Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng 9 năm 1945 (ảnh tư liệu)
I. Những vấn đề đặt ra
1. Cần nghiên cứu tạo ra bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng ta về phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng lãnh đạo là coi trọng và đảm bảo tham gia có hiệu quả, thực chất của nhân dân vào các hoạt động xã hội, quan trọng nhất là hoạt động quản lý, điều hành xã hội dưới hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Từ quan niệm chế độ ta là chế độ dân chủ và từ góc nhìn của chế độ chính trị, chế độ xã hội, bên cạnh sự khẳng định của các hình thức dân chủ trực tiếp, Đảng ta mở rộng quan niệm về dân chủ đại diện, thừa nhận tính chất đại diện của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội và toàn bộ bộ máy nhà nước do Nhân dân trực tiếp hay gián tiếp ủy quyền.
Theo đó, không thể chỉ đặt cược vào chế định dân chủ đại diện. Một hệ thống dân chủ đầy đủ và phát triển là một hệ thống coi trọng và thực hiện nhất quán cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Cơ quan đại diện phải tôn trọng những quyết định của nhân dân được biểu đạt qua cơ chế thực hiện chủ quyền một cách trực tiếp. Tương thích giữa cơ chế thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp không có nghĩa là không có sự khác biệt. Vấn đề là sự khác biệt đó phải không đi tới chỗ mâu thuẫn, chồng chéo, phủ nhận lẫn nhau.
2. Cần phải nhận thức được “dân chủ” theo nghĩa chủ động trong thực hành dân chủ bảo đảm quyền và phương thức thực hiện quyền của công dân trong quản lý Nhà nước và xã hội
Dân chủ trong tổ chức và vận hành quyền lực chính trị phải là dân chủ chủ động, là quyền của nhân dân, quyền của công dân. Dân chủ là yêu cầu nội tại của mỗi quốc gia và là xu hướng có tính chất toàn cầu. Nhưng quyền dân chủ đích thực chỉ có khi dân chủ được thực hiện một cách tự do. Đương nhiên, không có dân chủ tự do không có giới hạn.
Liên quan đến nhận thức chung về dân chủ là nhận thức về tiêu chí phân chia các hình thức dân chủ. Ở đây có thể sẽ xuất hiện câu hỏi lớn: giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, có những hình thức thể hiện quyền của người dân như: khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát trực tiếp của người dân. Các hình thức này tự nó không có vai trò quyết định trong việc ra quyết định hoặc thực hiện các hành động, hành vi nào của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Về cơ bản, đây là các hình thức đứng trung gian để thực hiện quyền của người dân, vừa mang yếu tố của dân chủ trực tiếp (xét về tính chất và mục tiêu), vừa mang yếu tố của dân chủ đại diện (xét về kỹ thuật thực hiện). Mục tiêu của nền dân chủ đích thực nhằm hướng tới bảo đảm quyền lực của nhân dân, bảo đảm nhân dân thực hiện quyền lực chính trị thông qua các cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra, bảo đảm các cơ quan đại diện chỉ là “người đại diện” mà không phải là chủ thể của quyền lực.
3. Cần thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, bộ máy Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội,
Có thể khẳng định rằng nguyên tắc tập trung dân chủ không được tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ và nhất quán trong thời gian qua. Tập trung và dân chủ là hai nhân tố rất quan trọng, có mối liên hệ hữu cơ cần được cụ thể hóa thành những quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ của tập thể, cá nhân, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức. Có như thế, dân chủ mới không bị lợi dụng trở thành hình thức; tập trung mới không thể biến thành độc đoán chuyên quyền, nguyên tắc tập trung dân chủmới có sức mạnh thật sự trong các hoạt động của các cơ quan, tổ chức;
4. Cần có sự đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng, trong tổ chức và hoạt động của nội bộ Đảng, trong mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, giữa Đảng với nhân dân và xã hội.
Về thực trạng phát huy dân chủ trong Đảng, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”[1].
Để đường lối, chính sách của Đảng bảo đảm đúng mục tiêu đem lại lợi ích thiết thân cho dân chúng và xã hội, cần tạo một cơ chế để bảo đảm tính đúng đắn và dân chủ trong các đường lối, chính sách của Đảng. Trước tiên là xây dựng quy trình ra quyết định mang tính công khai tính, trách nhiệm và tính phản biện cao. Đồng thời, cần có cơ chế cụ thể, cởi mở để nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với Đảng như cơ chế phản biện xã hội, cùng với việc phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, của các tổ chức xã hội, các cộng đồng tự quản trong xây dựng và phát triển xã hội.
5. Về thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp, cần nhấn mạnh bầu cử là tiền đề pháp lý cho sự ra đời, tồn tại và hoạt động của các thiết chế dân chủ đại diện: Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Vì vậy, bảo đảm mang tính tiên quyết cho hiệu quả của dân chủ đại diện là bầu cử. Thực thi một chế độ bầu cử dân chủ với đầy đủ các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ là điều cần thiết hiện nay của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cụ thể: (i) Bảo đảm nguyên tắc bầu cử bình đẳng; (ii) Nhất quán việc áp dụng phương pháp bầu cử theo đa số; (iii) Tổ chức các đơn vị bầu cử không phụ thuộc ranh giới hành chính; (iv) Bảo đảm tính cạnh tranh trong bầu cử; (v) Bảo đảm quyền bầu cử của công dân Việt Nam ở nước ngoài trong các cuộc bầu cử cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; (vi) Bảo đảm việc bỏ phiếu của cử tri mang tính thực chất.
Về tổ chức của Quốc hội và HĐND các cấp, cần có sự đa dạng và linh hoạt hơn trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan dân cử, đặc biệt là sự linh hoạt trong việc lập ra các Ủy ban lâm thời. Ủy ban (và Hội đồng) cũng phải là nơi sinh hoạt thường nhật, thường xuyên mà các đại biểu được ví như “công xưởng” của việc hoạch định chính sách và pháp luật. Ủy ban phải là nơi thực hiện hoạt động điều trần của cơ quan hành pháp, cầu nối quan trọng của các cơ quan lập pháp và hành pháp trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách, pháp luật.
Về hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp, cần xây dựng và đổi mới quy trình, thủ tục hoạt động của các thiết chế đại diện; Bổ sung hình thức điều trần trong hoạt động của Quốc hội; Áp dụng nguyên tắc quyết định theo đa số và bảo vệ ý kiến của thiểu số trong hoạt động.
6. Về thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, có thể khẳng định rằng, chúng ta xây dựng những mô hình mới, thiết chế mới trên cơ sở lĩnh hội các mô hình từ bên ngoài đã phần nào gây ra những khó khăn trong vấn đề phát huy dân chủ.
Bên cạnh đó, tình trạng trì trệ, chậm thay đổi trong nhận thức và hoạt động tại các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất dân chủ tại các đơn vị này. Hệ quả to lớn của những vấn đề nêu trên đã khiến cho việc đảm bảo, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật được đánh giá chưa tương xứng với kỳ vọng và yêu cầu thực tiễn xã hội đặt ra.
7. Về thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, có thể khẳng định những yếu kém, bất cập trong phát huy dân chủ trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta trong thời gian qua có nguyên nhân cơ bản và trực tiếp từ thiếu đồng bộ, nhất quán trong mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương giữa Hiến pháp và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Một nguyên nhân quan trọng là sự “xé rào” trong mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương khi mô hình chung áp dụng và địa phương không thích hợp, hiệu quả hoạt động kém. Tuy nhiên, việc xé rào không đúng nguyên tắc và quy trình gây ra những khó khăn đáng kể cho công tác phát huy dân chủ trong hoạt động.
Ngoài ta, trong quá trình thực hiện dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương không được nhận thức và tuân thủ nghiêm túc trong mối quan hệ giữa trung ương và chính quyền địa phương và trong mối quan hệ giữa các cấp chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, việc đề xuất và triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng trong công tác tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương còn chưa đáp ứng được với nhu cầu và tình hình thực tiễn.
8. Về thực hành dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng quan liêu, chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở; cán bộ của nhiều đoàn thể chính trị - xã hội vẫn trong tình trạng “hành chính hóa”, “viên chức hóa”.
Chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương còn rất thấp.
9. Cần nghiên cứu thiết lập cơ chế đồng bộ để thực hành dân chủ tại cơ sở nhằm khắc phục các yếu kém, bất cập như: công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các chủ trương chính sách, pháp luật về Quy chế dân chủ ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa kịp thời; nhiều nơi thực hiện mang tính hình thức, đối phó; việc công khai các nội dung liên quan ở nhiều địa phương, cơ sở chưa đầy đủ, chưa tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận thông tin; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn hạn chế; vẫn còn tình trạng một bộ phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật, bị lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vi phạm pháp luật…
10. Cần nghiên cứu thiết lập cơ chế xây dựng, kiểm tra, giám sát việc thực hành dân chủ trong quá trình thực hiện tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhằm khắc phục các biểu hiện quan liêu, chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở, xa dân, cửa quyền và gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân vào các tổ chức Đảng và bộ máy Nhà nước.
II. Bổ sung nhận thức và giải pháp về thực hành dân chủ
1. Về nhận thức
Qua hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta đã hình thành được hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mặc dù vậy, còn khá nhiều vấn đề lý luận chưa được luận chứng khoa học có sức thuyết phục cao, trong đó có vấn đề thực hành dân chủ.
Hiện nay, dân chủ hóa xã hội đang trở thành một xu thế của thời đại, một yêu cầu khách quan của sự phát triển đất nước. Trước hết là nhận thức đúng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng lãnh đạo. Làm thế nào để bảo đảm phát huy được trí tuệ, nghị lực của nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm lợi ích chính đáng của nhân dân.
Văn bản cao nhất của Đảng là Điều lệ Đảng. Điều lệ Đảng ghi rõ: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhưng đến nay vẫn chưa có quy định cụ thể hóa nội dung quan trọng này để thực hiện thống nhất, nhất là vấn đề thực hành dân chủ trong Đảng và dân chủ trong toàn xã hội.
Đảng là thành viên của hệ thống chính trị, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời là người lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì phải làm rõ lúc nào là thành viên, lúc nào là lãnh đạo, nhất là trong lãnh đạo thực hành dân chủ.
Vấn đề động lực dân chủ trong sự nghiệp đổi mới nhằm bảo đảm tốt quyền con người, quyền công dân được ghi trong Hiến pháp năm 2013. Động lực dân chủ có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của cá nhân và cộng đồng nhưng dân chủ phải gắn với kỷ cương, kỷ luật, đề cao tinh thần thượng tôn pháp luật.
Về quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là mối quan hệ chính trị - xã hội và pháp lý giữa chủ thể có vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ khác nhau, song cùng hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân chủ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
2. Về giải pháp
Một là, tiếp tục thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chỉ rõ, có dân chủ rộng rãi trong Đảng mới có thể thực hiện được dân chủ hóa trong toàn xã hội. Thực hành dân chủ vừa là yêu cầu trong sự phát triển của Đảng vừa là nguyện vọng chính đáng của đông đảo cán bộ, đảng viên, là phản ảnh xu thế phát triển của thời đại. Mở rộng dân chủ trong Đảng còn là một nội dung cơ bản để đổi mới Đảng và thúc đẩy công cuộc dân chủ hóa toàn xã hội và phát huy mọi sáng kiến, trí tuệ của cán bộ, đảng viên.
Để thực hành dân chủ trong Đảng thì các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn nữa các quan điểm, đường lối của Đảng về thực hành dân chủ. Đồng thời, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực hành dân chủ. Giải quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu quả. Tiếp tục bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống nhất trong toàn Đảng. Trước hết, quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Bổ sung quy định về thực hành dân chủ trong công tác cán bộ đi đôi với kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyết định về công tác cán bộ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Công khai, minh bạch về chỉ tiêu, kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, thi nâng ngạch, nâng bậc, xét danh hiệ thi đua, xét nâng hạng; tiêu chuẩn, điều kiện, số lượng, cơ cấu, quy trình luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử. Thực hiện bỏ phiếu kín đối với những nội dung cần biểu quyết trong công tác cán bộ. Có quy chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn, nằm trong quy hoạch phải có cơ hội như nhau để thể hiện phẩm chất, năng lực của mình trong tuyển dụng, tuyển chọn các chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện bầu cử có số dư, bổ nhiệm cán bộ có cạnh tranh, thông qua thi tuyển hoặc bảo vệ chương trình hành động. Đi đôi với phát huy dân chủ trong công tác cán bộ phải có quy định về kiểm soát, giám sát quan hệ lợi ích trong công tác cán bộ để công tác cán bộ thực sự khách quan, công tâm. Tiếp tục thực hiện tốt hơn chế độ Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp, Ban Chấp hành trung ương, Ban thường vụ báo cáo công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy; cấp ủy báo cáo trước tổ chức Đảng hoặc cơ quan bầu ra mình. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quy định hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn trong sinh hoạt Đảng, đưa hoạt động này thành chế độ nề nếp. Đảng viên được thảo luận, tranh luận, trình bày hết ý kiến của mình nhưng khi có nghị quyết mọi đảng viên đều phải chấp hành. Nếu có điểm nào không đồng ý thì đảng viên được quyền bảo lưu ý kiến hoặc đề đạt ý kiến của mình lên các cơ quan cấp trên cho đến đại hội đại biểu toàn quốc nhưng vẫn phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Để thực hành dân chủ trong Đảng thì mỗi đảng viên phải thực hiện nghiêm quy định của Bộ Chính trị “Quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”. Trong nhiều nội dung về nêu gương thì phải coi trọng nêu gương về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Hai là, Đảng lãnh đạo nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về thực hành dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng, củng cố, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở Cương lĩnh, đường lối của Đảng, ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn bản pháp luật khác liên quan đến nội dung thực hành dân chủ như Luật lao động, Luật trưng cầu ý kiến, Luật khiếu nại, tố cáo .v.v. Tuy nhiên, cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân còn hạn chế. Vì thế, Quốc hội phải nghiên cứu, xây dựng một số văn bản pháp luật để nhân dân thực hiện quyền của mình như luật giám sát cán bộ. Sớm ban hành các đạo luật để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa theo quan điểm lấy lợi ích của người dân làm trọng tâm, bảo đảm người dân được quyền tự do kinh doanh trong các ngành nghề mà luật không cấm. Một số luật đã ban hành nhưng chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp thì phải kịp thời bổ sung, sửa đổi. Một số luật cụ thể hóa Hiến pháp về quyền con người chưa được ban hành kịp thời. Một số vấn đề đã rõ cần có văn bản pháp lý để thực hiện như để nhân dân trực tiếp bầu chủ tịch ủy ban nhân dân xã, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu cử ở đâu thì phải tái cử ở đấy và cử tri được quyền bãi miễn đại biểu dân cử nếu đại biểu đó không hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu .v.v. Việc mở rộng tham vấn của cử tri trong xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách cũng cần có văn bản quy phạm pháp luật thì việc tham vấn mới thực chất, hiệu quả.
Trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XII) “về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” để đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Bộ máy phải tổ chức gọn nhẹ, rõ về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để người dân tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát, huy động được tài năng, trí tuệ, sáng tạo của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước phải đảm bảo và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là quyền tham gia xây dựng chính quyền, lựa chọn người đại diện cho mình và quyền sở hữu tài sản hợp pháp. Mở rộng đối thoại giữa nhà nước với người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức, tăng cường trách nhiệm giải trình và lắng nghe dân. Tăng cường dân chủ ở cơ sở, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia công việc của nhà nước một cách thiết thực, phù hợp. Các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực thi có hiệu quả. Tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính.
Giám sát việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp, các ngành về đạo đức, lối sống, về kết quả thực thi nhiệm vụ được giao và về thượng tôn pháp luật, kể cả lãnh đạo các cơ quan tư pháp. Đặc hiệt quan tâm giám sát việc chấp hành luật pháp của các cơ quan nhà nước, các chủ doanh nghiệp trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các quyền công dân .v.v. liên quan chặt chẽ đến lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên, người lao động.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến thực hành dân chủ, đến quyền và lợi ích của thành viên, đoàn viên, hội viên.
Theo quy định của Đảng (Quyết định 217-QĐ/TW, QĐ 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Quy định 124-QĐ/TW của Ban Bí thư) của Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội của mình trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thực hành dân chủ. Trong tình hình hiện nay phải vừa vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, các đoàn viên, hội viên của mình thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng – an ninh và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Động viên đội ngũ nhân sỹ, trí thức, các chuyên gia, nhà khoa học tham gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các đề án kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Tập hợp kịp thời các đề xuất, kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên, của cử tri để phản ánh cho Đảng, nhà nước xem xét lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết. Tham gia việc phát hiện, lựa chọn, giới thiệu những người đủ sức, đủ tài, thật sự xứng đáng làm đại biểu nhân dân trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, tăng cường chức năng giám sát có trọng tâm, trọng điểm đối với các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trong tình hình hiện nay cần tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân của các chính quyền hành chính nhà nước và chính quyền các cấp thực hiện việc giải quyết những nguyện vọng, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, không để phát sinh các điểm nóng. Tăng cường giáo dục, nâng cao đạo đức công vụ của công chức, viên chức, phục vụ nhiệm vụ, có trách nhiệm với nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về thực hành dân chủ.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc thực hành dân chủ, đó chính là vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, đơn vị trong cả hệ thống chính trị. Ở đâu người đứng đầu có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về quyền làm chủ của nhân dân, về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và luôn luôn nêu gương về đạo đức, lối sống, về thượng tôn pháp luật thì ở đó dân chủ được thực hiện. Từng đồng chí bí thư cấp ủy từ trung ương đến cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, công khai minh bạch trong điều hành của chính quyền, đề cao vai trò, tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chống quan liêu, cửa quyền, tham nhũng, lãng phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Trong thực tiễn việc lựa chọn và bố trí người đứng đầu có đức, có tài, biết vận dụng một cách sáng tạo những thành tựu của khoa học – công nghệ vào lãnh đạo, quản lý, biết tạo ra môi trường dân chủ để phát huy trí tuệ, sáng tạo, đóng góp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là hết sức quan trọng gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị. Theo quy định của Đảng, người đứng đầu các cấp nhiệm vụ chính trị. Theo quy định của Đảng, người đứng đầu các cấp, các ngành phải định kỳ trực tiếp tiếp công dân, đối thoại với công dân. Có như vậy mới nắm được và đủ thẩm quyền chỉ đạo giải quyết kịp thời những kiến nghị, đề xuất hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Đồng thời, chỉ đạo giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, không để phát sinh các điểm nóng, vụ việc phức tạp kéo dài. Ở đâu người đứng đầu gương mẫu, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện để Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ hoạt động và phát huy tốt vai trò của mình thì ở đó việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có nề nếp, thực chất, hiệu quả.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước về thực hành dân chủ tạo sự chuyển biến về nhận thức cho các tầng lớp nhân dân.
Báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phổ biến, truyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói đến công luận l à nói đến tính công khai. Tính công khai là biện pháp có hiệu quả bảo đảm thực hiện dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội. Nhân dân rất quan tâm đến việc công khai các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến nhân dân như các chính sách an sinh xã hội (việc làm, lao động, tiền lương, trợ cấp, bảo hiểm .v.v.). Chính quyền các cấp phải công khai rộng rãi cho nhân dân biết các đề án quy hoạch kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị, hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất đai .v..v. Công khai các đề án lớn về kinh tế - xã hội liên quan đến quyền và lợi ích của nhân dân. Công khai để dân biết, dân góp ý và dân giám sát việc tổ chức thực hiện khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cấp ủy Đảng, chính quyền phát huy vai trò của báo chí, các phương tiện truyền thông đại chúng để phát động nhân dân đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, tiêu cực. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực của những cán bộ, đảng viên có chức, có quyền mà không sử dụng vũ khí công luận, không phát huy được vai trò làm chủ của quần chúng thì khó có kết quả, hiệu quả. Trong quá trình đấu tranh thực hiện dân chủ, cần kịp thời phê phán những biểu hiện cực đoan, lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng phục vụ cho “lợi ích nhóm”, lợi ích cá nhân .v.v. Đồng thời, phải khắc phục, chấm dứt những việc làm mang tính dân chủ hình thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội./.
TS. Nguyễn Thế Trung
Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Hội đồng Lý luận TW
PGS.TS Bùi Nguyên Khánh
Phó Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm KHXHVN
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016