không cao, trách nhiệm giải trình không rõ ràng (đã có không ít trường hợp cán bộ các cơ quan chính quyền thực hiện các nghị quyết không đúng của cấp ủy, vi phạm pháp luật, bị xử lý hình sự, nhưng cấp ủy chỉ bị xử lý về đảng…).
- Quyền lực chính trị của Đảng (các tổ chức và các cấp ủy) trong sự lãnh đạo Nhà nước và xã hội là rất hệ trọng, rất lớn, nhưng cả trong Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước chưa quy định cụ thể, đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ về quyền, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của tổ chức đảng, nhất là các cấp ủy và cá nhân người đứng đầu; cơ chế, thiết chế kiểm soát quyền lực trong đảng chưa được hoàn thiện, nên trong không ít trường hợp chưa thực sự kiểm soát được hiệu quả quyền lực của người đứng đầu cấp ủy. Việc chế định chưa đầy đủ, đồng bộ, phù hợp cơ chế lãnh đạo - cầm quyền của các cấp ủy đối với từng cấp, từng lĩnh vực, cùng với việc thực thi chưa nghiêm, nên trên thực tế vẫn còn không ít tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức chính quyền; mặt khác, lại có tình trạng “làm thay, bao biện” nhiệm vụ của chính quyền; không ít cá nhân giữ trọng trách của Đảng và Nhà nước ở các cấp thao túng quyền lực, mất dân chủ, độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nguyên tắc đảng, pháp luật nhà nước; chưa coi trọng và tôn trọng đúng vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội; chưa thực hiện có hiệu quả cao vai trò “hạt nhân lãnh đạo chính trị” của tổ chức đảng trong hệ thống chính trị; công tác giáo dục, tuyên truyền, thuyết phục của các cấp ủy chưa được coi trọng đúng mức, hiệu quả chưa cao, thường lấy nghị quyết của đảng, pháp luật của nhà nước phổ biến một chiều.
- Hệ thống pháp luật nhà nước mặc dù đã có rất nhiều đổi mới và hoàn thiện, tuy nhiên, cách tiếp cận xây dựng và nội dung trong không ít trường hợp chưa thể hiện rõ, đầy đủ các nguyên tắc dân chủ pháp quyền; thường vẫn nhấn mạnh, đề cao đậm nét vai trò và quyền “quản lý” của các cơ quan nhà nước đối với các chủ thể “bị điều chỉnh”, chưa chế định đồng bộ quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước trước các chủ thể “bị điều chỉnh” và xã hội (cho đến nay, trong các luật bàn hành vẫn chỉ có một chương nói về “quản lý nhà nước”).
- Nội dung, cơ chế, phương thức hoạt động của các cấp chính quyền ở nhiều nơi vẫn thiên về áp đặt quyền lực nhà nước (để cho “được việc”); chưa coi dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc thực thi pháp luật là nhiệm vụ trung tâm của nhà nước pháp quyền. Tình trạng xa dân, không hiểu đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của người dân, không tôn trọng đầy đủ và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân…không phải là cá biệt (ví dụ như trong vấn đề quy hoạch sử dụng đất đai, thu hồi, giải phóng mặt bằng, đền bù đất đai bị thu hồi…). Quan điểm “lấy dân là gốc” vẫn chưa được quán triệt đầy đủ, sâu sắc trong thực thi quyền lực nhà nước ở không ít nơi; vẫn còn tình trạng vi phạm quyền con người, quyền công dân.
- Nguyên tắc kiểm soát quyền lực trong thể chế dân chủ pháp quyền chưa được chế định đầy đủ, đồng bộ thành các thiết chế, cơ chế ở các cấp, các lĩnh vực; chưa chế định được đầy đủ, đồng bộ cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng gắn với kiểm soát quyền lực trong nhà nước và kiển soát quyền lực từ phía xã hội, nhân dân. Kiểm soát quyền lực trong Nhà nước giữa các “nhánh” quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp, cũng như trong mỗi nhánh quyền lực, chưa được chế định cụ thể, rõ ràng. Do đó hiệu lực hiệu quả kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị còn nhiều hạn chế, không kịp thời. Chủ trương “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp” được ghi nhận trong Văn kiện Đại hội X của Đảng đến nay vẫn chưa thực hiện được.
- Việc thực hiện vai trò, chức năng chính tri - xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện dân chủ, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước, thực hiện giám sát và phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên và của nhân dân, tuy đã có những bước phát triển quan trọng, nhưng tình trạng “hành chính hóa”, “công chức hóa”, “quan liêu hóa”, ít gắn bó với nhân dân vẫn còn tồn tại ở không ít nơi; chưa hoàn thiện đồng bộ cơ chế mang tính pháp lý để các tổ chức này thực hiện có hiệu quả cao chức năng giám sát, phản biện xã hội; tiếng nói của nhân dân thông qua người đại diện là các tổ chức này đối với các cấp ủy đảng và chính quyền ở nhiều nơi chưa được coi trọng đúng mức.
- Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức các cấp đóng vai trò then chốt, có tính quyết định trong việc hiện thực hóa mối quan hệ giữa “Đảng - Nhà nước - Nhân dân”, nhưng bên cạnh nhiều người thực sự là “công bộc” của dân, thì cũng còn không ít người trở thành “quan”, “ông chủ” của dân, rơi vào quan liêu, tham nhũng, xa dân, vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật của nhà nước; trên thực tế làm mất uy tín của Đảng và nhà nước, có tình trạng người dân nói tin ở Đảng và Nhà nước cấp trên nhưng không tin cán bộ cấp địa phương. Trên thực tế, đã làm tổn hại, “đứt gãy” mối quan hệ “máu thịt” giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
3. Những vấn đề đặt ra
Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong giai đoạn mới là một nhiệm vụ rất hệ trọng và cấp thiết. Từ thực trạng mối quan hệ đó hiện nay và từ yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới, đặt ra ba vấn đề lớn, mang tính chất bao trùm như sau:
- Phải làm rõ hơn cơ sở lý luận - thực tiễn về xây dựng Thể chế dân chủ pháp quyền, làm rõ hơn nội dung, cơ chế mang tính bản chất của mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” (tính chất phổ quát chung của thế giới và đặc điểm của Việt Nam).
- Trên cơ sở lý luận - thực tiễn, tiếp tục xây dựng - hoàn thiện và chế định đồng bộ thể chế, cơ chế về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” phù hợp với đặc điểm, điều kiện, trình độ phát triển của Việt Nam, đồng thời tiếp cận với xu hướng chung của thế giới.
- Phải xây dựng được cơ chế thực thi và cơ chế kiểm soát việc thực thi có hiệu quả cơ chế về mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trên thực tế.
(Còn tiếp)
PGS.TS Trần Quốc Toản
Nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
Xem tiếp phần 2: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" trong thể chế pháp quyền (phần 2)
[1] Pháp quyền hay pháp trị? Nguyễn Sỹ Dũng; Nhân dân cuối tuần, Thứ Bảy, 01-09-2018