Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức rất sâu sắc về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của văn hóa. Kể từ đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta bước sang một thời kỳ mới, đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự phát triển của đất nước, lĩnh vực văn hóa tiếp tục đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán, kiên định chủ trương, đường lối về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; không ngừng bổ sung, phát triển và từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Đây là cơ sở quan trọng để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, trở thành sức mạnh nội sinh, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Việc đánh giá công tác xây dựng thể chế, chính sách văn hóa trong 50 năm qua là hết sức cần thiết, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, hành lang pháp lý, phát huy sức mạnh văn hóa để phát triển đất nước nhanh, bền vững.
1. Quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách trong lĩnh vực văn hóa
Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của văn hóa, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm về phát triển văn hóa, đó là kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kiên định và không ngừng phát triển chủ trương, đường lối xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) đã khẳng định phát triển nền văn hóa Việt Nam với các nguyên tắc: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng; đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, trở thành ngọn cờ tập hợp, cổ vũ nhân dân ta, nhất là trí thức, văn nghệ sĩ hăng hái tham gia cách mạng, phát huy vai trò của văn hóa, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Bước vào giai đoạn hòa bình, độc lập, thống nhất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã kế thừa và có sự phát triển tư duy lý luận về văn hóa, chăm lo phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Đảng đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
Trong thập niên đầu tiên sau khi thống nhất đất nước (1975-1985), mặc dù phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức khi vừa phải ra sức khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh, vừa phải bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, Đảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo phát triển văn hóa. Những luận điểm lớn về xây dựng văn hóa thể hiện tập trung trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng, bao gồm 9 luận điểm chính: (1) Văn hóa văn nghệ là bộ phận của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo; (2) Quan điểm dân tộc trong xây dựng văn hóa văn nghệ; (3) Quan điểm nhân dân trong xây dựng văn hóa, văn nghệ; (4) Tính giai cấp và tính Đảng cộng sản trong văn hóa văn nghệ; (5) Văn nghệ cần gắn bó với cuộc sống, tính hiện thực của văn nghệ xã hội chủ nghĩa; (6) Quan điểm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; (7) Quan điểm về vị trí, vai trò, chức năng của văn hóa văn nghệ; (8) Quan điểm về tự do sáng tạo của văn nghệ sĩ; (9) Quan điểm về tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, trong đó văn hóa nghệ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, cần tăng cường quản lý, đồng thời ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn nghệ đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã xác định: “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước”[2]. Đặc biệt, với mục tiêu, thể chế văn hóa phải đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, thể chế văn hóa đã tạo ra cơ chế nhằm phát huy tính sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa, sinh hoạt văn hóa đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng của Nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của Nhân dân.
Trước những yêu cầu của công cuộc Đổi mới và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, năm 1998, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong đó xác định trọng tâm “Hoàn chỉnh các văn bản luật pháp về văn hóa, nghệ thuật, thông tin trong điều kiện của cơ chế thị trường; ban hành các chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và nâng mức đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân”. Đảng đã chỉ đạo, định hướng cụ thể trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa; chỉnh sửa, bổ sung các văn bản đã ban hành cho phù hợp với tình hình mới; đặc biệt nhấn mạnh nội dung xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa và chế độ đãi ngộ, khuyến khích, tôn vinh những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. Tiếp theo đó, trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng chủ trương “hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”[3].
Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta nhận thấy cần nhấn mạnh hơn nữa mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và xây dựng con người, trong đó hướng đến mục tiêu “phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa”. Trên cơ sở đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Nghị quyết tiếp tục nhấn mạnh mục tiêu “Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; đồng thời đã xác định các nhóm giải pháp: (i) Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. (ii) Điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuật. Bổ sung chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa; có chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số. (iii) Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực văn hóa. (iv) Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức. Điều chỉnh chế độ tiền lương, trợ cấp đối với những người hoạt động trong các bộ môn nghệ thuật đặc thù. (v) Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài, quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản...
2. Kết quả đạt được trong xây dựng thể chế, ban hành các chính sách trong lĩnh vực văn hóa
Trong 50 năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật đã thiết lập những chế định quan trọng nhất, cơ bản nhất khẳng định quyền văn hóa của tất cả công dân Việt Nam; phục vụ cho mục tiêu bảo vệ và phát triển văn hóa tại Việt Nam; bảo đảm cho người dân được bình đẳng hưởng thụ các giá trị văn hóa, được bày tỏ, thể hiện những sáng tạo cá nhân của mình và được tôn trọng, thừa nhận các phong tục, tập quán, lịch sử hay những sự khác biệt về văn hóa… theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, phù hợp với các nguyên tắc và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, quyền văn hóa mà Việt Nam là thành viên.
Thứ nhất, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa qua 3 bản Hiến pháp (năm 1980, năm 1992, năm 2013)
Từ Hiến pháp năm 1980 chế định văn hóa tiếp tục được khẳng định từ Điều 44 đến Điều 46 (03 điều), theo đó “Các di tích lịch sử và văn hóa, các công trình mỹ thuật công cộng, các danh lam thắng cảnh được tu bổ và bảo vệ. Công tác bảo tồn, bảo tàng được chú trọng”[4].
Đến Hiến pháp năm 1992, các chế định về văn hóa được cụ thể hóa tại các điều từ Điều 30 đến Điều 34 (05 Điều), trong đó khẳng định rõ “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[5], đặc biệt Hiến pháp đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng đối với mỗi loại hình văn hóa, như: “Văn học, nghệ thuật góp phần bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn cao đẹp của người Việt Nam”[6]; “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa dân tộc; …”[7].
Sau 19 năm triển khai, Quốc hội đã tiến hành tổng kết Hiến pháp 1992. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp năm 2013, tiếp tục hoàn thiện nền tảng pháp lý hiến định quan trọng cho việc tiếp tục xây dựng và củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn; phù hợp với các nguyên tắc Hiến chương Liên hợp quốc và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, quyền văn hóa mà Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở kế thừa quy định về văn hóa trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã tổng hợp một cách cô đọng, tổng quát những quan điểm, định hướng về phát triển văn hóa được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng thành 01 điều (Điều 60) quy định về chế định văn hóa, trong đó tiếp tục nhấn mạnh vai trò của Nhà nước và xã hội trong việc chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Cùng với đó, trong Chương II về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Hiến pháp khẳng định mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa.
Có thể khẳng định, các chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp một cách ngắn gọn, súc tích nhưng bao quát được các khía cạnh của văn hóa; thể hiện được vai trò của Nhà nước trong việc phát triển toàn diện nền văn hóa Việt Nam mới, đồng thời cũng nhấn mạnh được quyền của người dân trong việc hưởng thụ, tiếp cận và tham gia vào đời sống văn hóa.
Thứ hai, cụ thể hóa các chế định về văn hóa trong Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
50 năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xây dựng, sửa đổi, bổ sung hơn 200 Luật, Pháp lệnh, trong đó có nhiều văn bản liên quan đến xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, quy định các chính sách nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng môi trường văn hóa, giá trị văn hóa, sản phẩm văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa; gắn kết văn hóa với phát triển du lịch, công nghiệp văn hóa, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra thế giới; tăng cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, giáo dục truyền thống, xây dựng con người mới; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí, xuất bản, thông tin, truyền thông, tạo nên những động lực và sức hấp dẫn mới trong đời sống tinh thần xã hội.
Đặc biệt trong 10 năm gần đây (từ 2014 đến nay), Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều luật, nghị quyết điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp lĩnh vực văn hóa nhằm thể chế hóa quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 33 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Cụ thể:
- Lĩnh vực di sản văn hóa: Luật Di sản văn hóa đã thể chế hóa chủ trương “bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa” theo Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 tại Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
- Lĩnh vực thư viện: Từ Pháp lệnh Thư viện năm 2000, tiếp đó là Luật Thư viện năm 2019 đã thể chế hóa các chủ trương tại Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09 tháng 6 năm 2014 của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và chủ trương của Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 05/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Lĩnh vực điện ảnh: Luật Điện ảnh 2006 đã thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển nền văn hóa Việt Nam với các đặc trưng “dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học”; khẳng định chính sách của Nhà nước “đầu tư xây dựng nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hiện đại hóa công nghiệp điện ảnh... đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân”. Để tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về điện ảnh, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Điện ảnh 2022. Luật cụ thể hóa nội dung về quyền con người, quyền công dân, quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật, quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa quy định trong Hiến pháp 2013; đồng thời thể chế hóa nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
- Lĩnh vực Quảng cáo: Năm 2001, Pháp lệnh quảng cáo được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Tiếp đó, Luật Quảng cáo 2012 đã thể chế hóa đường lối của Đảng về “phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa”, tạo hành lang pháp lý, điều kiện cho hoạt động quảng cáo phát triển, bắt kịp xu hướng hội nhập; trở thành công cụ hữu hiệu định hướng doanh nghiệp quảng cáo đúng đắn, cạnh tranh lành mạnh, phát triển và giới thiệu sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có chất lượng đến người tiêu dùng; đồng thời nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, đưa hoạt động quảng cáo ngày càng đi vào nền nếp, góp phần tích cực vào việc phát triển đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều luật gián tiếp điều chỉnh lĩnh vực văn hóa như: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kiến trúc, Luật Thi đua, khen thưởng, Luật Thuế giá trị gia tăng, Bộ Luật lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư… tạo hành lang pháp lý đồng bộ trong quản lý, phát triển văn hóa.
Thứ ba, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa thông qua việc ban hành các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu thực tiễn, bên cạnh Hiến pháp và các đạo luật, Quốc hội đã xem xét, ban hành nhiều Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội trong đó có lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015, Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016-2020; các Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước hằng năm với nội dung phân bổ ngân sách cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Tại Nghị quyết về phân bổ ngân sách trung ương năm 2023 số 70/2022/QH15, Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ “Khẩn trương xây dựng nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ cho cả thời kỳ ổn định ngân sách đối với Chương trình bảo tồn và phát huy bền vững giá trị văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2025 và Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2025”.
Quốc hội đã ban hành những nghị quyết quan trọng phê duyệt chủ trương đầu tư 3 Chương trình mục tiêu quốc gia: xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Các chương trình mục tiêu quốc gia đều dành nội dung thỏa đáng cho mục tiêu phát triển văn hóa và bảo tồn văn hóa các dân tộc. Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 dành Dự án 6 trong 10 dự án của Chương trình cho “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”.
Các nghị quyết của Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước liên quan đến lĩnh vực văn hóa đã góp phần đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Những vấn đề có tính chất quan trọng, cơ bản, nhạy cảm về phát triển văn hóa được Quốc hội xem xét, quyết định trong thời gian qua đã cho thấy tinh thần trách nhiệm của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, khẳng định Quốc hội đã ngày càng gần dân hơn và bám sát hơn thực tiễn của đất nước, khẳng định rõ nét hơn địa vị hiến định của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Thứ tư, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về văn hóa thông qua việc ban hành các nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ trưởng
Hệ thống pháp luật về văn hóa cơ bản đã bao quát, toàn diện các lĩnh vực thuộc ngành quản lý, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị, văn hóa và hệ thống pháp luật nói chung, góp phần thúc đẩy các nguồn lực xã hội tham gia tích cực hơn vào lĩnh vực văn hóa, đảm bảo để phát triển phong phú, đa dạng hơn theo đúng các nguyên tắc, chuẩn mực pháp luật quy định. Để cụ thể hóa Hiến pháp và các đạo luật, đến nay, hệ thống văn bản dưới luật liên quan trực tiếp trong lĩnh vực văn hóa gồm 32 Nghị định của Chính phủ, 14 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 108 Thông tư liên tịch và Thông tư. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa tương đối công khai, minh bạch, phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy sự phát triển của ngành.
Thứ năm, cho ý kiến đối với các nghị định chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh
Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về một số nghị định điều chỉnh các lĩnh vực văn hóa, cụ thể: Nghị định quy định về hoạt động mỹ thuật (năm 2014), Nghị định quy định về hoạt động nhiếp ảnh (năm 2016), Nghị định quy định về hoạt động triển lãm (năm 2019), Nghị định quy định về hoạt động nghệ thuật biểu diễn (năm 2020). Các nghị định đã thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng về lĩnh vực mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, nghệ thuật biểu diễn; khắc phục bất cập, hạn chế trong thực tiễn, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và quản lý hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, nghệ thuật biểu diễn; đơn giản hóa thủ tục hành chính; tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, nghệ thuật biểu diễn; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các nghệ sĩ tham gia sáng tác, công bố tác phẩm…; tăng cường mối quan hệ giao lưu nghệ thuật Việt Nam và quốc tế.
3. Các hạn chế, bất cập về thể chế, chính sách phát triển văn hóa
Thứ nhất, thể chế văn hóa còn chậm đổi mới; khung thể chế chưa hoàn thiện, chưa triển khai đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hóa, chưa theo kịp với yêu cầu phát triển.
Hệ thống pháp luật liên quan tới lĩnh vực văn hóa có số lượng lớn nhưng còn chồng chéo, thiếu đồng bộ. Một số văn bản có hiệu lực pháp lý và tính quy phạm thấp, quy định chưa cụ thể. Một số lĩnh vực văn hóa chưa có luật hoặc pháp lệnh điều chỉnh (như nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây dựng môi trường văn hóa, thiết chế văn hóa, tuyên truyền cổ động chính trị, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ sỹ...), thậm chí chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh (như lĩnh vực văn học). Một số quy định đã lạc hậu nhưng chậm được sửa đổi. Một số vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn[8] chậm được thể chế hóa.
Thể chế về tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp nói chung và trong lĩnh vực văn hóa chậm được hoàn thiện. Việc sắp xếp, đổi mới các đơn vị sự nghiệp công trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật cần được rà soát, đánh giá và điều chỉnh cho phù hợp.
Thứ hai, hệ thống chính sách về văn hóa còn chưa đầy đủ, nhiều bất cập, hiệu quả còn thấp.
Cơ chế, chính sách đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển. Về tổng thể, mức đầu tư cho văn hóa trong tổng chi ngân sách tương đối thấp so với các lĩnh vực khác, chưa tương xứng với thực tiễn, chưa đồng đều. Theo Nghị quyết số 40/2021/QH15, ngày 13-11-2021, của Quốc hội “Về việc phân bổ ngân sách Trung ương năm 2022”, tỷ lệ ngân sách dành cho văn hóa và thông tin chỉ chiếm 0,9% tổng ngân sách được phân bổ. Không chỉ hạn chế về quy mô, cơ cấu đầu tư công cho văn hóa cũng còn bất cập. Phần lớn nguồn vốn công dành cho hoạt động sự nghiệp, tỷ lệ chi cho đầu tư phát triển còn thấp. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa, chương trình phát triển văn hóa bị gián đoạn, làm giảm nguồn lực thúc đẩy phát triển văn hóa gắn với kinh tế - xã hội để đáp ứng các mục tiêu phát triển bền vững.
Chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa chưa bao quát được toàn bộ các di sản, giá trị văn hóa dân tộc[9]; có trường hợp chưa cụ thể, trong quá trình thực hiện vẫn còn vướng mắc. Chính sách đối với văn học, nghệ thuật chưa được chú trọng, chưa thể hiện tính đặc thù, chưa tạo được sự đột phá; có trường hợp chưa hiệu quả. Cơ chế, chính sách phát triển hệ thống thiết chế văn hóa vẫn chưa tương xứng với sự phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân; hệ thống thiết chế văn hóa còn thiếu, hoạt động kém hiệu quả, lãng phí. Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số còn hạn chế, kém đồng bộ. Một số chính sách chưa phù hợp với đặc thù vùng, tộc người; thiếu các chính sách quản lý đặc thù. Chính sách khuyến khích sáng tạo chưa được quan tâm đúng mức, còn nhiều vướng mắc.
Chính sách cho phát triển công nghiệp văn hóa chưa tương xứng, chậm được ban hành; thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa còn phát triển manh mún. Một số chính sách về xây dựng, bảo vệ môi trường văn hóa thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, quy chuẩn, tính ổn định chưa cao; chưa có chế tài đủ mạnh để ngăn chặn các hành vi vi phạm. Chính sách xây dựng văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa, huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, chưa thực sự tạo nhiều ưu đãi, hiệu quả để huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa; chưa khắc phục được tâm lý trông chờ vào kinh phí của Nhà nước. Chính sách phát triển hệ thống trợ giúp thống kê, đánh giá, giám sát, hoạch định chính sách về văn hóa chưa được quan tâm đúng mức.
- Thứ ba, cơ chế phối hợp giữa các ban, ngành, cơ quan các cấp, giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ. Chưa thực hiện tốt việc phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình. Cơ chế cho sự tham gia của xã hội vào việc hoạch định, triển khai và đánh giá chính sách của Nhà nước và giám sát hoạt động của doanh nghiệp chưa được quy định rõ ràng. Cơ chế phân bổ và tiếp cận nguồn lực hỗ trợ từ Nhà nước còn bất cập, chưa hài hòa giữa khu vực công và khu vực tư, chưa tạo ra động lực khuyến khích sáng tạo và nỗ lực nâng cao chất lượng tác phẩm, chưa tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
4. Những vấn đề đặt ra về xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển văn hóa
- Thể chế, chính sách phải kiến tạo để chấn hưng, phát triển văn hóa và thúc đẩy hội nhập quốc tế. Việc hoàn thiện thể chế văn hóa phải bảo đảm các yêu cầu: (1) Tạo hành lang pháp lý để tổ chức và triển khai thuận lợi mọi hoạt động văn hóa trong khuôn khổ pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; (2) Văn hóa phải là một trong các trụ cột để phát triển bền vững đất nước; (3) Phát huy tối đa năng lực sáng tạo, sự đa dạng và năng động của các chủ thể văn hóa, tạo điều kiện hội nhập thị trường văn hóa quốc tế; (4) Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; (5) Giải quyết hài hòa 5 mối quan hệ: Giữa bảo tồn, phát triển văn hóa với tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội; giữa lợi ích kinh tế của chủ thể với lợi ích văn hóa của cộng đồng; giữa yếu tố dân tộc và quốc tế; giữa truyền thống và hiện đại; giữa văn hóa đại chúng và văn hóa tinh hoa, bác học.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách về văn hóa phải được tiến hành đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, thực sự hiệu lực, hiệu quả. Trước hết, rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật còn thiếu trong các lĩnh vực văn hóa[10]. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung khắc phục bất cập trong các chính sách đã ban hành[11]; kịp thời hoàn thành việc thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong các lĩnh vực: văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, thông tin - truyền thông, tín ngưỡng - tôn giáo… Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay: Cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa gắn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội[12]; xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế; kinh tế trong văn hóa; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đi đôi với hoàn thiện thị trường văn hóa; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, sáng tạo văn hóa…
- Thể chế quản lý nhà nước về văn hóa phải được đổi mới đồng bộ với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý văn hóa, phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chú trọng vai trò của Nhân dân trong phát triển sự nghiệp văn hóa, nhất là xác lập cơ chế tự quản của các cộng đồng xã hội để tự tổ chức, trang bị cơ sở vật chất và vận hành các thiết chế văn hóa. Tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với chịu trách nhiệm, tạo cơ chế khuyến khích sự năng động, sáng tạo, chủ động trong quản lý các hoạt động văn hóa; đồng thời bảo đảm yêu cầu quản lý toàn diện, đa ngành, nhất là đối với các ngành công nghiệp văn hóa. Hệ thống quy định về thủ tục hành chính và điều kiện đầu tư, kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đơn giản, thuận tiện, minh bạch hơn nữa.
5. Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển văn hóa
5.1. Hoàn thiện thể chế, pháp luật và chính sách tạo môi trường thuận lợi cho phát triển văn hóa
Ban hành đồng bộ các chính sách phát triển trên mọi phương diện văn hóa quốc gia. Chú trọng phát triển văn hóa chính trị, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, quán triệt dân làm gốc. Phát triển văn hóa kinh doanh và đạo đức doanh nhân làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Phát triển văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội và gia đình nhằm bảo vệ, gìn giữ thuần phong, mỹ tục, tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết, nghĩa tình, trọng công lý và đạo lý, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển văn hóa cần chú trọng các nội dung sau: (1) sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa, Luật Quảng cáo; nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật về nghệ thuật biểu diễn; Luật (hoặc Pháp lệnh) về sáng tác nghệ thuật và Pháp lệnh về sáng tác văn học, Luật Tiếng Việt hoặc Luật về ngôn ngữ; (2) tiếp tục nghiên cứu căn cứ lý luận, thực tiễn về đề xuất ban hành một số luật chuyên ngành như: Luật Mỹ thuật; Luật Nhiếp ảnh; Luật Tài trợ, hiến tặng, Luật về tự do sáng tạo trong khoa học và văn hóa, văn học, nghệ thuật; Luật Bản quyền tác giả (tách nội dung từ Luật sở hữu trí tuệ)... (3) nghiên cứu, đề xuất xây dựng chính sách, pháp luật, cơ chế quản lý để tạo lập các thiết chế văn hóa phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
5.2. Chú trọng phát triển con người toàn diện
Trong thời gian tới, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện đồng bộ, bảo đảm tất cả chính sách đều hướng tới mục tiêu cao nhất là phát triển con người Việt Nam toàn diện, mang đầy đủ đặc trưng của con người xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy hình thành và lan tỏa các giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới; cụ thể hóa hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, và chuẩn mực con người Việt Nam. Trong đó, cần quan tâm hơn tới các chính sách về bồi dưỡng thế hệ trẻ; chăm lo, hỗ trợ các đối tượng, lực lượng đặc thù, dễ bị tổn thương; đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên; khắc phục các hạn chế của con người Việt Nam.
5.3. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh với các trọng tâm là xây dựng đời sống văn hóa; phát triển và quản lý hệ thống hạ tầng, thiết chế và không gian văn hóa đồng bộ, hiệu quả
Tập trung xây dựng, hoàn thiện các bộ quy tắc ứng xử văn hóa, nhất là trên không gian mạng; từng bước xây dựng văn hóa số phù hợp với xã hội số, kinh tế số và công dân số; tiếp tục xây dựng nếp sống văn hóa, xây dựng đô thị và nông thôn văn minh, từng bước xóa bỏ các tập tục, tập quán lạc hậu. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Phát huy tối đa khát vọng cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Hoàn thiện chính sách để huy động các nguồn lực, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xây dựng, hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu quả hệ thống hạ tầng, thiết chế và không gian văn hóa, các không gian sáng tạo, đặc biệt là các công trình, thiết chế văn hóa cấp quốc gia, mang tầm vóc thời đại Hồ Chí Minh.
5.4. Nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền và giáo dục văn hóa
Cần tập trung hoàn thiện các chính sách để đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các sản phẩm truyền thông, thúc đẩy quảng bá, lan tỏa giá trị văn hóa truyền thống, tinh hoa văn hóa thế giới đến đông đảo công chúng trong và ngoài nước; khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát triển các kênh thông tin đại chúng và truyền thông mới, nhất là trên nền tảng số. Có chính sách đầu tư để phát triển phát thanh, truyền hình trở thành ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn; hình thành các cơ sở đào tạo, cơ quan truyền thông mạnh, có năng lực cạnh tranh và ảnh hưởng ở tầm khu vực, quốc tế.
5.5. Kết hợp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc
Tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị di sản để xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc và thế giới, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới quyền văn hóa, quyền chủ thể, quyền con người; chú ý đến tính toàn diện, tính đặc thù vùng, miền, nhất là đối với di sản văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số, di sản tại khu vực đô thị, nông thôn, miền núi… Xây dựng, hoàn thiện chính sách về ghi danh, bảo quản, tu bổ, phục hồi, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa; tăng cường đầu tư cho công tác bảo tồn, phát huy các di tích lịch sử - văn hóa, gắn với phát triển bền vững du lịch, công nghiệp văn hóa và các ngành kinh tế khác; phát huy hiệu quả tài sản, tài nguyên văn hóa.
5.6. Thúc đẩy phát triển văn học, nghệ thuật
Bổ sung chính sách riêng biệt cho hoạt động sáng tạo của các ngành nghệ thuật chuyên biệt còn thiếu như sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm…; bổ sung các chính sách mới về hỗ trợ, quản lý hoạt động tuyên truyền, phổ biến tác phẩm văn học, nghệ thuật trên không gian mạng; đào tạo, bồi dưỡng, phát huy tài năng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, nhất là những tài năng trẻ; bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan; bảo đảm môi trường tự do, dân chủ, lành mạnh, khoa học để khơi nguồn cảm hứng, sáng tạo. Phát triển các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật có giá trị đỉnh cao về nghệ thuật và tư tưởng, phấn đấu có các tác phẩm văn học, nghệ thuật xứng tầm, hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 100 năm ngày thành lập Ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
5.7. Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
Tập trung nghiên cứu, hoàn thiện 4 nhóm chính sách để tạo đột phá cho phát triển bền vững ngành công nghiệp văn hóa: (i) Chính sách chuyển hóa tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ văn hóa có khả năng cạnh tranh mạnh trên thị trường văn hóa; (ii) Chính sách hợp tác công tư để nâng cao năng lực khai thác kết cấu hạ tầng và huy động tài chính trên thị trường văn hóa; (iii) Chính sách khuyến khích, bảo vệ nội dung sáng tạo, quyền tác giả và các quyền liên quan; (iv) Chính sách ưu đãi, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, một số sản phẩm văn hóa chủ lực, có tiềm năng, lợi thế; thúc đẩy phát triển các loại hình nghệ thuật đương đại.
Xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ để phát triển lĩnh vực công nghiệp văn hoá, bao gồm quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, truyền hình và phát thanh, du lịch văn hóa... Xây dựng chiến lược, kế hoạch ưu tiên phát triển, tập trung nguồn lực có trọng tâm, trọng điểm vào một số lĩnh vực, ngành chủ chốt, có tiềm năng, thế mạnh trên phạm vi quốc gia cũng như ở từng địa phương. Chú trọng đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông, hạ tầng số cùng với hạ tầng văn hoá - xã hội; phát triển các không gian văn hóa, thiết chế văn hóa, hạ tầng cho phát triển các sản phẩm văn hóa… để đồng thời với phát triển văn hóa, sẽ góp phần quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia, các di sản văn hóa và khai phá tiềm năng du lịch văn hóa của các địa phương.
5.8. Đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực văn hóa
Tập trung xây dựng, hoàn thiện các chính sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ trong lĩnh vực văn hóa, thúc đẩy nhanh hơn quá trình chuyển đổi số, hoàn thiện hạ tầng số, các nền tảng số dùng chung cho ngành văn hóa; đầu tư phát triển một số viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo về văn hóa, nghệ thuật theo mô hình tiên tiến của thế giới; nâng cao chất lượng nghiên cứu và đào tạo khoa học quản lý văn hóa tại các viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo về văn hóa, nghệ thuật; tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học về văn hóa, nghệ thuật; tôn vinh, đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia đầu ngành về văn hóa, nghệ thuật; huy động trí tuệ, tâm huyết của các nhà khoa học có kinh nghiệm tiếp tục nghiên cứu khoa học, tham gia đào tạo, hướng dẫn cán bộ trẻ.
5.9. Chăm lo xây dựng nguồn nhân lực văn hóa
Hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa theo hướng bảo đảm cả về chất lượng, số lượng với cơ cấu hợp lý, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, tôn trọng, khuyến khích, động viên, đãi ngộ và tôn vinh đối với chủ thể quản lý văn hóa và chủ thể sáng tạo, thực hành, truyền bá văn hóa. Phát triển các ngành đào tạo những môn nghệ thuật truyền thống như: kịch hát dân tộc, tuồng, chèo, cải lương, dân ca các dân tộc ít người. Kết hợp hài hòa, tạo mối liên thông giữa chính sách phát triển văn hóa với chính sách giáo dục đào tạo, phát triển khoa học công nghệ, khuyến khích đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong việc bảo tồn, phát huy và lan tỏa các giá trị văn hóa, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của nền văn hóa dân tộc.
5.10. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Cần tập trung hoàn thiện các chính sách để thúc đẩy hội nhập quốc tế về văn hóa, phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, khẳng định trường phái đối ngoại và ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Xây dựng cơ chế, chính sách để phát triển văn hóa đối ngoại; gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế; thúc đẩy quan hệ, hợp tác, xây dựng lòng tin với các quốc gia, tổ chức khu vực và quốc tế; khuyến khích hợp tác, hội nhập sâu, rộng trong các lĩnh vực về văn hóa tại các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế nhằm đưa tinh hoa văn hóa của Việt Nam ra thế giới, lựa chọn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; tăng cường quảng bá các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, nhất là dạy tiếng Việt, quảng bá nghệ thuật dân tộc, xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài, thúc đẩy kết hợp ngoại giao văn hóa với ngoại giao công chúng, ngoại giao số; vận động, đa dạng hóa và bảo tồn, phát huy các di sản, danh hiệu quốc tế của Việt Nam. Hoàn thiện chính sách khuyến khích tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc làm gốc; đồng thời, ngăn ngừa những tác động tiêu cực, bảo vệ giá trị văn hóa, nền tảng tư tưởng của Đảng, thành tựu của đất nước.
5.11. Tăng cường nguồn lực đầu tư cho văn hóa.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách huy động các nguồn lực cho phát triển văn hóa, phát huy đầy đủ nguồn lực của nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, cả trong nước và ngoài nước. Tăng cường nguồn lực đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, theo định hướng “đầu tư công dẫn dắt đầu tư”, “đầu tư công góp phần tăng thu hút đầu tư xã hội”. Đồng thời, rà soát, hoàn thiện các chính sách ưu đãi đầu tư, thuế, tín dụng, đất đai, ghi công cho các khoản đóng góp, tài trợ trong lĩnh vực văn hóa; khuyến khích các hình thức hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa; điều chỉnh cơ chế tài chính để khuyến khích sáng tạo, phù hợp với đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật; khuyến khích hình thành các quỹ hỗ trợ trong lĩnh vực văn hóa. Chú trọng giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát huy hiệu quả các nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hóa cho phát triển văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa. Phát huy nguồn lực bên trong và tranh thủ nguồn lực bên ngoài thông qua hợp tác quốc tế. Đồng thời, không ngừng hoàn thiện tổ chức, bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đầu tư nhà nước trong lĩnh vực văn hóa./.
Nguyễn Đắc Vinh[1]
[1] Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1987, tr.120.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.131.
[4] Điều 46 Hiến pháp năm 1980.
[5] Điều 30 Hiến pháp năm 1992.
[6] Điều 32 Hiến pháp năm 1992.
[7] Điều 33 Hiến pháp năm 1992.
[8] Như vấn đề quản lý tư tưởng, đạo đức, lối sống; ứng xử văn hóa trên không gian mạng, vấn đề an ninh văn hóa, an ninh con người trong bối cảnh hội nhập toàn cầu; phát triển công nghiệp văn hóa và sự thích ứng của văn hóa truyền thống trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4...
[9] Chẳng hạn chưa xem danh nhân là bộ phận của di sản văn hóa dân tộc.
[10] Như: tài trợ, hiến tặng trong lĩnh vực văn hóa; hướng tới xây dựng Luật Sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học; Luật Nghệ thuật biểu diễn; Luật Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm…
[11] Nghệ thuật biểu diễn, di sản văn hóa, quảng cáo, quyền tác giả và quyền liên quan…;
[12] Các vấn đề như: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu gắn với việc tạo dựng và phát triển những động lực tăng trưởng mới, bao gồm yếu tố văn hóa; tăng cường sức mạnh mềm và lồng ghép hiệu quả các mục tiêu phát triển văn hóa gắn với tăng trưởng kinh tế; hội nhập quốc tế và sử dụng thành quả khoa học công nghệ trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội...