Thứ Ba, ngày 23 tháng 04 năm 2024

Xét xử trực tuyến - giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xét xử trong đại dịch toàn cầu Covid-19

Ngày phát hành: 26/08/2021 Lượt xem 2441

 

Tại Phiên họp thứ 13 của Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh việc tổ chức phiên tòa xét xử trực tuyến là xu thế tất yếu, cần thiết trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 diễn ra vũ bão trên toàn cầu (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN) 

 

1. Một số vấn đề lý luận về xét xử và xét xử trực tuyến

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[1]. Ở nước ta, từ trước đến nay, vai trò của Tòa án đối với việc áp dụng, bảo vệ pháp luật luôn luôn được đề cao[2]. Chính vì vậy, Tòa án là một trong số các cơ quan được thành lập sớm nhất[3].

Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: “1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. 2. Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. 3. Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, Tòa án có quyền: a) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; b) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp; c) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; d) Yêu cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; e) Ra quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. 4. Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng. 5. Xử lý vi phạm hành chính; xem xét đề nghị của cơ quan quản lý nhà nước và quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính liên quan đến quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo quy định của pháp luật. ... 7. Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án. 8. Bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử...”[4].

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định: “... Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”[5].

Xét xử là hoạt động phán quyết của cơ quan thay mặt Nhà nước nhằm khôi phục trật tự nếu nó bị xâm phạm, hoặc nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của công dân, của tập thể, của quốc gia và xã hội. Vì vậy, đây là một hoạt động quyền lực nhà nước đặc thù, nó không đơn thuần chỉ là dàn xếp, hòa giải, mặc dù về thực chất, dàn xếp và hòa giải cũng có mục đích như vậy và do đó, có mối liên quan khăng khít với thủ tục xét xử.

Thủ tục xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó.

Yếu tố “nhân danh quyền lực nhà nước” trong thủ tục xét xử có nghĩa rằng, đây không phải là hoạt động của cá nhân công dân, cũng không phải là hoạt động xã hội hay nghiệp đoàn. Và do đó, khi cần thiết, phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước được bảo đảm thi hành bởi sự cưỡng chế hợp pháp của Nhà nước; “xem xét, đánh giá và ra phán quyết” là những yếu tố đặc trưng của thủ tục xét xử và do đó, có thể gọi hoạt động tư pháp là thủ tục xét xử.

Trong tranh chấp hay xung đột mà Tòa án xem xét và phán quyết phải có từ hai chủ thể trở lên có vị trí độc lập đối với nhau về lợi ích, chứ không thể chỉ là sự dàn xếp cho những người khác nhau về địa vị, nhưng không có gì tranh chấp với nhau. Do đó, có thể gọi sự tranh chấp của các chủ thể khác nhau về lợi ích này là sự tranh tụng (nên còn được gọi là “tố tụng” - tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính v.v..). Bất kỳ một hoạt động nào có hàm chứa nội dung trên thì đều có thể được coi là thủ tục xét xử, dù nó thuộc lĩnh vực nào: hiến pháp, hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế, thương mại, đất đai, lao động v.v..

Vai trò và vị trí trung tâm của thủ tục xét xử được giải thích trước hết bởi tính pháp lý của nó trong toàn bộ các phương thức khác nhau mà xã hội và Nhà nước dùng để giải quyết các tranh chấp và mâu thuẫn lợi ích. Thủ tục xét xử của Tòa án là thủ tục công khai, dễ hiểu, dân chủ: sự độc lập của người xét xử (không là đại diện của bất kỳ bên nào hay của ai có liên quan về lợi ích). Thủ tục ở đây công khai, ai cũng biết và ai cũng phải làm theo như vậy. Thủ tục đó bảo đảm để các bên phản ánh hết ý kiến của mình với Tòa án một cách trực tiếp. Thủ tục đó bảo đảm sự giám sát của Viện kiểm sát, của các luật sư, của nhân dân. Toàn bộ những yếu tố đó làm cho Tòa án và thủ tục xét xử là một giá trị không gì có thể thay thế được[6].

Xét xử trực tuyến là thủ tục xét xử được tổ chức thực hiện trên hệ thống xét xử trực tuyến. Hệ thống xét xử trực tuyến là hệ thống phần mềm xét xử trực tuyến và hạ tầng công nghệ thông tin (sau đây gọi chung là hạ tầng kỹ thuật xét xử trực tuyến) cho phép quản lý và tổ chức xét xử thông qua môi trường Internet, bao gồm: phần mềm tổ chức xét xử trực tuyến; hệ thống quản lý xét xử trực tuyến; hệ thống quản lý nội dung xét xử trực tuyến.

Xét xử trực tuyến thay thế xét xử trực tiếp tại Tòa án là hình thức xét xử trực tuyến thực hiện toàn bộ nội dung phiên tòa để thay thế xét xử trực tiếp phiên tòa đó tại Tòa án.

Mục đích xét xử trực tuyến nhằm hỗ trợ hoặc thay thế xét xử trực tiếp tại Tòa án, giúp Tòa án nâng cao chất lượng xét xử và hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó; phát triển năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong thủ tục xét xử; thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Tòa án; mở rộng cơ hội tổ chức xét xử ở mọi nơi, mọi lúc.

Xét xử trực tuyến phải bảo đảm nguyên tắc: (i) Đáp ứng yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. (ii) Bảo đảm các điều kiện tối thiểu về hạ tầng kỹ thuật xét xử trực tuyến và đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu tổ chức xét xử trực tuyến. Tuân thủ các quy định hiện hành về an toàn thông tin, quy định về dữ liệu, thông tin cá nhân, sở hữu trí tuệ... theo các quy định của pháp luật.

 

2. Xét xử trực tuyến - giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác xét xử trong đại dịch toàn cầu Covid-19

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là thủ tục xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”[7] và quan điểm: “... Cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành chính. Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân. Cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai...”[8].

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra phương hướng: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp... Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự... Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa án... Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư... Nhà nước bảo đảm điều kiện vật chất cho hoạt động tư pháp phù hợp với đặc thù của từng cơ quan tư pháp và khả năng của đất nước... Từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang, hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Ưu tiên trang bị phương tiện phục vụ công tác điều tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, công tác xét xử, công tác giám định tư pháp. Khẩn trương trong một vài năm xây xong trụ sở làm việc các cơ quan tư pháp cấp huyện; nâng cấp các nhà tạm giam theo đề án đã được Chính phủ phê duyệt. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp”[9].

Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu: “Xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp; hoàn thiện cơ chế để tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp; hoàn thiện cơ chế quản lý tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất, cơ chế phân bổ ngân sách của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân các cấp”[10].

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng nhấn mạnh: “Cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên”[11].

 

3. Xét xử trực tuyến - giải pháp quan trọng thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xét xử trong đại dịch toàn cầu Covid-19

Hiến pháp năm 2013, Điều 102 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”; Điều 31 quy định: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”[12].

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Điều 2 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”[13].

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 2 quy định: “Bộ luật Tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm”; Điều 25 quy định: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”[14].

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Điều 1 quy định: “Bộ luật Tố tụng dân sự góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật”; Điều 3 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng dân sự của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự”; Điều 13 quy định: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tôn trọng Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân”; Điều 15 quy định: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa án có thể xét xử kín”[15].

Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Điều 1 quy định: “Luật Tố tụng hành chính góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi người nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; bảo đảm tính ổn định, thông suốt và hiệu lực của nền hành chính quốc gia”; Điều 4 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hành chính của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải tuân theo quy định của Luật Tố tụng hành chính”; Điều 16 quy định: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn do Luật Tố tụng hành chính quy định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai. Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án có thể xét xử kín”; Điều 18 quy định: “Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định”[16].

 

4. Một số yêu cầu đối với xét xử trực tuyến

Thứ nhất, xét xử trực tuyến bảo đảm: (i) Sự tương tác giữa những người tham gia phiên tòa, nhất là bảo đảm sự tương tác giữa những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử. (ii) Sự tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục xét xử của những người tham gia phiên tòa xét xử trực tuyến; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân... (iii) Thực hiện nhiệm vụ của pháp luật tố tụng, nhất là nhiệm vụ phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm[17]. (iv) Theo dõi và hỗ trợ những người tham gia phiên tòa, giúp họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. (v) Kiểm tra, giám sát, đánh giá được chất lượng xét xử trực tuyến. (vi) Quản lý và lưu trữ được dữ liệu về quá trình xét xử trực tuyến trên hệ thống, nhất là hồ sơ vụ án, biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, bản án, kế hoạch xét xử trực tuyến theo quy trình và thời hạn lưu giữ của Luật Lưu trữ và các văn bản quy định hiện hành.

Thứ hai, phần mềm tổ chức xét xử trực tuyến phải có chức năng tối thiểu: (i) Giúp cán bộ tư pháp thực hiện được các thủ tục tại phiên tòa đồng thời cho tất cả những người tham gia phiên tòa trong cùng một không gian xét xử thông qua kênh hình, kênh tiếng, kênh chữ (chia sẻ màn hình máy tính), chuyển tải được tài liệu xét xử trực tuyến đến những người tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật. (ii) Giúp những người tham gia phiên tòa tương tác theo thời gian thực trong cùng một không gian xét xử.

Thứ ba, hệ thống quản lý xét xử trực tuyến phải có chức năng tối thiểu: (i) Giúp cán bộ tư pháp tổ chức lưu trữ, chuyển tải tài liệu xét xử trực tuyến tới những người tham gia phiên tòa; kiểm tra, đánh giá chất lượng xét xử; theo dõi và hỗ trợ những người tham gia phiên tòa thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; tư vấn, hỗ trợ, trả lời câu hỏi và giải đáp thắc mắc của những người tham gia phiên tòa. (ii) Cho phép những người tham gia phiên tòa truy cập, khai thác tài liệu xét xử trực tuyến; thực hiện các thủ tục xét xử và kiểm tra, đánh giá chất lượng xét xử trong cùng không gian xét xử. (iii) Cho phép Tòa án quản lý hồ sơ, tài liệu xét xử trực tuyến theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ quản lý và tổ chức xét xử trực tuyến phải đáp ứng yêu cầu tối thiểu: (i) Bảo đảm yêu cầu về đường truyền Internet và thiết bị kết nối, máy tính, thiết bị đầu cuối có cấu hình phù hợp để cài đặt hệ thống phần mềm xét xử trực tuyến; bảo đảm cho những người tham gia phiên tòa truy cập, khai thác sử dụng các chức năng của hệ thống phần mềm xét xử trực tuyến để thực hiện thủ tục xét xử và kiểm tra, đánh giá chất lượng xét xử trực tuyến. (ii) Bảo đảm an toàn thông tin, các quy định về dữ liệu và bảo mật thông tin cá nhân theo quy định khi tổ chức xét xử trực tuyến.

 

TS. Đỗ Đức Hồng Hà

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội

ThS. Lê Quang Hậu

Chuyên viên chính Văn phòng Quốc hội

 

 

 [1]. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

[2]. GS,TSKH. Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội & ThS. Nguyễn Thu Trang, Khoa Luật, Đại học Kinh tế quốc dân (2014), Vai trò của hoạt động xét xử của tòa án trong quá trình phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208193, cập nhật ngày 01/9/2014.

[3]. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nước ấn định cách tổ chức các toà án và các ngạch thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

[4]. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[5]. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020”.

[6]. GS,TSKH. Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội & ThS. Nguyễn Thu Trang, Khoa Luật, Đại học Kinh tế quốc dân (2014), Vai trò của hoạt động xét xử của tòa án trong quá trình phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam, http://lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=208193, cập nhật ngày 01/9/2014.

[7]. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[8]. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[9]. Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[10]. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

[12]. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

[13]. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[14]. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[15]. Văn phòng Quốc hội (2020), Văn bản hợp nhất Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 số 08/VBHN-VPQH ngày 15 tháng 7 năm 2020 của Văn phòng Quốc hội, được sửa đổi, bổ sung bởi Bộ luật Lao động năm 2019Luật Doanh nghiệp năm 2020.

[16]. Văn phòng Quốc hội (2019), Văn bản hợp nhất Luật Tố tụng hành chính năm 2015 số 30/VBHN-VPQH ngày 16 tháng 12 năm 2019 của Văn phòng Quốc hội, được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2019.

[17]. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. (Điều 1 và Điều 2)

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết