Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020 và những vấn đề đặt ra trong thời gian tới

Ngày phát hành: 30/05/2021 Lượt xem 3782

 

                              

 

I. Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012-2020

 

Quán triệt Nghị quyết của Đảng về “chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập”, ngày 09 tháng 01 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định phê duyệt Đề án “xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” (sau đây viết tắt là Đề án 89) tiếp tục thực hiện có chất lượng và hiệu quả công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội theo tinh thần Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị khóa X “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”.

Sau một thời gian thực hiện, Đề án 89 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo đã khẳng định được vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện thông qua Ban Chỉ đạo quốc gia xây dựng xã hội học tập, đã ban hành quy chế làm việc và chỉ đạo các bộ, ngành xây dựng kế hoạch thực hiện công tác xây dựng xã hội học tập; chỉ đạo các địa phương tham mưu cho cấp ủy, chính quyền thành lập Ban Chỉ đạo các cấp; tổ chức tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của việc học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nhận thức được vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập cho mọi người dân. Nhiều địa phương đã huy động các tổ chức chính trị - xã hội tham gia để tổ chức các hoạt động học tập suốt đời, trong đó các cấp Hội Khuyến học từ Trung ương đến cơ sở với vai trò nòng cốt phối hợp với nhiều cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp,... để xây dựng và phát triển phong trào khuyến học, khuyến tài và tổ chức các hoạt động thúc đẩy học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập.

 

1. Kết quả thực hiện các mục tiêu trong Đề án 89 thời gian qua, cho thấy công tác phổ cập giáo dục được củng cố vững chắc, đến năm 2020 có 63/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học (theo các mức độ 1 đạt 100%, mức độ 2  đạt 91,3% và mức độ 3 đạt 56,5%); 63/63 tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở (mức độ 1 đạt 100%, mức độ 2 đạt 7,93%, mức độ 3 đạt 4,76%). Tỷ lệ người biết chữ được nâng cao: số người biết chữ trong độ tuổi 15-35 chiếm tỷ lệ 99,3% (cao hơn 0,3% so với mục tiêu của Đề án 89) trong đó khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ tỷ lệ tương ứng là 94,88% (cao hơn 0,88% so với mục tiêu của Đề án 89);  số người mới biết chữ tiếp tục học tập và không mù chữ trở lại cũng tăng cao hơn 0,8% so với mục tiêu của Đề án 89. Kết quả học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ của cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu vị trí việc làm và công nhân lao động đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa có nhiều tiến bộ. Số cán bộ, công chức, viên chức có trình độ ngoại ngữ bậc 2 đạt 43,53% (cao hơn 3,53% so với mục tiêu của Đề án 89). Tỷ lệ công nhân lao động có kiến thức cơ bản về tin học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu công việc và giao lưu văn hóa tăng hằng năm (năm 2020 đạt 38,28%). Tỷ lệ học sinh, sinh viên và người lao động tham gia học tập các chương trình giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục để hoàn thiện kỹ năng sống, xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng ngày càng hạnh phúc hơn (cao hơn 14,6% so với mục tiêu của Đề án 89).

 

2. Công tác tuyên truyền được triển khai tích cực ở một số bộ, ngành và địa phương; hình thức và nội dung tuyên truyền khá phong phú, huy động được sự tham gia tích cực của toàn xã hội góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, vai trò, lợi ích của việc xây dựng xã hội học tập, thúc đẩy công tác khuyến học, khuyến tài trong cả nước đi vào chiều sâu và thực chất. Ở nhiều địa phương đã gắn công tác khuyến học, khuyến tài với phong trào xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đi đôi với hành, với cuộc vận động xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng gia đình văn hóa.

 

3. Các địa phương đã quan tâm củng cố, phát triển hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục thực hiện việc học tập suốt đời cho mọi người, trong đó nòng cốt là các cơ sở giáo dục thường xuyên tiếp tục được củng cố và phát triển nhanh chóng về số lượng, đa dạng về mô hình, hoạt động. Số lượng các cơ sở giáo dục thường xuyên tư thục tăng nhanh, đặc biệt là các trung tâm tin học, ngoại ngữ đã hỗ trợ tích cực trong việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho học sinh, sinh viên, cán bộ công chức, giáo viên và mọi người dân theo hướng xã hội hoá.

Các cơ sở giáo dục đại học đã quan tâm phát triển công nghệ đào tạo qua mạng, đầu tư hệ thống quản lý học tập, hệ thống quản lý nội dung học tập và phòng studio để xây dựng học liệu số; thường xuyên tổ chức tập huấn, trang bị những kỹ năng cần thiết để triển khai đào tạo qua mạng cho cán bộ quản lý, giảng viên; liên kết với các trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh để mở các chương trình đào tạo từ xa cấp chứng chỉ, chương trình phổ biến kiến thức góp phần đẩy mạnh hình thức học từ xa, học qua mạng.

 

4. Các bộ, ngành Trung ương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã xây dựng nhiều văn bản chỉ đạo và hướng dẫn các cơ sở giáo dục đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá phù hợp với việc học tập của người lớn tuổi; ban hành chính sách hỗ trợ học sinh ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, chính sách để huy động người mù chữ ra học xóa mù chữ và giáo dục tiếp tục sau khi biết chữ, chính sách cho người dạy và người học nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả học tập suốt đời.

 

6. Công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp trong quá trình xây dựng xã hội học tập được duy trì và phát huy hiệu quả. Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan chủ trì thực hiện Đề án 89 đã đẩy mạnh kết chương trình phối hợp, triển khai các hoạt động của Đề án với Hội Khuyến học Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các bộ, ngành, tổ chức đoàn thể trung ương.  

 

7. Hợp tác quốc tế được quan tâm, nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế về xây dựng xã hội học tập; phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cập nhật thông tin về học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Thời gian qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Văn phòng UNESCO tại Việt Nam, Trung tâm khu vực về học tập suốt đời của tổ chức SEAMEO tại Việt Nam triển khai các hoạt động thực tiễn liên quan đến học tập suốt đời; ký biên bản ghi nhớ hợp tác với trường đại học, sở giáo dục của một số nước trên thế giới và trong khu vực để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ cho giáo viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục của Việt Nam.

 

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được sau 8 năm triển khai thực hiện Đề án 89 tồn tại một số hạn chế, yếu kém. Nhận thức về công tác khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập ở một số địa phương, cơ quan, doanh nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang chưa đúng và đầy đủ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu công việc, vị trí việc làm, chức danh mà cán bộ, công chức đảm nhiệm. Các hoạt động học tập suốt đời ở ngoài nhà trường chưa đa dạng, phong phú, điều kiện hoạt động còn nhiều khó khăn chưa đáp ứng nhu cầu học tập của người dân. Hoạt động của nhiều trung tâm học tập cộng đồng còn kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu học tập đa dạng của người dân, nội dung nghèo nàn, thiếu hấp dẫn. Số người mù chữ ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn cao, tỷ lệ huy động người theo học các lớp xóa mù chữ thấp hơn so với số người còn mù chữ, số người tái mù chữ có chiều hướng gia tăng[1]. Việc học tập và ý thức tự học trong nhân dân chưa cao; nhiều nơi chưa coi trọng công tác đào tạo nghề và bồi dưỡng kỹ năng sống cho công nhân, lao động nông thôn. Chất lượng công tác đào tạo từ xa chưa cao, chưa theo kịp xu thế phát triển giáo dục của thế giới. Một số nhiệm vụ, giải pháp Đề án 89 chưa hoàn thành đầy đủ: Việc chưa xây dựng mã ngành đào tạo về giáo dục cộng đồng, về học tập suốt đời. Chưa xây dựng chương trình và triển khai bồi dưỡng về phương pháp giáo dục người lớn cho giáo viên các cơ sở giáo dục thường xuyên; chưa có cơ chế đánh giá, công nhận kết quả học tập không chính quy và phi chính quy; chưa tổ chức nghiên cứu về các hình thức học tập suốt đời, phát triển các loại học liệu phục vụ cho học tập suốt đời.

 

 

II. Những vấn đề đặt ra đối với xây dựng xã hội học tập trong thời gian tới

Xây dựng xã hội học tập đang là xu thế tất yếu và mang tính thời đại sâu sắc.  Học tập suốt đời được coi là mục tiêu phát triển giáo dục của nhiều quốc gia nhằm nâng cao nguồn nhân lực, đẩy mạnh sự gắn kết xã hội, duy trì và cạnh tranh trong khu vực và trên toàn cầu. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và định hướng xây dựng xã hội học tập. Học tập suốt đời ngày nay mở ra nhiều cơ hội học tập tốt hơn, có chất lượng hơn gắn liền với giáo dục mở với nền tảng để thực thi là chuyển đổi số, công nghệ số. Đổi mới cách dạy, học và khuyến khích tự học trên cơ sở áp dụng công nghệ số, đặc biệt là các công nghệ tiên tiến như dữ liệu lớn, điện toán đám mây, blockchain, trí tuệ nhân tạo, 5G…; khuyến khích các mô hình giáo dục, đào tạo mới dựa trên các nền tảng số là những vấn đề đặt ra đối với giáo dục Việt Nam nói chung và xây dựng xã hội học tập nói riêng. Chính vì vậy, chuyển đổi số trong giáo dục phải trở thành một nhiệm vụ trọng tâm và ưu tiên hàng đầu để triển khai hiệu quả việc xây dựng xã hội học tập trong giai đoạn mới.

 

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài”[2]; “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”[3]; “Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời”[4].

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đề ra phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế: “Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động”; “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo”; Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động”[5].

 

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập theo Kết luận số 49-KL/TW ngày 10 tháng 5 năm 2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập (sau đây viết tắt là Kết luận số 49-KL/TW); Quyết định số 281/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020” và Quyết định số 489/QĐ-TTg ngày 08 tháng 4 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 49-KL/TW, và nhất là Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 25 tháng 5 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về “Đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”, vì vậy trong thời gian tới có một số vấn đề đặt ra đối với xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam cần quan tâm như sau: 

 

Thứ nhất, Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các ngành, các cấp, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và toàn xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Tăng cường tuyên truyền, phổ biến về xây dựng xã hội học tập trong nền kinh tế số, xã hội số thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông xã hội, qua hệ thống thông tin cơ sở, các cơ sở giáo dục và các phương thức khác; lồng ghép trong các hoạt động, sự kiện liên quan như: Tuần lễ hưởng ứng học tập suốt đời và Ngày Sách Việt Nam hằng năm. Vận động, khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân xây dựng, duy trì thói quen tự học, ý thức học tập suốt đời phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi cá nhân.

 

Thứ hai, nghiên cứu hoàn thiện về cơ chế, chính sách và đẩy mạnh xã hội hóa đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập: thành lập Tiểu ban chuyên trách chỉ đạo xây dựng xã hội học tập ở Trung ương; củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ phận chỉ đạo xây dựng xã hội học tập ở địa phương; khen thưởng, tôn vinh, ghi nhận các cá nhân tiêu biểu, tổ chức có nhiều đóng góp cho công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; kịp thời biểu dương những mô hình hay, phong trào hoạt động tốt về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập để lan tỏa, nhân rộng trong toàn xã hội; xây dựng và triển khai có hiệu quả chính sách thu hút nguồn lực trong và ngoài nước tham gia thúc đẩy học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập; huy động các doanh nghiệp, tổ chức tham gia hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng cho công nhân, người lao động, tham gia mở các lớp học, các cơ sở dạy nghề dành cho các đối tượng thiệt thòi, yếu thế; khuyến khích, vận động các doanh nghiệp thành lập quỹ khuyến học, khuyến tài phục vụ cho các hoạt động học tập suốt đời, hỗ trợ người lao động trong học tập, đào tạo lại và đào tạo thường xuyên.

 

Thứ ba, nghiên cứu, đề xuất trình các cấp có thẩm quyền ban hành Luật học tập suốt đời tạo hành pháp lý đồng bộ với Luật Giáo dục và các luật khác có liên quan vừa mới được ban hành trong thời gian gần đây. Rà soát, hoàn thiện quy chế kiểm tra, công nhận kết quả học tập giáo dục thường xuyên; tạo cơ chế liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo.

Đẩy mạnh và thực hiện hiệu quả chuyển đổi số trong các cơ sở giáo dục. Chú trọng nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo từ xa, xây dựng các khóa học trực tuyến mở đại chúng trong các cơ sở giáo dục đại học. Đa dạng nội dung giáo dục, đào tạo; đổi mới phương thức học tập và tăng cường sử dụng các phương tiện và công nghệ hiện đại hỗ trợ học tập, đặc biệt là các phương tiện truyền thông xã hội trong tổ chức các hoạt động giáo dục, đào tạo tại các cơ sở giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng kho học liệu mở phục vụ tự học và học tập suốt đời trên hệ sinh thái truyền hình giáo dục Việt Nam. Áp dụng các mô hình quản lý giáo dục theo hướng tiếp cận công nghệ, quản lý nhà trường theo hướng mở, kết nối, dùng chung hạ tầng công nghệ, cơ sở dữ liệu lớn.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng bắt buộc, bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Rà soát các quy định theo thẩm quyền hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế các quy định chưa thực sự tạo sự liên thông giữa các trình độ đào tạo nhằm huy động, tạo điều kiện cho các loại hình cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp tham gia giảng dạy nghề nghiệp và tham gia giảng dạy văn hóa giáo dục phổ thông góp phần thực hiện tốt, hiệu quả hình thức liên thông giữa giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên, liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo.

 

Thứ tư, nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng gắn với xóa mù chữ và dạy nghề ngắn hạn trong việc tổ chức các chương trình đào tạo, bồi dưỡng thiết thực gắn với việc phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương, chú trọng đối tượng là người mù chữ vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là phụ nữ và trẻ em gái dân tộc thiểu số. Ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số để đổi mới cách phổ biến kiến thức, giáo dục kỹ năng sống và các kỹ năng cơ bản khác cho người dân trong cộng đồng.

Tiếp tục phát động các cuộc vận động, phong trào thi đua về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập sâu và rộng hơn trong cả nước, gắn kết chặt chẽ và hiệu quả với các cuộc vận động, phong trào thi đua khác nhằm thúc đẩy việc học tập trong mọi gia đình, dòng họ, cộng đồng dân cư.

 

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực học tập suốt đời, xây dựng xã học tập thông qua việc đẩy mạnh liên kết, trao đổi, hợp tác quốc tế chuyển giao công nghệ, phát triển và khai thác tài nguyên giáo dục mở và giáo dục từ xa, trực tuyến phù hợp với điều kiện Việt Nam. Tiếp tục tổ chức thực hiện các chương trình, hoạt động hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm với các tổ chức quốc tế và các nước có nhiều kinh nghiệm về học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, đặc biệt là các nước trong cộng đồng ASEAN, các nước thành viên của Hội nghị thượng đỉnh Á – Âu (ASEM) và UNESCO. Chủ động, tích cực tham gia mạng lưới “Thành phố học tập toàn cầu” do UNESCO điều hành.

Có hướng dẫn để các cơ sở giáo dục mở rộng, tăng cường liên kết đào tạo với những cơ sở giáo dục của nước ngoài có uy tín, đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo.Có cơ chế, biện pháp tạo điều kiện vận động, khuyến khích đội ngũ trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp với hoạt động khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập./.

 

Nguyễn Xuân Thủy, Phó Vụ trưởng,

Vụ Giáo dục Thường xuyên, Bộ Giáo dục và Đào tạo

 



[1]Theo kết quả điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019 của Ủy ban Dân tộc hiện nay còn 1,98 triệu người chưa biết đọc, biết viết tiếng Việt. Các nhóm dân tộc thiểu số như Mảng, Lự, La Hủ có trên 50% dân số không biết chữ. Tỷ lệ huy động người theo học các lớp xóa mù chữ rất thấp so với số người còn mù chữ; số người tái mù chữ gia tăng đáng kể. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến năm 2020, tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 đến 60 của cả nước đạt 97,85%. Trong số đó, tỷ lệ biết chữ của người dân tộc thiểu số đạt 93,7%.

[2]Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, trang 329, Tập II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

[3]Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, V. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người, trang 136, Tập II, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

[4]Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, V. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người, trang 137, Tập II, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

[5]Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tập I, trang 232, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết