1. Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác tổng kết thực tiễn ở các cơ quan trung ương và các địa phương
1) Các cơ quan trung ương (bao gồm các Ban của Trung ương Đảng, các Bộ, ban, ngành của các cơ quan nhà nước ở Trung ương, một số cơ quan đoàn thể ở cấp trung ương khác) và các cơ quan ở địa phương có chức năng và vai trò có những điểm giống nhau nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau trong việc tham gia xây dựng chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách, và tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Điểm giống nhau cơ bản nhất là đều có cùng mục tiêu phải hướng vào đảm bảo cho sự phát triển mọi mặt của đất nước và của mỗi địa phương. Nhưng sự khác nhau chủ yếu là các cơ quan trung ương chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc tham mưu xây dựng chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách…, chỉ đạo tổ chức thực hiện, theo dõi và “quản lý” việc thực hiện ở các ngành, địa phương; còn các địa phương là nơi chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện trên thực tế các chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách đó. Vì những lý do khách quan và chủ quan, mà các chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách đó thường có những điểm không hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của một địa phương; hơn nữa trong quá trình phát triển lại xuất hiện những nhân tố mới làm cho các chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách có thể bị “lạc hậu” so với thực tiễn. Việc xây dựng các chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách thường dựa trên những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nhất định (xác thực tới mức nào là vấn đề khác). Vì vậy mỗi bước phát triển, đổi mới đúng đắn trong chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách đều phải gắn với những bước tiến mới trong đổi mới tư duy lý luận và điều này lại chỉ có thể có được khi gắn với tổng kết thực tiễn một cách khách quan, khoa học và trung thực, chứ không phải theo con đường tư biện – giáo điều. Chính nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn – từ tổng kết thực tiễn mới góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, và đó là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện các chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói toàn bộ công cuộc Đổi mới đất nước bắt đầu từ Đại hội VI (năm 1986) của Đảng đến nay, cả những thành công có ý nghĩa lịch sử cũng như những thất bại cục bộ nào đó với các cái giá phải trả, đều gắn liền với những kết quả của “mối nhân duyên” giữa nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn “say đắm” đến mức nào, khoa học tới mức nào, thực tế tới mức nào, thành công đến mức nào. Đây vừa là yêu cầu vừa là nhiệm vụ rất quan trọng đặt ra cho các cơ quan trung ương và các địa phương. Về vấn đề này, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong một bài viết ( 5 ) đã nêu rất đúng rằng : “Mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận, xét tới cùng, là từ thực tiễn mà đúc kết, khái quát lên. Không có thực tiễn thì không có lý luận. Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ hữu cơ biện chứng, luôn luôn gắn bó với nhau và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ sở.” “Còn lý luận là cái phản ánh thực tiễn ; lý luận được thể hiện dưới dạng hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Nói cách khác, lý luận là kinh nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong ý thức của con người, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lô-gíc của các khái niệm cái lô-gíc khách quan của hiện thực mà nó phản ánh” . “Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ để kiểm chứng tính đúng đắn của lý luận. Mọi lý luận rốt cuộc đều phải đối diện với thực tiễn và được kiểm chứng trong thực tiễn. Tác dụng và sức sống của lý luận phụ thuộc vào khả năng của chính nó trong việc khái quát bản chất của hiện thực khách quan từ vô số các hiện tượng cụ thể”. Rất đáng tiếc, những chỉ dẫn trên đây đã nhiều khi không được các cơ quan trung ương và các địa phương tuân thủ nghiêm túc, sâu sắc và đầy đủ trong nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn làm cơ sở cho việc đổi mới, hoàn thiện các chủ trương, đường lối, pháp luật, chính sách phát triển đất nước. Trong không ít trường hợp thực tế bị buộc “vận hành” theo “lý luận giáo điều”, còn “lý luận” lại được khái quát theo phương thức tư biện, không phản ánh đúng bản chất của thực tiễn.
2) Chính vì vậy mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới" đã chỉ rõ: Phải tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm sáng tỏ hơn nữa nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta... Phải coi trọng tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lý luận và cả trong hoạt động của các cấp ủy đảng, coi tổng kết thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành, gắn nghiên cứu thực tiễn Việt Nam với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại.
Thực tiễn của cách mạng Việt nam, nhất là trong công cuộc Đổi mới đất nước đã chỉ rõ : Nếu không xuất phát từ thực tiễn, không tổng kết thực tiễn theo phương châm mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã chỉ ra “phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” thì chắc chắn không thể có lý luận đổi mới, không thể có đường lối đổi mới đúng đắn ; Đồng thời không xây dựng được lý luận đổi mới đúng đắn thì không thể có thực tiễn đổi mới thành công.
3) Tuy nhiên, do chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trung ương và các địa phương có khác nhau, cho nên mục tiêu của nhiệm vụ tổng kết thực tiễn của các cơ quan trung ương cũng có những nội dung khác so với mục tiêu của nhiệm vụ tổng kết thực tiễn của các địa phương. Đối với các cơ quan trung ương, mục tiêu của tổng kết thực tiễn thường là : xem xét, đánh giá các chủ trương, đường lối, chính sách được tổ chức triển khai “đi” vào cuộc sống như thế nào, kết quả ra sao, có phù hợp với thực tiễn không; từ thực tiễn để “kiểm định” lại cơ sở lý luận của các chủ trương, đường lối, chính sách; cũng từ tổng kết thực tiễn để phát hiện, tìm hiểu các nhân tố mới nảy sinh để từ đó làm rõ bản chất và cơ sở lý luận của những nhân tố này, trên cơ sở đó đề xuất việc điều chỉnh cơ chế chính sách hoặc kiến nghị sự cần thiết phải ban hành các chủ trương, chính sách mới. Đối với các cơ quan địa phương, việc tổng kết thực tiễn thường có các mục đích chủ yếu là : Đánh giá việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách cụ thể trên địa bàn, làm rõ những kết quả đạt được, những yếu kém, bất cập, nguyên nhân (trước hết trên địa bàn của địa phương); đề ra các giải pháp để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục các yếu kém bất cập trong tổ chức thực hiện; đồng thời cũng từ tổng kết thực tiễn của địa phương mà đề xuất với trung ương việc điều chỉnh (hoặc cho áp dụng có những quy định đặc thù) các chủ trương, đường lối, chính sách cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, hoặc đề xuất ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách mới theo đòi hỏi chung của cả nước.
2. Nội dung và phương thức tổng kết thực tiễn
1) Nội dung và phương thức tổng kết thực tiễn :
Nội dung và phương thức tổng kết thực tiễn của các cơ quan trung ương và các địa phương phụ thuộc nhiều vào vấn đề và yêu cầu tổng kết, có những vấn đề mang tính tổng hợp, khái quát cao, có những vấn đề cụ thể về một nội dung riêng biệt nào đó.
Đối với các cơ quan trung ương, thường có những “cấp độ” tổng kết sau :
- Tổng kết mang tính tổng hợp cả về lý luận và thực tiễn về mọi mặt phát triển đất nước trong một giai đoạn nào đó ( như tổng kết qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng và chuẩn bị chủ trương, đường lối, chiến lược cho nhiệm kỳ tiếp theo; hay như tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 10 năm, 20 năm, 30 năm Đổi mới). Đây là những tổng kết rất lớn và phức tạp, thường có ban chỉ đạo của Trung ương, huy động đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu, chuyên gia từ nhiều ban, bộ, ngành, cơ quan đơn vị; trong nhiều trường hợp có sự tham gia tổng kết của các địa phương về những nội dung liên quan.
- Tổng kết việc thực hiện một nghị quyết Trung ương (hay một luật, một nghị quyết lớn của Nhà nước, một chương trình quốc gia…) về một vấn đề lớn nào đó (thường qua 3, 5, hay 10 năm thực hiện). Đây cũng là những tổng kết quan trọng chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó. Tổng kết này thường đi vào đánh giá về nhận thức, quan điểm, chủ trương, chính sách nêu trong các nghị quyết đó được quán triệt, tổ chức thực hiện trong cả nước như thế nào, kết quả đạt được, làm rõ những yếu kém, bất cập, những vấn đề mới nảy sinh…Trên cơ sở đó đề xuất việc tiếp tục triển khai trong giai đoạn mới (có sự điều chỉnh, bổ sung, hay cần thiết phải ban hành nghị quyết mới). Việc tổng kết này cũng thường có Ban chỉ đạo liên ngành do một cơ quan chịu trách nhiệm chính chủ trì; cũng có thể huy động các cơ quan của địa phương tham gia tổng kết .
- Tổng kết chuyên đề : Đây cũng là nội dung tổng kết quan trọng của các cơ quan trung ương gắn với chức năng nhiệm vụ của mình (hoặc được cơ quan có thẩm quyền giao). Việc tổng kết chuyên đề thường được triền khai do nhu cầu thực tiễn nảy sinh (về mặt lý luận, hoặc thực tiễn) cần được làm rõ bản chất, thực chất của vấn đề, để từ đó đề xuất các chủ trương, chính sách và giải pháp cần thiết.
- Tổng kết thực tiễn là một phần nội dung trọng yếu làm cơ sở cho việc xây dựng các chủ trương, chính sách, luật pháp mới của Đảng và Nhà nước; Tổng kết thực tiễn là một phần nội dung quan trọng của nhiều đề tài nghiên cứu khoa học – công nghệ cấp nhà nước và của các bộ ngành về những nội dung liên quan nhằm làm rõ cơ sở thực tiễn (cùng với cơ sở lý luận) của những vấn đề nghiên cứu.
Đối với các địa phương, việc tổng kết thực tiễn cũng có những yêu cầu và cấp độ khác nhau; có thể khái quát ở những cấp độ sau :
- Phối hợp với các cơ quan Trung ương tổng kết những vấn đề lớn, mang tính tổng hợp về lý luận gắn với thực tiễn của địa phương theo yêu cầu của Trung ương ( như Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới; tổng kết các vấn đề chuẩn bị cho xây dựng văn kiện các Đại hội của Đảng…).
- Phối hợp với các cơ quan Trung ương tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Trong trường hợp này các địa phương sẽ tập trung tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chính sách đó trên địa bàn, đánh giá rõ việc tổ chức chỉ đạo thực hiện, các kết quả đạt được, các hạn chế, yếu kém, bất cập; làm rõ tính phù hợp và hiệu quả của những chủ trương và chính sách đối với thực tiễn của địa phương; từ đó đề xuất các kiến nghị cụ thể với Trung ương cũng như rút ra các kinh nghiệm thiết thực với địa phương trong việc chỉ đạo tổ chức thực hiện các nghị quyết, nghị định, chính sách của Trung ương trên địa bàn.
- Địa phương tự tổ chức tổng kết những vấn đề thực tiễn của địa phương (về một lĩnh vực nào đó, vấn đề nào đó, hay mô hình nào đó…) nhằm rút ra những kết luận, bài học và định hướng chỉ đạo, giải pháp thực hiện cho giai đoạn tiếp theo. Ở cấp độ này các địa phương thường tự tổ chức tổng kết; cũng nhiều khi mời các cơ quan, đợn vị ở trung ương tham gia giúp đỡ, cũng có khi “đặt hàng” đối với các cơ quan, đơn vị chuyên môn liên quan.
- Tổng kết thực tiễn trong các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học – công nghệ của địa phương theo yêu cầu cụ thể của các nhiệm vụ khoa học – công nghệ. Các nội dung tổng kết trong các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học – công nghệ này là một phần của nhiệm vụ nghiên cứu, thường có tính minh họa thực tiễn cho các nghiên cứu.
2) Tính chất và yêu cầu của việc tổng kết thực tiễn :
Việc tổng kết thực tiễn của các cơ quan Trung ương cũng như ở cấp địa phương thường có những yêu cầu và tính chất khác nhau, có thể khái quát ở ba dạng sau :
- Tổng kết chủ yếu mang tính định tính (các tổng kết này thường liên quan chủ yếu đến nhận định, đánh giá khái quát về các vấn đề tư tưởng, chính trị…).
- Tổng kết chủ yếu mang tính định lượng (các tổng kết này thường liên quan đến việc đánh giá kết quả tác động cụ thể của các cơ chế chính sách, hoặc đánh giá tiềm lực, điều kiện hiện trạng về một hay một số lĩnh vực nào đó trên một phạm vi, địa bàn cụ thể, hoặc trên phạm vi cả nước…).
- Tổng kết theo yêu cầu có sự kết hợp giữa đánh giá định tính với đánh giá định lượng (các tổng kết này thường có yêu cầu gắn lý luận với thực tiễn để làm rõ bản chất của vấn đề, làm rõ xu hướng vận động của thực tiễn).
Các tổng kết thực tiễn đều thường có yêu cầu chung cuối cùng là từ tổng kết đề xuất các kiến nghị có liên quan về nhận thức (hoặc quan điểm), cơ chế chính sách, chỉ đạo tổ chức thực hiện đối với các chủ thể liên quan. Tuy nhiên mức độ đạt được yêu cầu này có khác nhau, nhìn chung là còn nhiều hạn chế.
3. Những kết quả chủ yếu và những hạn chế, bất cập
1) Những kết quả chủ yếu : Có thể nêu khái quát những kết quả chủ yếu sau
- Về mặt nhận thức chung, ở mức độ nào đó, cả ở cấp trung ương và cấp địa phương, đều thấy tầm quan trọng và sự cần thiết phải tổng kết thực tiễn, nhằm làm rõ những vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra, hoặc về mặt lý luận đang chưa có đủ cơ sở thực tiễn để chứng minh có sức thuyết phục.
- Các vấn đề đặt ra để tổng kết thực tiễn về cơ bản đều xuất phát từ nhu cầu của công tác lãnh đạo – quản lý, bao quát tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó hai lĩnh vực được quan tâm và chiếm tỷ trọng lớn hơn cả trong công tác tổng kết thực tiễn là về kinh tế và các vấn đề xã hội.
- Những tổng kết thực tiễn, nhất là ở cấp trung ương, mang tầm quốc gia đã đóng vai trò rất quan trọng đối với quá trình đổi mới tư duy, nhận thức, quan điểm, đổi mới chủ trương, cơ chế, chính sách và các giải pháp chỉ đạo tổ chức thực hiện phù hợp, đúng đắn hơn, hiệu quả hơn; góp phần khắc phục bệnh giáo điều, quan liêu, xa rời thực tiễn… Điều này đã được chứng minh rất rõ qua những tổng kết thực tiễn lớn mà Đảng và Nhà nước chỉ đạo triển khai khi hoạch định đường lối Đổi mới toàn diện đất nước, như là về chuyển đổi thể chế kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường…Đồng thời, cũng chính từ tổng kết thực tiễn đã làm sáng tỏ hơn, nâng cao hơn, hoàn thiện hơn “tầm” tư duy lý luận và nhận thức của Đảng, Nhà nước và xã hội trong quá trình đổi mới, xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc.
- Những tổng kết thực tiễn cũng đã cho thấy rõ hơn các chủ trương, cơ chế, chính sách đã được quán triệt, tuyên truyền, phổ biến, và chỉ đạo tổ chức thực hiện như thề nào ở các địa phương; thấy rõ được các chủ trương, cơ chế, chính sách ban hành phù hợp tới mức nào với thực tiễn, qua đó rút ra được những yêu cầu điều chỉnh, bổ sung không chỉ về nhận thức, mà còn trực tiếp đối với các chủ trương, cơ chế, chính sách. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã có rất nhiều những bước đổi mới về chủ trương, cơ chế, chính sách trong các lĩnh vực là kết quả của những tổng kết thực tiễn (như về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đổi mới quan hệ sở hữu, đổi mới chính sách đầu tư, đổi mới chính sách hội nhập quốc tế…).
- Riêng đối với các địa phương việc tổng kết thực tiễn còn có ý nghĩa quan trọng là nhận rõ hơn những điều kiện, đặc điểm chung và riêng cả về môi trường tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội…của địa phương so với cả nước và các tỉnh trong khu vực. Điều này giúp cho địa phương nhìn nhận rõ hơn mức độ phù hợp của các cơ chế chính sách được trung ương ban hành chung cho cả nước đối với địa phương, để từ đó có sự cụ thể hóa cho phù hợp hoặc kiến nghị với trung ương có những điều chỉnh cần thiết; đồng thời, cũng từ tổng kết thực tiễn, các địa phương có thể ban hành các cơ chế chính sách riêng phù hợp với điều kiện của mình. Rất nhiều địa phương năng động, sáng tạo phát triển một phần rất quan trọng là do đã coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, từ đó đề xuất với trung ương hoặc ban hành các cơ chế chính sách mới theo thẩm quyền về thu hút vốn đầu tư, về cơ chế sử dụng đất, về cải cách thủ tục hành chính…,như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Quảng Ninh....
- Việc tổng kết thực tiễn cũng đã có tác dụng quan trọng đối với việc nâng cao trình độ của cả đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận – khoa học và đội ngũ cán bộ làm tham mưu xây dựng chính sách cũng như cán bộ chỉ đạo và trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách ở các cấp, góp phần khắc phục ở mức độ nhất định tình trạng quan liêu, xa rời thực tiễn, “làm lý luận và xây dựng cơ chế chính sách suông” cũng như “chỉ đạo thực tiễn chay”, máy móc, thiếu tính sáng tạo.
2) Những yếu kém, bất cập : Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng công tác tổng kết thực tiễn ở cả cấp trung ương và cấp địa phương đang bộc lộ những yếu kém, bất cập chủ yếu sau:
- Trước hết, đó là nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác tổng kết thực tiễn của các cấp, các ngành ở trung ương và các địa phương còn rất nhiều bất cập, phần nhiều dừng ở nhận thức chung chung; đang có thực trạng là không ít cán bộ ở cấp trung ương và địa phương không coi trọng đúng mức vấn đề tổng kết thực tiễn, ngược lại cũng không ít cán bộ ở các cấp lại không coi trọng đúng mức công tác nghiên cứu lý luận phải gắn với thực tiễn, điều này làm cho “cầu nối” giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn và xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách bị suy yếu nghiêm trọng, không tạo được các “kênh đối thoại” thường xuyên, liên tục và hiệu quả. Chính điều này đã làm cho trong không ít trường hợp không thấy rõ được đầy đủ cơ sở lý luận, bản chất sự vận động của thực tiễn trong quá trình hoạch định chủ trương và xây dựng cơ chế, chính sách.
- Chủ trương tổng kết thực tiễn cũng đang bộc lộ những bất cập. Tổng kết thực tiễn chưa theo kịp sự phát triển của đất nước và yêu cầu của sự lãnh đạo – quản lý ở tất cả các cấp.
Chủ trương tổng kết thực tiễn được đưa ra không ít trường hợp bị chậm so với đòi hỏi của thực tiễn, có nghĩa là khi thực tiễn đã “rơi” vào trạng thái “có vấn đề” trong sự phát triển (thường là tiêu cực, trì trệ) mới cho chủ trương đi nghiên cứu và tổng kết thực tiễn (có một cách nghĩ là khi thực tiễn đang phát triển có vẻ bình thường thì không có gì phải lo lắng, không phải nghiên cứu tổng kết thực tiễn). Điều đó dẫn đến là các kết quả nghiên cứu tổng kết thực tiễn này cùng các kiến nghị mang nhiều tính “chữa cháy”, khắc phục các yếu kém, trì trệ, sai lầm…nhiều hơn là những định hướng mang tính “dẫn dắt” quá trình phát triển một cách chủ động và sáng tạo cho trung và dài hạn. Mặt khác, có không ít tổng kết thực tiễn được triển khai sau 10 năm hay lâu hơn khi các nghị quyết hay cơ chế, chính sách được ban hành, mà trong suốt thời gian đó không có sự chỉ đạo thực hiện, theo dõi, đánh giá thường xuyên; các tổng kết này thường mang nhiều ý nghĩa “lịch sử, nhiệm kỳ” hơn là những giá trị hiện thực. Một điều đáng lưu ý là các chủ trương tổng kết thực tiễn phần lớn thường tập trung vào các lĩnh vực, các ngành, các vấn đề cụ thể (đương nhiên là đúng và cần thiết), nhưng lại ít chú trọng tới các vấn đề liên ngành, mang tính tổng hợp, đặc biệt là các vấn đề manh tính thể chế vĩ mô chung bao trùm tất cả các lĩnh vực phát triển chính trị, kinh tế, xã hội…, mà đây lại là điều tối cần thiết cho sự lãnh đạo – quản lý vĩ mô.
- Về phương pháp tổng kết thực tiễn cũng còn nhiều bất cập. Những tổng kết thực tiễn về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, nhất là trên quy mô lớn, luôn đòi hỏi những phương pháp rất khoa học. Tuy nhiên trên thực tế, từ các khái niệm, phạm trù, đến các phương pháp khảo sát, đo lường, đánh giá thực tiễn cả về định lượng và định tính, các phương pháp điều tra xã hội học…nhìn chung tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa sâu, chưa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế; các số liệu điều tra, khảo sát ở tầm quốc gia độ tin cậy và chính xác chưa cao, một ví dụ điển hình là cách tính GDP được sử dụng hàng chục năm nay là không chuẩn xác (rất nhiều người đề cập mà không thay đổi được), nay Thủ tướng mới có ý kiến chỉ đạo phải tính lại. Một điều đáng nói nữa là hiện tượng tổng kết thực tiễn nhưng “không thực tế”, tức là báo cáo tổng kết của cấp cao hơn được xây dựng dựa trên “báo cáo tổng kết” mang tính hình thức của cấp thấp hơn mà không dựa vào kết quả điều tra khảo sát trực tiếp từ thực tiễn; trong không ít trường hợp đó chủ yếu là ý kiến của các đối tượng lãnh đạo – quản lý, mà chưa chú trọng đúng mức tới ý kiến của các đối tượng chịu tác động của các cơ chế, chính sách. Quá trình “xào nấu” này đưa đến nguy cơ làm biến dạng đi bản chất thực của thực tiễn cần được nắm bắt và làm rõ.
- Tổng kết thực tiễn trong không ít trường hợp còn mang nhiều tính hình thức, tổ chức “ban bệ” hoành tráng, chia làm nhiều cấp chỉ đạo, thực hiện; nhưng nội dung và kế hoạch tổng kết lại sơ sài, xuống đến cấp cơ sở có khi chỉ còn là một vài cuộc họp, một vài cuộc phỏng vấn, một vài cuộc khảo sát quy mô nhỏ với một số đối tượng đã định sẵn. Việc đánh gía tổng hợp các tác động nhiều chiều của các chủ trương, cơ chế, chính sách còn nhiều hạn chế; ví dụ như đánh giá về các chính sách xóa đói giảm nghèo thường thiên về đánh giá tổng kinh phí chi là bao nhiêu, xây được bao nhiêu công trình cơ sở hạ tầng, hỗ trợ được bao nhiêu hộ về nhà ở, điện, nước, cây con giống, bao nhiêu hộ thoát nghèo… mà chưa đánh giá được sâu mức độ thoát nghèo bền vững như thế nào, mức độ tạo nên “cơ chế” không muốn thoát nghèo như thế nào, cơ chế chính sách nào sẽ tạo động lực – nội lực thoát nghèo bền vững…
3) Nguyên nhân của những yếu kém, bất cập : Có thể nêu lên những nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém, bất cập như sau :
- Về nhận thức : Việc coi trọng tổng kết thực tiễn ở tất cả các cấp phần nhiều mới dừng ở chủ trương chung, thiếu các quy chế, quy định mang tính pháp lý đòi hỏi phải gắn hữu cơ việc nghiên cứu lý luận, xây dựng các chủ trương, cơ chế, chính sách với tổng kết thực tiễn. Trên thực tế, các cấp, các ngành, các địa phương, các cán bộ lãnh đạo – quản lý chưa nhận thức đầy đủ, đúng mức và coi trọng thực sự vai trò của tổng kết thực tiễn, sử dụng phương thức tổng kết thực tiễn như là một công cụ quan trọng thiết yếu của mình. Ở đây có một nguyên nhân sâu sa về nhận thức không đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận, cơ chế chính sách và thực tiễn : Thường chủ quan cho rằng các nhận thức lý luận làm cơ sở cho các chủ trương, cơ chế, chính sách đã ban hành là đúng rồi, là nguyên tắc, chỉ cần “áp vào” cho thực tiễn, nếu có sai chủ yếu là do tổ chức thực hiện. Vì thế, việc tổng kết thực tiễn thường bị coi nhẹ và không được quan tâm đúng mức.
- Cũng do nhận thức còn hạn chế nên các khoa học là công cụ thiết yếu phục vụ cho nghiên cứu tổng kết thực tiễn đã không được coi trọng và quan tâm phát triển đúng mức (như các chuyên ngành xã hội học, kinh tế lượng, thống kê học, điều tra dư luận xã hội…). Các đơn vị có năng lực chuyên môn cao, mang tính chuyên nghiệp trong công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn còn ít. Đây là lý do làm cho các cuộc điều tra tổng kết thực tiễn thường có chất lượng thấp, không làm rõ được sâu và đầy đủ bản chất của vấn đề.
- Trình độ của đội ngũ chuyên gia, đội ngũ cán bộ lãnh đạo – quản lý cũng còn nhiều hạn chế, bất cập cả về phương diện lý luận – khoa học và nắm bắt thực tiễn, “chủ nghĩa kinh nghiệm” còn nặng nề; khả năng phát hiện sớm “vấn đề” còn hạn chế, thường đến khi sự việc bộc lộ nhiều mặt trái mới tiến hành tổng kết đánh giá.
- Công tác chỉ đạo và tổ chức nghiên cứu tổng kết thực tiễn còn nhiều yếu kém, mục tiêu, nhiệm vụ, quy mô và đối tượng của các cuộc tổng kết thực tiễn trong không ít trường hợp chưa được xác định đầy đủ, rõ ràng, phản ánh đúng yêu cầu của vấn đề đặt ra, cá biệt có những trường hợp còn “ngại” làm rõ hết bản chất thật của thực tiễn, của vấn đề. Phương pháp tổ chức tổng kết thực tiễn chưa đảm bảo tính khoa học cao. Phương pháp tổng kết thực tiễn nhiều khi còn “xuôi chiều”, chủ yếu mang tính kiểm điểm ưu khuyết, đánh giá không đầy đủ và sâu về các mặt trái, các xu hướng vận động của thực tiễn.
- Công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn, nhất là những vấn đề mang tính vỹ mô, thường đòi hỏi nguồn lực lớn (cả nhân lực, tài lực, vật lực), nhưng đây lại là “điểm nghẽn” lớn, trong nhiều trường hợp không được đảm bảo đủ yêu cầu cần thiết (chưa kể đến các nguyên nhân sử dụng lãng phí, tiêu cực, kém hiệu quả). Điều này làm cho không ít cuộc tổng kết rơi vào “đầu voi, đuôi chuột”, chất lượng và hiệu quả thấp.
4. Những vấn đề đặt ra và bài học
1) Những vấn đề đặt ra :
Xét về phương diện tổng kết thực tiễn, bên cạnh những yếu kém, bất cập nêu trên, có thể nêu lên những vấn đề lớn đang đặt ra như sau :
- Thứ nhất, Mối quan hệ giữa nghiên cứu lý luận với xây dựng các chủ trương, cơ chế, chính sách và với thực tiễn, tổng kết thực tiễn trong nhiều trường hợp còn có những khoảng cách (khoảng trống) không nhỏ, chưa tạo được mối quan hệ mang tính bản chất tác động qua lại với nhau thường xuyên trong suốt quá trình vận động của thực tiễn. Chính vì vậy dẫn đến có tình trạng “lý luận” nói một đằng, cơ chế, chính sách ban hành một nẻo, không đi vào cuộc sống, còn thực tiễn lại vận động theo hướng khác (có thể nêu lên ví dụ về lĩnh vực phát triển kinh tế tập thể, giữa nhận thức lý luận với các cơ chế chính sách được ban hành và thực tiễn phát triển kinh tế tập thể đang bộc lộ nhiều bất cập, thậm chí mâu thuẫn). Việc khắc phục tình trạng này là một đòi hỏi khách quan, quan trọng và cấp thiết.
- Thứ hai, Trong chuỗi mối quan hệ giữa lý luận – chủ trương, cơ chế, chính sách – thực tiễn, cần khách quan nhìn nhận rằng công tác lý luận tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng phải thừa nhận là công tác lý luận vẫn còn nhiều lạc hậu, yếu kém, chưa theo kịp sự phát triển, còn không ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn nhưng chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Rất nhiều vấn đề chúng ta vẫn chưa kết luận được rõ. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, tính phù hợp với thực tiễn của các chủ trương, cơ chế, chính sách được ban hành. Chính tình trạng này làm cho thực tiễn vận động dưới hai tác động : tác động của các cơ chế chính sách không phù hợp và tác động của các quy luật (hay xu hướng) khách quan, như vậy sự phát triển (vận động) của thực tiễn cũng bị “biến dạng”. Việc tổng kết thực tiễn trong điều kiện này đòi hỏi không chỉ trình độ cao, rất khoa học, mà còn phải rất khách quan trung thực.
- Thứ ba,Trong điều kiện cụ thể phát triển của đất nước, đi lên từ một nước trình độ phát triển còn thấp, phải đẩy nhanh – mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong sự tác động sâu sắc của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tạo nên một thực trạng phát triển đa trình độ, đa dạng, đa tầng trong mọi lĩnh vực. Điều này đòi hỏi cách tiếp cận rất khoa học – rất thực tiễn, biện chứng về mối quan hệ giữa lý luận với xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách với sự đa dạng, đa tầng, đa trình độ phát triển của thực tiễn. Phải lấy thực tiễn làm điểm xuất phát và điểm đến của nghiên cứu lý luận, xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách và chỉ đạo tổ chức thực hiện.
- Thứ tư, Đang có sự “lệch pha” nào đó (mâu thuẫn) giữa những nhận thức về những giá trị mang tính lý tưởng hóa (cho mục tiêu lâu dài) được khái quát thành những nguyên tắc, chế định thành các khung khổ pháp lý so với trình độ còn thấp của sự phát triển (ví dụ như trong Hiến pháp chế định Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng thể chế kinh tế lại là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hay nhận thức về sự phát triển của “sở hữu toàn dân” với thực tiễn phát triển của chế độ đa sở hữu trong điều kiện lực lượng sản xuất nhìn chung còn ở trình độ thấp, trình độ xã hội hóa chưa cao…). Điều này đặt ra phải có sự tiếp cận về mặt lý luận phù hợp với trình độ phát triển của thực tiễn, chứ không phải “áp đặt” thực tiễn phát triển theo khuôn mẫu của lý luận được lý tưởng hóa, giáo điều hóa.
Những vấn đề trên đòi hỏi phải được nhận thức rất khách quan, khoa học, sâu sắc về mặt phương pháp luận, về quan điểm, cách tiếp cận cả trong nghiên cứu lý luận, xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển và trong chỉ đạo tổ chức thực hiện cũng như tổng kết thực tiễn.
2) Những bài học :
Xét về giác độ tổng kết thực tiễn, có thể nêu lên một số bài học sau :
- Một là, phải thực sự coi trọng tính khách quan của thực tiễn, lấy sự phát triển của thực tiễn làm điểm xuất phát và điểm đến của nghiên cứu lý luận, của việc xây dựng và hoàn thiện các chủ trương, cơ chế, chính sách, chỉ đạo tổ chức thực hiện và tổng kết thực tiễn. Phải có tinh thần dũng cảm khoa học và cách mạng để nhìn thực tiễn như Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã nêu là “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”.
Sai lầm trong lịch sử của hệ thống các nước XHCN trước đây không coi trọng sự phát triển khách quan của thực tiễn, không căn cứ vào trình độ phát triển thực tế, đã lấy lý luận với những nguyên lý giáo điều làm cơ sở xây dựng đường lối và chính sách về quốc hữu hóa, quốc doanh hóa, tập thể hóa, công nghiệp hóa…đã đưa đến những thất bại nghiêm trọng. Đối với nước ta, cũng chính không quán triệt sâu sắc tinh thần trên mà nước ta đã lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội hết sức trầm trọng trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Đó một phần là do những nguyên nhân khách quan ; song về chủ quan là do chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện, mà căn nguyên chủ yếu của những sai lầm ấy là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, sự ấu trĩ, lạc hậu về nhận thức lý luận, xa rời thực tiễn, không coi trọng đầy đủ việc tổng kết thực tiễn (như Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ). Bài học này vẫn còn nguyên giá trị đối với hiện nay và lâu dài.
- Hai là, Về phương pháp luận tổng kết thực tiễn, không thể lấy lý luận làm tiêu chí “cứng” cho tổng kết thực tiễn; không thể lấy “tư biện” bác bỏ, đánh đổ được giáo điều. Do đó, điều cốt yếu nhất của tổng kết thực tiễn là làm rõ bản chất và cơ chế sự vận động của thực tiễn, làm rõ các yếu tố tác động thúc đẩy phát triển (hay kìm hãm, triệt tiêu sự phát triển). Phải rất coi trọng các sáng kiến, sáng tạo của nhân dân, sáng tạo từ cơ sở, vì đó chính là sức sống từ bản chất khách quan sự phát triển của cuộc sống sinh động. Phải từ tổng kết được những kinh nghiệm thực tiễn, khái quát lên thành lý luận mới có cơ sở đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức, trên cơ sở đó mà đề ra được những chủ trương, cơ chế, chính sách phù hợp với thực tiễn ở nước ta. Điều này không chỉ có ý nghĩa chung đối với cả nước, mà có ý nghĩa thiết thực đối với từng vùng, từng địa phương, từng lĩnh vực cụ thể.
- Ba là, Cần nhận thức sâu sắc mối qua hệ biện chứng giữa quá trình phát triển lý luận, xây dựng chủ trương, cơ chế chính sách phát triển với thực tiễn, tổng kết thực tiễn. Đây là quá quá trình liên tục điều chỉnh, phải lấy lấy thực tiễn làm cơ sở - làm chân Lý. Lý luận đạt tầm khoa học đích thực phải phản ánh đúng hiện thực khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định và đều mang tính lịch sử. Sự phát triển của hiện thực trong các điều kiện lịch sử thay đổi là cơ sở nền móng của sự đổi mới, bổ sung và phát triển lý luận. Không nên biến các nguyên lý lý luận thành các giáo điều khô cứng, máy móc và coi là khuôn mẫu bắt hiện thực phải vận động theo một cách duy ý chí. Căn cứ để xây dựng và phát triển lý luận, làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, cơ chế chính sách phải là thực tiễn – từ thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn. Bác Hồ đã nói : "Thực tiễn mà không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". Phải tạo được cơ chế gắn kết hữu cơ – hiệu quả các quá trình này.
- Bốn là, Quá trình phát triển năng động của thực tiễn luôn luôn là một quá trình mở, có thể “vượt qua” khuôn khổ của những nhận thức lý luận, quan điểm, nguyên tắc, khung khổ pháp lý hiện hành. Do đó, tổng kết thực tiễn phải theo quan điểm hiện thực – phát triển. Có thể nói, sự đổi mới tư duy phải trên cơ sở nâng cao trình độ lý luận – khoa học gắn hữu cơ với tổng kết thực tiễn. Thực tiễn chính là cuộc sống, gắn với số phận của mọi con người, do đó theo một nghĩa nào đó, tổng kết thực tiễn phải là một quá trình phát triển – phát huy dân chủ, nhằm phát huy cao nhất các động lực sáng tạo phát triển, đồng thời chống lại tính bảo thủ, sức ỳ của những quan niệm cũ, sai lệch, nhất là những quan niệm ấy lại gắn chặt với chủ nghĩa cá nhân và lợi ích nhóm. Phải tạo cơ chế và điều kiện xã hội thuận lợi cho quá trình đổi mới : bầu không khí dân chủ trong xã hội, nhất là dân chủ trong Đảng, trong nghiên cứu khoa học; tinh thần tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lý, tinh thần dám nghĩ dám làm. Tổng kết thực tiễn phải được coi là phương pháp căn bản để bổ xung và phát triển lý luận, tìm lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh hoặc lý luận còn chưa sáng tỏ. Đó cũng phải là cơ sở chủ yếu và quan trọng nhất để xây dựng chủ trương, cơ chế, chính sách phát triển.
- Năm là, Phải đảm bảo công tác tổng kết thực tiễn thực sự khoa học và khách quan. Muốn được như vậy, tổng kết được thực tiễn phải nắm vững những vấn đề lý luận cơ bản, có quan điểm tiếp cận thực tiễn đúng đắn, có phương pháp luận khoa học khi đánh giá thực tiễn và giải quyết các vấn đề. Bản thân những người lãnh đạo – quản lý các cấp phải nhận thức sâu sắc và đầy đủ rằng tổng kết thực tiễn là một nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong công tác lãnh đạo – quản lý của mình; không thể chỉ coi đó là nhiệm vụ của những cán bộ khoa học, cán bộ thừa hành. Phải coi trọng phát triển các ngành khoa học liên quan và làm công cụ cho tổng kết thực tiễn; nâng cao trình độ lý luận cũng như hiểu biết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo – quản lý các cấp, đồng thời phải xây dựng và phát triển được đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học – thực tiễn giỏi cùng với hệ thống các cơ quan có thể tiến hành tổng kết thực tiễn một cách chuyên sâu – chuyên nghiệp. Cần chế định cơ chế gắn kết, phối hợp hoạt động giữa các cơ quan lãnh đạo quản lý với các cơ quan nghiên cứu khoa học, giữa các cán bộ lãnh đạo quản lý – quản lý với các cán bộ lý luận. Để có đủ cơ sở tổng kết thực tiễn một cách hệ thống, nhất là theo chiều dài nhiều năm, phải xây dựng được một hệ thống các cơ sở dữ liệu quốc gia, khu vực, ngành, địa phương đầy đủ, đồng bộ, tin cậy, khách quan, trung thực, được cập nhật thường xuyên.
PGS.TS. Trần Quốc Toản