Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Xung đột xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp ​

Ngày phát hành: 03/03/2022 Lượt xem 5398

 

Trong cơ cấu xã hội - lãnh thổ Việt Nam, nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã[1]. Với khoảng 90% diện tích và trên 60% dân số cả nước[2], nông thôn có vai trò rất quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế; là cơ sở quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu to lớn, toàn diện; đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện, nâng cao; cơ sở vật chất, hạ tầng được đầu tư, nâng cấp, xây dựng mới theo hướng đồng bộ; an ninh, trật tự, an toàn được giữ vững; hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, đổi mới, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng được nâng cao rõ rệt, hiệu lực quản lý nhà nước được tăng cường. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng, phát triển nông thôn cho thấy còn có những hạn chế, thiếu sót trên cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Những hạn chế, thiếu sót này vừa là nguyên nhân, điều kiện phát sinh xung đột xã hội, vừa là những biểu hiện cụ thể về nội dung, hình thức của xung đột xã hội ở nông thôn Việt Nam.

 

1. Cách tiếp cận

 

Theo cách tiếp cận lãnh thổ, xung đột xã hội ở nông thôn là những xung đột xã hội xảy ra tại địa bàn nông thôn, đó là những mâu thuẫn xã hội phát triển đến mức bộc lộ ra về mặt hình thức bằng lời nói hoặc hành động va chạm, đụng độ, chống đối lẫn nhau, gây phương hại cho đối phương giữa các chủ thể xung đột. Xung đột xã hội ở nông thôn Việt Nam rất đa dạng, tác động toàn diện đến các mặt của đời sống xã hội theo cả hướng tích cực và tiêu cực.

 

Mặt tích cực của xung đột xã hội cho thấy những “tín hiệu” cảnh báo về trạng thái xã hội tiềm ẩn nguy cơ cao gây bất ổn và những bất ổn xã hội hiện hữu cần được nhận diện, quản lý, tháo gỡ, giải quyết kịp thời. Trong một số lĩnh vực và trong mối quan hệ giữa cái mới tiến bộ với cái cũ lạc hậu, lỗi thời, xung đột xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo động lực thúc đẩy sự biến đổi xã hội theo hướng từng bước hạn chế, cải tạo, đẩy lùi, triệt tiêu những yếu tố, nhân tố trở lực, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Xung đột xã hội đặt ra yêu cầu, đỏi hỏi các cơ quan chức năng, các chủ thể xung đột và các chủ thể khác có liên quan dành sự quan tâm thỏa đáng để nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn những vấn đề nội tại của xã hội, những mâu thuẫn, xung đột hiện hữu để chuẩn bị tâm thế và hành động ứng phó, giải quyết hướng tới trạng thái cân bằng xã hội, gia tăng đồng thuận xã hội.

 

Ở chiều hướng ngược lại, xung đột xã hội tác động tiêu cực, gây ra hệ lụy, hậu quả, tác hại đối với xã hội ở những mức độ, cấp độ, phạm vi khác nhau. Những tác động này có thể diễn ra ngay tức khắc tại thời điểm phát sinh xung đột, trong một khoảng thời gian nhất định hoặc trong một giai đoạn, thậm chí rất lâu dài, qua nhiều thế hệ. Thực tiễn cho thấy, khi xung đột xã hội xảy ra, nếu không được nhận diện, quản lý, giải quyết kịp thời để diễn biến phức tạp, phát triển thành “điểm nóng” sẽ gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng.

 

Xung đột xã hội không được kiểm soát, quản lý là nguyên nhân trực tiếp gây ra bất ổn xã hội, đe dọa sự vững mạnh của chế độ chính trị, làm tê liệt cục bộ hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; gây thiệt hại hoặc làm ngưng trệ, đình đốn các hoạt động kinh tế, xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cá nhân; làm xói mòn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các chuẩn mực xã hội.

 


2. Thực trạng

 

Xung đột xã hội cũng tác động tiêu cực đến môi trường ổn định để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài cũng như hình ảnh, quan hệ của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Từ cách tiếp này theo các lĩnh vực của đời sống xã hội, có thể nhận diện một số xung đột xã hội ở nông thôn hiện nay như sau:

 

Trong lĩnh vực kinh tế, nổi lên là các mâu thuẫn, xung đột đất đai liên quan đến việc quy hoạch, quản lý đất đai, nhất là quản lý việc giao, cho thuê, thu hồi, công nhận quyền sử dụng đất; bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư trong quá trình triển khai các dự án kinh tế; điều chỉnh địa giới, mốc giới hành chính; tranh chấp đất đai có nguồn gốc nông, lâm trường quản lý, đất an ninh, quốc phòng, liên quan đến tôn giáo, dân tộc; khiếu kiện, tranh chấp tại các dự án bất động sản, thu phí tại các trạm BOT… Đây là mâu thuẫn, xung đột xã hội gay gắt, diễn biến phức tạp cả về tính chất, mức độ, cường độ và hậu quả, tác hại biểu hiện qua những hình thức, vụ việc cụ thể như: người dân khiếu kiện vượt cấp; tập trung đông người tại trụ sở tiếp dân, chính quyền địa phương, nhà riêng của các đồng chí lãnh đạo, các dự án đang giải tỏa mặt bằng, công trình đang thi công… gây sức ép với chính quyền và các cơ quan chức năng trong việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai, cản trở các lực lượng chức năng thi hành nhiệm vụ, đặc biệt nhiều trường hợp người dân quá khích lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, bắt giữ, hành hung, cán bộ, chống người thi hành công vụ, phá hủy tài sản, cơ sở vật chất của Nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân… gây thiệt hại về kinh tế, mất an ninh, trật tự. Thực tiễn cũng cho thấy, phần lớn các vụ việc, đơn thư khiếu nại hằng năm ở nước ta thuộc lĩnh vực đất đai hầu hết các vụ việc “điểm nóng” xảy ra đều xuất phát từ những mâu thuẫn, xung đột về đất đai hoặc có nguyên nhân chủ yếu từ những mâu thuẫn, xung đột về đất đai.

 

Một thực tế khác, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn đã xuất hiện bên cạnh khu vực nông thôn truyền thống (làng, xã, bản, buôn, sóc...) là khu vực nông thôn xen kẽ với đô thị (nông thôn - đô thị) và những khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở dịnh vụ… Người nông dân trước đây chủ yếu sinh sống bằng nghề làm nông nghiệp, nay trở thành công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, người làm thuê tại các cơ sở dịch vụ… hình thành quan hệ xã hội mới giữa người lao động và người sử dụng lao động. Trong mối quan đó, thường xuyên nảy sinh các mâu thuẫn, xung đột xã hội liên quan đến điều kiện làm việc, chính sách tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, các khoản phụ cấp và cải thiện chất lượng bữa ăn, chế độ nghỉ, sinh hoạt của người lao động… Mâu thuẫn, xung đột giữa các chủ thể này biểu hiện tập trung nhất qua các vụ việc tập trung đông người, đình công, lãn công trái pháp luật của công nhân, người lao động, cá biệt một số nơi công nhân, người lao động đập phá, phóng hỏa đốt nhà xưởng, hàng hóa, tài sản… gây mất an ninh, trật tự, gây thiệt hại về kinh tế của Nhà nước và doanh nghiệp.

 

Trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng, các xung đột xã hội xảy ra ở lĩnh vực này thuộc về kiến trúc thượng tầng, tuy nhiên nội dung, hình thức biểu hiện, phạm vi, quy mô và hậu quả, tác hại của nó hiện hữu rất rõ nét tại địa bàn nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đời sống vật chất, tinh thần còn nhiều khó khăn. Đó là những mâu thuẫn, xung đột về ý thức hệ phản ánh cuộc chiến cam go, khốc liệt, “một mất một còn” giữa một bên là nhân dân, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng với một bên là các thế lực thù địch, phản động bằng mọi thủ đoạn, ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, dân tộc ta. Trong cuộc chiến ấy, có những thời điểm, ở những địa bàn, các đối tượng đã tác động, lôi kéo, tập hợp, xúi dục, hướng lái một bộ phận nhân dân nhẹ dạ, cả tin tập trung đông người biểu tình gây rối an ninh, trật tự, bạo loạn gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên ở cơ sở suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có lời lẽ, hành động đi ngược với chủ trương, đường lối của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã hội của địa phương, xâm phạm lợi ích của quốc gia - dân tộc đã tự mình trở thành chủ thể xung đột với toàn thể Nhân dân, dân tộc Việt Nam.

 

Trong lĩnh vực văn hóa, những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện cùng với sự hỗ trợ đắc lực của công nghệ thông tin, truyền thông hiện đại đã mang lại nhiều điều kiện thuận lợi để giao lưu, tiếp thu tinh hoa của nhân loại, làm giàu truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy  nhiên, tác động từ mặt trái của nó cùng với quá trình đô thị hóa nông thôn diễn ra nhanh, thiếu kiểm soát, thiếu bền vững đã làm phát sinh xung đột văn hóa ở nông thôn Việt Nam. Trong đó, đáng chú ý là xung đột giữa văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại (trên cả phương diện văn hóa vật thể và phi vật thể); sự du nhập, xâm nhập, ảnh hưởng của các trào lưu văn hóa lai căng làm xói mòn, mai một bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc được hun đúc, gìn giữ ở nông thôn từ hàng nghìn đời nay. Biểu hiện cụ thể, rõ nét trong xung đột văn hóa ở địa bàn nông thôn hiện nay là sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức, lối sống của một bộ phận giới trẻ trước những tác động, ảnh hưởng sâu sắc bởi tính thực dụng, cá nhân, vị kỷ, thích bạo lực, thích thụ hưởng hơn là cống hiến; các nét đẹp trong văn hóa gia đình, làng xã, như: kính trên, nhường dưới, hiếu thảo, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ; “anh em như thể tay chân”, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, “bán anh em xa mua láng giềng gần”, “hàng xóm tắt lửa tối đèn có nhau”… dần bị mất đi, bị chi phối mạnh mẽ bởi các giá trị lợi ích vật chất. Dường như xã hội ngày càng xuất hiện nhiều hơn những vụ việc ngược đãi, bạo hành, đánh đập, thậm chí sát hại cha mẹ, anh, chị, em ruột thịt, người thân hoặc kiện nhau ra tòa chỉ vì những mâu thuẫn, xung đột nhỏ nhặt đời thường, trong phân chia, tranh giành đất đai, tài sản.

 

Trong lĩnh vực xã hội, đó là các mâu thuẫn giữa các nhóm xã hội với nhau hoặc với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng liên quan đến chất lượng đời sống vật chất, tinh thần của người dân, nhất là các dịch vụ phúc lợi xã hội thiết yếu như: y tế (giữa bệnh nhân, người nhà bệnh nhân với bác sĩ, với cơ quan y tế), giáo dục, văn hóa, bảo hiểm, an sinh xã hội… hoặc trong công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 thời gian vừa qua. Việc quy hoạch nơi tập kết, xây dựng, vận hành các nhà máy xử lý rác thải; việc xả thải của doanh nghiệp tại một số khu công nghiệp; khai thác tài nguyên, khoáng sản; quy hoạch, xây dựng nghĩa trang… gây ô nhiễm môi trường, mất mỹ quan, đụng chạm đến thuần phong mỹ tục, phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người dân gây bức xúc trong dư luận xã hội. Đáng chú ý, nhiều nơi người dân nhiều lần phản ánh, kiến nghị với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng nhưng chậm được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để, kéo dài, thậm chí không được giải quyết dẫn tới phản ứng tiêu cực như: chặn đường giao thông (lập barie, dùng cây, đổ đất, đá chặn lối đi…); tập trung đông người tại trụ trở chính quyền địa phương, tại các khu công nghiệp, doanh nghiệp để phản đối, yêu cầu giải quyết kiến nghị của người dân.

 

Trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, điều đã được thực tiễn khẳng định là ở nước ta hiện nay không có xung đột xã hội giữa các dân tộc và giữa tôn giáo. Tuy nhiên, liên quan trực tiếp đến đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào tôn giáo ở nông thôn cho thấy có những vấn đề cần chú ý khi nghiên cứu về xung đột xã hội. Có một thực tế là ở nông thôn Việt Nam nói chung có xung đột xã hội nào thì tại địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và tôn giáo cũng có xung đột xã hội như vậy, thậm chí có lĩnh vực, có mặt còn diễn biến phức tạp hơn. Cả hai địa bàn này đều được các thế lực thù địch, phản động xác định là trọng điểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các đối tượng ráo riết tiến hành hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, liên kết, móc nối, tập hợp lực lượng chống đối trong nước thực hiện các cuộc “cách mạng màu”, bạo loạn, lật đổ, lập cái gọi là “Nhà nước Đêga độc lập” (ở Tây Nguyên), “Nhà nước Khmer Krom độc lập” (ở Tây Nam Bộ), “Vương quốc Chăm Pa” (ở Nam Trung Bộ), “Vương quốc Mông” (ở Tây Bắc). Để thực hiện âm mưu, ý đồ đó, các đối tượng kết hợp sử dụng tôn giáo như một vũ khí để làm gia tăng sức mạnh chống phá thông qua các hoạt động truyền bá, phát triển cái gọi là tôn giáo của “Nhà nước Đêga tự trị”, “Vương quốc Mông tự trị” như: “Tin Lành Đêga”, “Công giáo Đêga”… thúc đẩy tư tưởng ly khai tự trị trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số gây ra xung đột xã hội trong lĩnh vực này ở nước ta.

 

Một điểm chú ý khác khi nghiên cứu về xung đột văn hóa trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số - tôn giáo đó là sự hình thành các cộng đồng dân tộc - tôn giáo, nhất là là những cộng đồng chịu ảnh hưởng của Công giáo, Tin Lành và các mối quan hệ dân tộc - tôn giáo xuyên quốc gia và liên khu vực. Các hiện tượng “tôn giáo mới”, “tôn giáo lạ”, “tà đạo”, mê tín, dị đoan, cực đoan, phản văn hóa, như: “tà đạo Hà Mòn”, “tà đạo Dương Văn Mình”, “Ngọc Phật Hồ Chí Minh”; “Hội thánh Đức Chúa trời Mẹ”… ngày càng diễn biến phức tạp tác động tiêu cực đến nhận thức, nhu cầu thụ hưởng giá trị văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo thuần túy của người dân. Trước đây, các giá trị văn hóa tộc người với những quy ước chung của dòng họ, tộc người là yếu tố cơ bản gắn kết các cộng đồng dân tộc với nhau. Từ khi có sự du nhập, phát triển, ảnh hưởng của các tôn giáo lớn và sự xuất hiện của các loại “tà đạo”, “đạo lạ”, niềm tin tôn giáo và thực hành tôn giáo dần thay thế, chi phối mối liên kết cộng đồng dân tộc; làm biến đổi sâu sắc mối quan hệ gia đình, dòng tộc, làm xói mòn, phá vỡ cấu trúc liên kết cộng đồng và các quy tắc ứng xử truyền thống gia đình - dòng họ - làng bản; vai trò của người đứng đầu dòng họ, già làng, trưởng bản ngày càng suy giảm kéo theo sự hình thành mâu thuẫn, xung đột giữa đồng bào theo đạo (ứng xử theo chuẩn mực, quy định của giáo lý, giáo luật) với đồng bào không theo đạo (ứng xử theo chuẩn mực văn hóa truyền thống).

 

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, nổi lên là các xung đột xã hội liên quan đến việc thu hồi, quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh. Một số vụ việc liên quan đến quân nhân tử vong trong khi thực hiện nghĩa vụ quân sự; người bị tạm giam, tạm giữ, đang thi hành án tù tử vong trong quá trình lấy lời khai, tạm giam, tạm giữ, cải tạo... dẫn đễn việc người nhà của nạn nhân tập trung đông người, mang theo quan tài kéo đến trụ sở cơ quan Công an khi “đòi công lý” khi chưa có kết luận điều tra của cơ quan chức năng. Một số việc người dân chống đối lực lượng chức năng trong quá trình thi hành công vụ, nhất là trong triển khai các phương án, kế hoạch bảo đảm an ninh, trật tự phục vụ thi hành quyết định cưỡng chế giải phóng mặt bằng, thu hồi đất... gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, trật tự cũng như uy tín, hình ảnh của các lực lượng vũ trang nhân dân.

 

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới xung đột xã hội như đã phân tích, đề cập ở trên. Mỗi xung loại đột xã hội trong mỗi lĩnh vực có nguyên nhân, điều kiện khác nhau gắn với đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của mỗi vùng nông thôn (vùng hải đảo, đồng bằng, trung du miền núi). Tuy nhiên, tựu chung lại có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản đó là những tác động từ mặt trái của quá trình đô thị hóa nhanh, thiếu kiểm soát khiến cho một lượng lớn người dân ở nông thôn thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm, không có thu nhập, khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo lớn, phân hóa, phân tầng xã hội ngày càng sâu sắc. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới khiến môi trường tự nhiên bị tàn phá, hủy hoại nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường trở thành vấn đề nhức nhối, bức xúc ở nhiều nơi. Việc xây dựng, hoạch định, chủ trương, chính sách, cơ chế phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, nhất là chính sách, pháp luật về đất đai chưa thực sự đồng bộ; chưa dành sự quan tâm thỏa đáng cho việc đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách, dự án. Quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội còn sơ hở, thiếu sót. Hệ thống chính trị và tổ chức đoàn thể cơ sở ở nông thôn chưa thực sự vững mạnh cán bộ, đảng viên sai phạm, vi phạm nghiêm trọng gây bức xúc trong nhân dân. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ở nhiều nơi còn khó khăn, trình độ dân trí, ý thức pháp luật của người dân cơ bản chưa cao, chưa hình thành thói quen sống và làm việc theo pháp luật do đó khi xuất hiện mâu thuẫn thường ứng xử theo thói quen dẫn đến hiệu quả thấp, mâu thuẫn kéo dài, âm ỉ, thêm vào đó bị tác động bởi các yếu tố khách quan dẫn đến phát triển thành xung đột.

 

 

3. Giải pháp

 

Từ những nghiên cứu, phân tích về xung đột xã hội ở nông thôn Việt Nam như đã đề cập ở trên, trong công tác phòng ngừa, nhận diện, giải quyết xung đột xã hội ở nông thôn trong thời gian tới, tác giả thiết nghĩ và xin trao đổi một số vấn đề về giải pháp như sau:

 

Thứ nhất, về giải pháp chung. Để phòng ngừa, giải quyết xung đột xã hội ở nông thôn cần tính toán hệ thống giải pháp toàn diện, chiến lược vĩ mô, trong đó việc bảo đảm tính đồng bộ, bền vững, cân đối việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, cơ chế, phát triển nông thôn đặt trong tổng thể mối quan hệ với phát triển đô thị, các vấn đề nông nghiệp, nông dân và các vấn đề chiến lược quốc gia khác, có tính đến các yếu tố đặc trưng riêng có của mỗi vùng, miền, lĩnh vực. Trong mỗi chủ trương, chính sách, cơ chế, chương trình, dự án, nhất là dự án kinh tế - xã hội ở nông thôn cần đặc biệt coi trọng việc nghiên cứu cơ bản tình hình, đặc điểm địa bàn về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; phân tích, dự báo, đánh giá sâu sắc, toàn diện tác động của chủ trương, chính sách, pháp luật đến nông thôn, nông nghiệp, nông dân trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực, đặc biệt là dự báo những tác động tiêu cực, mâu thuẫn, xung đột có thể phát sinh để chủ động có phương án điều chỉnh, bổ sung phù hợp, có phương án kịp thời nhận diện, định hướng dư luận xã hội, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong trong phòng ngừa, giải quyết.

 

Quán triệt, vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm, phương châm “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”; giải quyết các vụ, việc phức tạp về an ninh, trật tự từ cơ sở, dưới sự chỉ huy, chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương theo phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ); kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại và thực hiện nhiệm vụ quốc phòng với bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm bảo đảm trật tự, an toàn xã hội… trong phòng ngừa, giải quyết xung đột xã hội. Theo đó, trong phòng ngừa, giải quyết xung đột xã hội theo từng lĩnh vực cụ thể, cần quan tâm nội dung trọng tâm sau:

 

Về kinh tế - xã hội, tập trung nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí, nhận thức, ý thức pháp luật của người dân ở nông thôn, từng bước thay đổi tư duy, thói quen sản xuất theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại; giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm công bằng xã hội gắn với triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế trong tổng thể các mục tiêu xây dựng nông thôn mới, phân bổ nguồn lực hợp lý để phát triển bền vững. Quan tâm nghiên cứu, dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội, kiểm soát hiệu quả phân tầng xã hội, các rủi ro, xung đột xã hội, nhất là đối với nhóm yếu thế. Bảo đảm an sinh xã hội toàn diện, nhất là các dịch vụ thiết yếu như y tế, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, giao thông, thông tin liên lạc...; từng bước làm giảm khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo. Xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai gắn với đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường và nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu của người dân.

 

Về chính trị, tiếp tục xây dựng, củng cố chính quyền địa phương ở nông thôn gồm chính quyền địa phương ở tỉnh, huyện, xã[3] theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn thực sự vững mạnh, đáp ứng yêu cầu phương châm 4 tại chỗ, phòng ngừa, giải quyết xung đột từ sớm, từ cơ sở. Xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương, nhất là cán bộ cơ sở thực sự tiêu biểu về phẩm chất, đạo đức, lối sống, gần dân, hiểu dân, trọng dân, kính dân để được dân tin yêu, giúp đỡ, có năng lực chuyên môn sâu, tác phong làm việc chuyên nghiệp, tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhân dân tin cậy giao phó.

 

Về văn hóa, chú trọng xây dựng, gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống quý báu ở nông thôn trong xây dựng nhân cách, sức mạnh con người Việt Nam, khắc phục tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển văn hóa giữa các vùng, miền, đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp. Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số; phát huy các nhân tố tích cực, nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng ở nông thôn. Chủ động nhận diện và có giải pháp đồng bộ, hiệu quả ngăn chặn tác động, ảnh hưởng từ các luồng văn hóa ngoại lai, những biểu hiện suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống; khắc phục hạn chế của con người Việt Nam, xây dựng con người Việt Nam thời đại mới gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại.

 

Thư hai, về các giải pháp cụ thể. Về mặt nguyên tắc, cần chủ động phòng ngừa, nhận diện kịp thời, đầy đủ, toàn diện xung đột xã hội từ khi mới phát sinh để xác định biện pháp, giải pháp công tác quản lý, giải quyết đồng bộ, hiệu quả, không để diễn biến phức tạp, kéo dài, lây lan. Hệ thống chính trị ở cơ sở do lực lượng Công an nhân dân làm nòng cốt chủ động bám sát địa bàn, bám dân nắm tình hình tâm tư, nguyện vọng, tình cảm, thái độ của người dân, nắm bắt dư luận xã hội, tập trung vào những bức xúc của nhân dân để kịp thời phát hiện, phân loại mâu thuẫn, xung đột; nắm vững nguyên nhân, điều phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp, xung đột; chủ thể, nội dung, quy mô xung đột xã hội; tính chất xung đột xã hội (có yếu tố địch lợi dụng hay đơn thuần là mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân). Nắm thông tin, tình hình tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại, tố cáo của người dân tại địa bàn; quy mô thành phần, số lượng, thái độ chính trị của những người có tranh chấp, khiếu kiện; kịp thời phát hiện các dấu hiệu liên kết, móc nối với số đối tượng khiếu kiện ở địa bàn khác và các đối tượng thù địch hình thành tổ chức, hội nhóm bất hợp pháp, kêu gọi sự hậu thuẫn từ bên ngoài để tiến hành các hoạt động gây phức tạp về an ninh, trật tự.

 

Dự kiến các kịch bản, tình huống xung đột xã hội phức tạp và phương án ứng phó, giải quyết không để bị động, bất ngờ, hình thành “điểm nóng”. Từ thực tiễn xung đột xã hội và công tác phòng, ngừa, giải quyết xung đột xã hội ở nước ta thời gian qua có thể nghiên cứu, phân tích, luận giải, dự báo một số tình huống xung đột xã hội phức tạp biểu hiện dưới các hình thức, như: tụ tập đông người biểu tình gây rối trật tự công cộng, phá rối an ninh; khiếu kiện đông người trái quy định của pháp luật, gây mất an ninh, trật tự; chống người thi hành công vụ, gây rối an ninh, trật tự trong quá trình thực hiện quyết định cưỡng chế giải phóng mặt bằng; đình công trái pháp luật gây mất an ninh, trật tự; bạo loạn... Trường hợp xung đột xã hội phát triển thành điểm “nóng chính trị”, “điểm nóng xã hội” cần khẩn trương triển khai lực lượng, biện pháp công tác quản lý, kiểm soát, “tháo ngòi nổ”, “hạ nhiệt điểm nóng” theo phân công, phân cấp: Công an tỉnh, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo trực tiếp chỉ đạo giải quyết; Công an cấp huyện làm nòng cốt bám sát địa bàn, triển khai lực lượng ổn định tình hình tại chỗ. Bộ Công an tăng cường lực lượng, phương tiện hỗ trợ trong trường hợp khẩn cấp, tình hình an ninh, trật tự bị đe dọa xâm hại nghiêm trọng.

 

Tổ chức phát hiện, đấu tranh có hiệu quả, xử lý nghiêm trước pháp luật các đối tượng có hành vi tuyên truyền, kích động gây xung đột xã hội, lợi dụng xung đột xã hội thực hiện các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; gọi hỏi, răn đe và có biện pháp giáo dục, quản lý số đối tượng xung đột có hành vi quá khích, vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức xử lý hình sự, xử phạt vi phạm hành chính và các hình thức khác theo quy định để cảnh cáo, răn đe. Chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền định hướng dư luận xã hội, ổn định tư tưởng của nhân dân trước những tác động tiêu cực từ các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch kích động gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ.

 

Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân

Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân,

Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương.

 

 



[1] Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về Hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 04/10/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về Hướng dẫn thực hiện Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

[2] Bộ Xây dựng (12/2019), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2019 và phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch năm 2020 của ngành xây dựng, Hà Nội.

[3] Khoản 2, Điều 4, Luật Tổ chức chính quyền địa phương (2015).

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết