1. Một số khái niệm
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, khẩu hiệu “Nam Nữ bình quyền” đã được khẳng định trong Hiến pháp. Hiến pháp 2013 quy định “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”; “Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội”; “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”; “Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Luật Bình đẳng giới năm 2006 của Quốc hội Việt Nam, tại Điều 7 quy định “Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển”. Như vậy, quyền bình đẳng giới được hiểu là phụ nữ cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới.
Công tác cán bộ là tổng thể các biện pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ... nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán bộ theo hướng bố trí sử dụng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới.
Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ nữ là một khâu then chốt quan trọng trong việc thực hiện các chính sách về bình đẳng giới được hiệu quả, thiết thực, nhằm phát huy tối đa vai trò của phụ nữ trong thời kỳ mới. Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới và là nền tảng, cơ sở để tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trước hết phải tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ, nhân tố chính tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới nói riêng và cả hệ thống pháp luật nói chung. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới có đi vào thực tiễn cuộc sống hay không xuất phát từ công tác tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ.
2. Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ
2.1. Chỉ đạo triển khai thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ cần thiết phải có sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt, thống nhất, xuyên suốt của các cấp lãnh đạo ở trung ương và địa phương thông quan các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ như các kế hoạch, quyết định, chỉ thị…góp phần định hướng cho hệ thống cơ quan nhà nước cấp dưới thống nhất mục tiêu triển khai thực hiện các nhiệm vụ: Hoàn thiện chính sách, pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành chính sách, pháp luật về cán bộ nữ và công tác cán bộ nữ; rà soát, hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới đảm bảo cơ hội bình đẳng cho phụ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cơ quan có thẩm quyền hoạch định chính sách; có chính sách đặc thù để đảm bảo tỷ lệ, cơ cấu cán bộ nữ ở vùng cao, vùng sâu, biên giới, hải đảo; đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ nữ để phục vụ cho việc xây dựng chính sách và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng cán bộ; đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nữ cán bộ, công chức lãnh đạo quản lý; tạo nguồn nữ cán bộ dân tộc thiểu số, hỗ trợ nâng cao năng lực để cán bộ nữ dân tộc thiểu số tham gia vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan của nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập từ trung ương đến địa phương; xây dựng mạng lưới, nhóm phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo, quản lý và tổ chức các hoạt động kết nối nhằm chia sẻ kinh nghiệm và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ nữ; tăng cường truyền thông về trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ…đảm bảo sự tham gia bình đẳng của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách nhằm phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của phụ nữ, hướng tới thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát triển bền vững về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ.
2.2. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, bảo đảm nguồn lực cần thiết cho công tác tuyên truyền pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Nội dung tuyên truyền phải đảm bảo chính xác, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực; kịp thời, thường xuyên, có trọng tâm, trọng điểm; đa dạng các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, phù hợp với nhu cầu, lứa tuổi, trình độ của đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật và truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; gắn với việc thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước, của địa phương và đời sống hằng ngày của người dân; phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan, tổ chức, gia đình và xã hội nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức của người dân về bình đẳng giới.
2.3. Tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ là cơ sở để phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là phương thức đảm bảo hệ thống pháp luật được thực thi hiệu quả đối với chủ trương bình đẳng giới. Đội ngũ cán bộ, công chức về bình đẳng giới đóng vai trò rất quan trọng trong tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về bình đẳng giới và là nhân tố chủ chốt thực thi pháp luật và bảo đảm pháp luật về bình đẳng giới được thực hiện hiệu quả, thiết thực.
2.4. Đảm bảo điều kiện trong tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Ngoài những điều kiện về trình độ nhận thức, hệ thống bộ máy triển khai thực hiện pháp luật, đội ngũ cán bộ, công chức phụ trách công tác chuyên môn thì việc bảo đảm thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ được thực thi hiệu quả nếu nguồn tài chính cũng được đảm bảo hiệu quả. Nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới bao gồm: ngân sách nhà nước; đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân; các nguồn thu hợp pháp khác. Xác định đúng quy mô kế hoạch, chủ trương, chính sách từ đó xác định đúng nguồn lực về tài chính và số lượng, trình độ của các cán bộ, công chức thực hiện phù hợp, kết hợp với vận dụng sự sáng tạo, trình độ, nhiệt huyết của đội ngũ cán bộ, công chức là vấn đề then chốt nhằm đạt được mục tiêu bình đẳng giới trong công tác cán bộ đã đề ra.
2.5. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ là một nội dung quan trọng trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Trách nhiệm thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới được quy định tại Nghị định số 70/2008/NĐ-CP, ngày 04/06/2008 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới.
3. Kết quả tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ trong thời gian qua
3.1. Một số kết quả
Với những nỗ lực không ngừng trong suốt nhiều năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác bình đẳng giới, thể hiện rõ nhất ở sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Việt Nam đứng thứ 60 trên thế giới, đứng thứ 4 ở châu Á và đứng đầu trong Hội đồng Liên minh nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á về tỷ lệ nữ tham gia cơ quan dân cử; đứng thứ 3 trong khu vực ASEAN và thứ 47/187 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính và trong công tác quản lý.
Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng và Nhà nước được nâng cao về số lượng và nhất là về chất lượng. Trong Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII có 19 đồng chí nữ (9,5%), Quốc hội khóa XV đạt tỷ lệ 30,26% nữ đại biểu, cao nhất từ trước đến nay; Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh có 16% đồng chí nữ, hội đồng nhân dân cấp tỉnh có 29% đại biểu nữ…Tỷ lệ các bộ, cơ quan ngang bộ có lãnh đạo chủ chốt là nữ đạt trên 50%. Việt Nam nằm trong nhóm 1/3 các nước đứng đầu về tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội và tỷ lệ phụ nữ tham gia lao động với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 30%. Tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 đều tăng so với nhiệm kỳ 2010-2015 ở cả 3 cấp tỉnh, huyện và xã. Nhiệm kỳ 2010-2015, tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh là 25,17%, cấp huyện là 24,62%, cấp xã là 21,71%. Nhiệm kỳ 2016-2021 tỷ lệ này được nâng lên tương ứng là 26,54%, 27,85% và 26,59%. Đến cuối nhiệm kỳ 2011-2015, tỷ lệ Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ ở cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã lần lượt là: 32,14%; 32,64%; 21,95%. Khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm được thu hẹp, nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ, tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; chú trọng phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao. Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đạt 26,5%, xếp thứ 09/58 quốc gia, nền kinh tế được nghiên cứu; nhiều doanh nhân nữ có uy tín và xếp hạng cao trong khu vực và thế giới. Trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, nhiều phụ nữ đã đoạt giải khu vực và quốc tế. Các nữ đại sứ, nữ cán bộ ngoại giao, nữ công an, nữ quân nhân tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc đã trở thành các “sứ giả” của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển của nước ta trong hoạt động đối ngoại…Nguồn nhân lực nữ nghiên cứu khoa học tăng lên đáng kể. Nhiều phụ nữ là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, có 20 tập thể và 49 nhà khoa học nữ xuất sắc trên các lĩnh vực đã được trao tặng giải thưởng Kôvalépxkaia trong 35 năm qua, hàng nghìn nữ trí thức có nhiều thành công trong nước và quốc tế về nghiên cứu khoa học, mang lại giá trị kinh tế cao và tính nhân văn cao cả, sâu sắc. Khung khổ pháp lý về bình đẳng giới liên tục bổ sung, hoàn thiện làm cơ sở giải quyết các vấn đề về bình đẳng giới, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế, vai trò, tầm quan trọng và có nhiều cơ hội đóng góp cho gia đình, cộng đồng và xã hội.
Như vậy, Việt Nam là một trong những quốc gia hoàn thành sớm nhất “mục tiêu thiên niên kỷ về bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ”. Đội ngũ cán bộ nữ ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, có phẩm chất đạo đức, không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, bản lĩnh vững vàng, phối hợp cùng với lực lượng nam giới góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội của đất nước. Các tầng lớp phụ nữ đã phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo trong học tập, lao động và công tác, đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, góp phần quan trọng xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tham gia giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Nhận thức xã hội về bình đẳng giới được nâng lên, phụ nữ được tôn trọng và bình đẳng hơn, địa vị của người phụ nữ trong xã hội và gia đình ngày càng được cải thiện. Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá là điểm sáng trong thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và hiện đang nỗ lực thực hiện Chương trình nghị sự về Phát triển bền vững 2030, với các mục tiêu về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái.
3.2. Tồn tại, hạn chế
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, vấn đề bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội nói chung vẫn còn nhiều bất cập, khó khăn. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan Đảng, đoàn thể còn thấp so với lực lượng lao động nữ tại các ngành nghề trong xã hội; công tác đào tạo, bồi dưỡng, chế độ về thu nhập cho cán bộ nữ còn chưa có sự bức phá trong triển khai thực hiện. Trên thực tế, cán bộ nữ vẫn còn nhiều thiệt thòi trong việc tiếp cận các cơ hội được đào tạo, thăng tiến; công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ nữ chưa gắn với tổng thể quy hoạch đội ngũ cán bộ... Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới về bảo đảm quyền con người theo quy định của Hiến pháp 2013 vào trong các quy định Luật Phòng chống Bạo lực gia đình (sửa đổi), các bộ luật khác để bảo đảm bình đẳng giới chưa thực chất. Trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong công tác phối hợp, tổ chức thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ chưa thường xuyên, hiệu quả…
3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân của thực trạng trên có ảnh hưởng từ định kiến về giới trong xã hội, trong các cơ quan, đơn vị vẫn còn tồn tại. Quan niệm “nam trưởng, nữ phó” vẫn còn tồn tại trong nhiều tổ chức, là rào cản đối với phụ nữ trong bồi dưỡng, quy hoạch và bổ nhiệm, đặc biệt là trong bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu, những tư tưởng thiên kiến, hẹp hòi, thiếu tự tin vào khả năng của phụ nữ, còn định kiến trong công tác đánh giá cán bộ. Các chế độ chính sách, mục tiêu quốc gia của Nhà nước đã ban hành vì sự tiến bộ của phụ nữ có lúc, có nơi chưa triển khai đồng bộ hoặc chưa thật sự coi trọng. Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và cộng đồng còn thiếu quyết tâm chính trị về tăng cường tham gia lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận, gánh nặng gia đình đã ảnh hưởng đến sự phấn đấu vươn lên nữ cán bộ, công chức…dẫn đến việc thực thi pháp luật bình đẳng giới gặp khó khăn.
4. Khuyến nghị nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật bình đẳng giới trong công tác cán bộ thời gian tới
Bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng cần hướng đến không chỉ của từng địa phương, mà còn là định hướng mục tiêu chung của Việt Nam trên tất các các lĩnh vực. Bình đẳng giới là một trong các yếu tố để xác định một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi vị trí, vai trò của nữ giới được nâng cao và ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện phát huy trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì việc đề ra các giải pháp thúc đẩy bình đẳng giới nói chung và bình đẳng giới trong công tác cán bộ nói riêng là điều vô cùng cấp thiết. Để phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế vấn đề bình đẳng giới; công tác phụ nữ và việc tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ cần lưu ý quan tâm một số vấn đề sau:
4.1.Tiếp tục nhận thức đúng về vai trò, vị trí của phụ nữ, công tác phụ nữ và bình đẳng giới để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người phụ nữ, để phụ nữ có cơ hội, điều kiện đóng góp cho xã hội, cho đất nước, không để ai bị bỏ lại phía sau; cùng giải quyết và cùng có trách nhiệm trong thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ. Để xây dựng người phụ nữ hiện đại trước hết cần phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ của các tầng lớp phụ nữ. Chú trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, giúp người phụ nữ nắm bắt cơ hội, tận dụng những yếu tố tích cực, tránh những tác động tiêu cực của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, vượt qua những thách thức khó khăn để trở thành người phụ nữ thành công trong cuộc sống và sự nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế
4.2. Kế thừa quan điểm chỉ đạo của Đảng trong các kỳ Đại hội để thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành. Rà soát sửa đổi, bổ sung, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ ngày càng hiệu quả, bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, tạo điều kiện cho nữ cán bộ, công chức được tham gia vào nhiều vị trí lãnh đạo, quản lý cũng như tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò trong quá trình công tác. Thực hiện lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác cán bộ; phân tích, đánh giá tác động về giới trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo thống nhất với quy trình xây dựng văn bản theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nâng cao năng lực và tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới cần chủ động kiến nghị với các bộ, ngành chức năng kiểm tra, thanh tra và kịp thời phát hiện, đề xuất xử lý nghiêm minh những vi phạm về pháp luật bình đẳng giới và tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ.
4.3. Huy động sự tham gia của toàn bộ hệ thống các cơ quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã hội để nâng cao chất lượng tuyên truyền, truyền thông. Tuyên truyền nhằm làm cho đối tượng trực tiếp thực thi chính sách, thực hiện pháp luật nhận thức rõ nội dung, vai trò, ý nghĩa, tác dụng của chính sách, pháp luật và vị trí, trách nhiệm liên quan để xây dựng biện pháp thực hiện hiệu quả; làm cho đối tượng người thụ hưởng hiểu rõ lợi ích, nhu cầu, quyền lợi để bảo vệ, trách nhiệm, nghĩa vụ để chấp hành; làm cho đối tượng, tổ chức có liên quan hiểu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của chính sách, pháp luật và vai trò, trách nhiệm liên quan để phối hợp tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Đa dạng hóa các hình thức truyền thông, tuyên truyền, giáo dục về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về bình đẳng giới nhằm tạo sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động về công tác cán bộ nữ và nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và những đóng góp to lớn của nữ cán bộ công chức, viên chức thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ nữ theo thẩm quyền và bảo đảm các quy định về bình đẳng giới.
4.4. Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nữ cán bộ, công chức trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Quan tâm hơn nữa công tác đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là đội ngũ nữ cán bộ tiềm năng và cán bộ làm tham mưu công tác bình đẳng giới. Phát huy vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp trong việc bảo vệ quyền lợi cho cán bộ nữ. Chính sách điều động, luân chuyển vị trí công tác phải được cân nhắc từ góc độ giới, có tính tới đặc thù của nữ giới để bảo đảm cho nữ giới có thể vừa hoàn thành nhiệm vụ mà không thiếu trách nhiệm với gia đình. Các cơ quan chuyên môn tham mưu cho cấp ủy đảng, chính quyền cần rà soát lại nguồn nhân lực cán bộ nữ, tham mưu xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực nữ; gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ với công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bố trí cán bộ. Lồng ghép nội dung bình đẳng giới trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
4.5. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin và nâng cao chất lượng thu thập thông tin, dữ liệu và hiệu quả công tác đánh giá về tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Hoàn thiện thể chế, chính sách về bình đẳng giới, hiện trạng về bình đẳng giới trong công tác cán bộ thông qua đánh giá bằng các tiêu chí và chỉ số phù hợp nhằm đạt hiệu quả trong công tác đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ. Hệ thống tiêu chí và chỉ số này cần được cụ thể hóa thành các công cụ đánh giá cụ thể áp dụng vào các cơ quan, tổ chức các cấp theo ngành, lĩnh vực để từ đó có một cái nhìn tổng thể về tổ chức thực hiện bình đẳng giới trong công tác cán bộ.
TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
Hoàng Thị Thu Trang, Học viện hành chính quốc gia
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị khóa X “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”;
2. Chỉ thị số 21-CT/TW, ngày 20/01/2018 của Ban Bí thư khóa XII “về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới”;
3. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”;
4. Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị khóa XII “về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”;
5. Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng;
6. Hiến pháp năm 2013;
7. Luật bình đẳng giới, Luật hôn nhân gia đình, Luật bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức sửa đổi năm 2019;
8. Quyết định số 515/QĐ-TTg, ngày 31/3/2016 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện biện pháp bảo đảm bình đẳng giới đối với nữ cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2020;
9. Nghị quyết số 28/NQ-CP, ngày 03/03/2021 của Chính phủ về Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030;
10. Trích một số nghiên cứu trong Đề tài luận văn thạc sĩ quản lý công “Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trong công tác cán bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Hoàng Thị Thu Trang, Học viện Hành chính quốc gia, năm 2022.