Đề tài "Xây dựng, phát triển con người Việt Nam- chủ thể của quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong giai đoạn mới" (Mã số: KX.04.23/21-25) do PGS.TS Vũ Thị Phương Hậu, Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm đã bảo vệ thành công xuất sắc. Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu của đề tài.
1. Một số vấn đề lý luận mới về xây dựng, phát triển con người
Quan niệm về xây dựng con người và phát triển con người: Được hiểu là quá trình bồi dưỡng và hình thành những giá trị cốt lõi về nhân cách - đạo đức (tâm lực), tư tưởng và tri thức (trí lực), thể lực, kỹ lực (năng lực thực hành) và lối sống (hay lối ứng xử trong đời sống xã hội) phù hợp với kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Qua đó tạo tiền đề phát triển con người toàn diện và có trách nhiệm với bản thân, gia đình và đất nước.
Những yếu tố cốt lõi trong xây dựng con người gồm: Giáo dục nhân cách –đạo đức (hình thành chuẩn mực, hành vi nhân ái, trung thực, trách nhiệm,....); xây dựng tư tưởng, lý tưởng, khát vọng, niềm tin và bản lĩnh sống (khơi dậy tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng, khát vọng vươn lên và cống hiến cho cộng đồng, xã hội); rèn luyện ý chí, thái độ và kỹ năng sống (tăng khả năng thích nghi, tự chủ, hợp tác, giải quyết vấn đề trong cuộc sống); xây dựng lối sống văn hóa và tinh thần thượng tôn pháp luật (tạo nên con người sống và làm việc có kỷ cương, văn minh, tôn trọng luật pháp và quy ước cộng đồng).
Quan niệm phát triển con người: Là trên cơ sở kết quả xây dựng con người, tạo điều kiện và cơ hội để mỗi cá nhân được khái mở (khai phóng), kết nối và phát huy tối ưu các tiềm năng, giá trị của bản thân về nhân cách - đạo đức (tâm lực), tư tưởng và tri thức (trí lực), thể lực, kỹ lực (năng lực thực hành) và lối sống trong thực tế đời sống xã hội; từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống và khả năng đóng góp vào sự phát triển chung của cộng đồng và xã hội.
Như vậy, việc phân biệt quan niệm xây dựng con người với phát triển con người chỉ có ý nghĩa tương đối, vì xây dựng tức là phát triển và ngược lại. Chúng có điểm giao thoa, nhưng mỗi quan niệm có trọng tâm và phạm vi khác nhau. Đặc trưng của phát triển con người (so với xây dựng con người) là khai phóng, kết nối và phát huy những kết quả xây dựng con người nhằm thúc đẩy, biến đổi (một cách tích cực) và cụ thể hóa những tiềm năng, giá trị của bản thân con người thành các tiêu chí, chuẩn mực, nội dung, chương trình hành động phù hợp trong thực tế cuộc sống, để “làm việc, làm người và chung sống hòa bình với mọi người” theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và UNESCO; từ đó hình thành, phát triển nhân cách bền vững cho các bước xây dựng con người tiếp theo với tư cách chủ nhân của quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Tựu trung lại, xuất phát từ cách tiếp cận lấy con người làm trung tâm của sự phát triển nhanh và bền vững, công trình này quan niệm khái quát: Xây dựng gắn với phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích, liên tục, toàn diện giúp con người cải thiện, nâng cao và phát huy tối ưu tiềm năng, giá trị của bản thân về tri thức, phẩm chất, năng lực, kỹ năng và sức khỏe thể chất, tinh thần, để đóng góp chủ động tích cực cho cộng đồng và xã hội phù hợp với thực tế cuộc sống nhằm làm việc, làm người và chung sống hòa bình với mọi người trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Mục đích cụ thể là thúc đẩy con người cải thiện, nâng cao năng lực, phẩm chất, kỹ năng, kiến thức và sức khỏe, để mở rộng và nâng cao quyền được lựa chọn một cách tự do nhằm “phát triển toàn diện con người Việt Nam về đạo đức, trí tuệ năng lực sáng tạo, thẩm mỹ, thể lực, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn với xây dựng, hoàn thiện phẩm chất nhân cách con người Việt Nam”.[1]Qua đó thỏa mãn và bảo vệ nhu cầu hiện tại nhưng không gây tổn hại tới sự thỏa mãn nhu cầu của thế hệ tương lai một cách công bằng, bằng cách kết nối hợp lý, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển dân số, xã hội, văn hóa và xây dựng, bảo vệ môi trường lành mạnh, văn minh, nhằm đạt được cuộc sống khỏe mạnh, thịnh vượng, sáng tạo, hạnh phúc và trường tồn của con người và dân tộc Việt Nam.
2. Cách tiếp cận nghiên cứu xây dựng, phát triển con người Việt Nam với tư cách là sản phẩm, chủ thể, động lực và trung tâm của quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững
(1) Tiếp cận con người là sản phẩm của quan hệ xã hội đồng thời là chủ thể sáng tạo lịch sử : Cả hai phương diện tiếp cận này đều gắn liền với quá trình giải phóng và phát triển con người toàn diện. Ưu điểm của tiếp cận này là làm rõ một cách nhìn biện chứng về tính chất, vai trò của con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của quá trình phát triển. Nhược điểm của nó là chỉ dừng ở mức khái quát hóa, trừu tượng hóa mà không đi sâu vào việc đo lường đánh giá năng lực con người.
(2) Tiếp cận năng lực hay động lực con người (capability approach): Là một cách tiếp cận phổ biến trong nghiên cứu về con người nhằm tìm hiểu các năng lực hay động lực cơ bản và nâng cao của con người trong mối quan hệ với quyền lực, tầng lớp xã hội và phân phối tài nguyên trong xã hội. Ưu điểm của tiếp cận này là tập trung vào khả năng nhân biết, sử dụng năng lực hay động lực của con người nhằm thực hiện các mục tiêu trong cuộc sống. Nó giúp đo lường và đánh giá nguồn năng lực hay động lực của con người một cách khách quan hơn; giúp cho các quyết định chính sách có thể đưa ra những giải pháp phù hợp hơn cho việc cải thiện phát triển năng lực hay động lực con người và con người nói chung. Nhưng nhược điểm của nó là gặp khó khăn trong việc đo lường và so sánh giữa các năng lực hay động lực khác nhau, và việc đánh giá năng lực hay động lực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau (địa lý, văn hóa, chế độ xã hội và thời đại).
(3) Tiếp cận dân chủ (participatory approach): Thường tập trung xem xét các yếu tố chính trị - xã hội trong việc con người tham gia vào các công việc của Nhà nước và của hệ thống chính trị - xã hội có quan hệ với việc phát triển con người. Ưu điểm của tiếp cận này là nhấn mạnh tác động của các yếu tố con người là chủ - làm chủ để “dựa vào dân” nhằm đạt được mối quan hệ đó. Nói cách khác, việc “lấy con làm trung tâm” là tất yếu, nhưng nếu con người không được bảo đảm quyền dân chủ (là chủ- làm chủ) của mình, và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân thì không thể “lấy dân làm gốc”, không thể phát huy được năng lực hay động lực (sức dân) và xây dựng được con người phát triển toàn diện. Hạn chế của nó, nhất là ở các nước đang phát triển, thường chủ yếu thấy vai trò của dân chủ chính trị - xã hội (tham gia vào đời sống chính trị, nhà nước), mà không thấy hết được vai trò của dân chủ xã hội (quan hệ nhân văn, bình đẳng, công bằng, không gia trưởng, không độc đoán, không chuyên quyền, có trách nhiệm cộng đồng) trong quan hệ và đời sống thường nhật của con người ngay trong đời sống cộng đồng, vốn là nền tảng, môi trường kiến tạo và bảo đảm dân chủ chính trị - xã hội đối với phát triển con người toàn diện.
(4) Tiếp cận giá trị (value-based approach): Cách tiếp cận này thường tập trung chủ yếu vào xem xét sự tác động của các hệ giá tri quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và hệ chuẩn mực con người đối với sự khai thác, phát triển, phát huy các năng lực hay động lực của con người cũng như sử dụng một cách hài hòa các quan hệ truyền thống và hiện đại trong phát triển con người toàn diện. Hạn chế của nó là trong phát triển con người, không phải lúc nào và cũng không cần thiết phải bóc tách từng loại hệ giá trị quốc gia và hệ chuẩn mực con người. Yếu tố nhân văn là không thể thiếu đối với sự phát triển con người trước sự lên ngôi của công nghệ số như hiện này, nhưng yếu tố nhân văn vẫn không thể thiếu sự bổ trợ thiết yếu của các yếu tố công nghệ và kinh tế.
(5) Tiếp cận dựa trên quyền con người (rights-based approach): Phương pháp tiếp cận này là sự thừa nhận mối quan hệ gắn bó, tác động và củng cố lẫn nhau giữa quyền, nghĩa vụ của con người và phát triển con người. Nhược điểm của nó là các nước phương Tây và cả LHQ, thường chỉ xem xét quyền còn nghĩa vụ thì ẩn sau quyền; không chú trọng đúng mức tính đặc thù và thường nhân danh nhân quyền phổ quát để can thiệp vào vấn đề nhân quyền của các dân tộc, quốc gia.
(6) Tiếp cận phát triển con người (human development approach): Ưu điểm là tập trung vào các chỉ số phát triển con người như hy vọng sống, trình độ giáo dục, tuổi thọ,... nhằm giúp đánh giá hiệu quả các chính sách phát triển con người. Nhược điểm của nó là chỉ tập trung vào những chỉ số phát triển cụ thể, mà bỏ qua các khía cạnh tất yếu khác trong phát triển con người toàn diện, như con người là sản phẩm đồng thời là chủ thể lịch sử của xã hội, năng lực hay động lực và là trung tâm phát triển xã hội, cũng như quyền lợi, nghĩa vụ và giá trị của con người.
(7) Tiếp cận lấy con người làm trung tâm: Con người là chủ thể của quá trình phát triển, nên phải tiếp cận con người là trung tâm, là thước đo của xây dựng, phát triển con người và của xã hội nói chung. Nhược điểm của nó là chỉ tập trung vào tư cách chủ thể mà coi nhẹ tiếp cận tư cách sản phẩm các quan hệ xã hội ở con người. Do vậy không nhận thức đầy đủ, đúng đắn năng lực và giới hạn của bản thân con người trong xây dựng, phát triển con người và xã hội.
Tựu chung, cái mới cốt lõi của đề tài này là tiếp cận xây dựng, phát triển con người toàn diện, từ con người là sản phẩm đồng thời là chủ thể lịch sử xã hội, con người là động lực và là trung tâm phát triển xã hội, đến quyền, nghĩa vụ và giá trị của con người trong phát triển bản thân và xã hội. Do vậy, để thực hiện đầy đủ, đúng đắn mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài này cần phải sử dụng tiếp cận liên ngành nhằm tiếp cận toàn diện và bao trùm theo chiều lịch đại (chiều dọc) và theo chiều đồng đại (chiều ngang) đối với chủ đề phức hợp của đề tài này. Theo chiều lịch đại, cần chú ý nghiên cứu quá trình xây dựng, phát triển con người trong gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó cần coi trọng vai trò của gia đình - tế bào tự nhiên cơ bản của xã hội, và nhà trường là trung tâm giáo dục, bồi dưỡng nhân cách con người. Tiếp cận theo chiều đồng đại chú trọng tầm nhìn bao quát các mối quan hệ đồng đại trong xây dựng con người, nhằm đảm bảo cho mọi người đều được phát triển bình đẳng, phát huy tối ưu vai trò của mình với tư cách là chủ thể phát triển bền vững của bản thân và đất nước, để không bỏ lại ai ở phía sau, dù thuộc bất cứ giai tầng xã hội nào, lĩnh vực xã hội nào. Do đó cần phải sử dụng các phương pháp định tính, định lượng kết hợp với các phương pháp thống kê và khảo sát, phân tích dữ liệu để đánh giá mối quan hệ giữa các yếu tố xây dựng và phát triển con người trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững.
3. Kết nối việc xây dựng, triển khai, thực hiện chủ trương, chính sách và nội dung xây dựng, phát triển con người toàn diện
(1) Kết nối xây dựng con người với phát triển con người toàn diện: Xây dựng con người là nền tảng, là bước đầu định tính, định hướng, định hình các giá trị con người; còn phát triển con người là quá trình nâng cao, mở rộng, làm cho các tiềm năng, giá trị con người được khai phóng, kết nối và phát triển một cách toàn diện, đặc biệt biến tiềm năng, giá trị con người về nhân cách - đạo đức (tâm lực), tư tưởng và tri thức (trí lực), thể lực, kỹ lực (năng lực thực hành) và lối sống thành tiêu chí, chuẩn mực, nội dung, chương trình hành động trong thực tế quan hệ và hoạt động xã hội của đời sống xã hội.
(2) Các chính sách về xây dựng và phát triển con người toàn diện gồm: (i) Về dân số, gia đình, kế hoạch hóa gia đình, hôn nhân, sinh sản, chăm sóc trẻ em, người già, tang ma; (ii) Về lao động, việc làm, sản xuất, kinh doanh, xóa đói giảm nghèo, khởi nghiệp, tiền lương, thu nhập; (iii) Về dinh dưỡng, chăm sóc, nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần, phòng, chữa bệnh và nâng cao tuổi thọ; (iv) Về văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch, vui chơi, giải trí; (v) Về bảo đảm (tôn trọng, bảo vệ, thực thi, thúc đẩy) an ninh con người, an toàn xã hội; (vi) Về bảo đảm quyền phát triển nói riêng, và quyền công dân, quyền con người nói chung.
(3) Nội dung xây dựng và phát triển con người toàn diện gồm: (i) Nhận thức về xây dựng, phát triển con người; (ii) Giáo dục phẩm chất và đạo đức con người; (iii) Phát triển trí tuệ, năng lực sáng tạo; (iv) Phát triển dân số và thể chất và tinh thần; (v) Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực và bảo đảm đảm lao động, việc làm; (vi) Xây dựng, phát triển kỹ năng công dân toàn cầu và kỹ năng số; (vii) Bảo đảm thu nhập và mức sống; (viii) Bảo đảm môi trường cho an ninh con người và tiến bộ, công bằng xã hội.
(4) Xây dựng và phát triển vai trò chủ thể con người trong phát triển đất nước nhanh, bền vững, gồm: (i) Xây dựng, phát triển người lao động - nhân tố động lực tích cực của lực lượng sản xuất xã hội, đóng vai trò trực tiếp và quyết định quá trình phát triển của đất nước nhanh, bền vững. (ii) Xây dựng, phát triển chủ thể quyết định việc phát triển đời sống tinh thần của đất nước, mà cơ bản là khai thác, phát huy hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và hệ chuẩn mực con người Việt Nam; trong đó cần coi trọng xây dựng, thực hiện hệ giá trị gia đình và hệ chuẩn mực con người để khai thác, phát huy hệ giá trị quốc gia và hệ giá trị văn hóa. (iii) Xây dựng, phát triển các chủ thể chủ chốt trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững, gồm: Cán bộ lãnh đạo và quản lý, trí thức và doanh nhân. (iv) Xây dựng, phát triển chủ thể quyết định việc bảo vệ vững chắc độc lập, tự do, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trên cơ sở phát triển nhanh, bền vững. (v) Xây dựng, phát triển Đảng trong sạch, vững mạnh, toàn diện - là chủ thể quyết định việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và định hướng phát triển trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI.
(5) Quan điểm, định hướng, giải pháp đồng bộ nhằm xây dựng gắn với phát triển con người toàn diện: Quan điểm là: (1) Đẩy mạnh phát triển đất nước nhanh, bền vững gắn với bao trùm để bảo đảm quyền phát triển; (2) Đổi mới phương thức xây dựng gắn với phát triển con người toàn diện; (3) Bảo đảm kết nối các quyền dân sinh - dân chủ - dân tộc quốc gia để phát triển đất nước nhanh, bền vững, bao trùm gắn xây dựng với phát triển con người toàn diện.
Định hướng là: (1) Dựa vào giá trị văn hóa, con người Việt Nam để phát huy sức mạnh nội sinh trong xây dựng gắn với phát triển con người toàn diện; (2) Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nội dung xây dựng gắn với phát triển con người nhằm triển khai xây dựng, thực thi “Chiến lược phát triển con người Việt Nam bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI” gắn với xây dựng, thực thi “Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam” và tiếp tục thực hiện “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030”; (3) Đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển công dân toàn cầu để nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo và hội nhập quốc tế của con người Việt Nam.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn (quan niệm về xây dựng và phát triển, thực trạng, quan điểm, định hướng), các giải pháp đẩy mạnh xây dựng gắn với phát triển con người gồm: (1) Xây dựng, thực hiện thể chế, chính sách phát triển nhanh, bền vững gắn với bao trùm nhằm bảo đảm an sinh xã hội, tiến bộ và công bằng xã hội; (2) Phát triển dân số bền vững gắn với coi trọng việc chăm lo phát triển, bảo vệ sức khỏe thể chất, tinh thần cho người dân; (3) Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; (4) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trình độ cao; (5) Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài; (6) Tăng cường kết hợp vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong xây dựng gắn với phát triển con người; (7) Xây dựng môi trường xã hội bảo đảm quyền phát triển và an ninh con người để xây dựng gắn với phát triển con người toàn diện; (8) Tăng cường vai trò lãnh đạo hiệu lực, hiệu quả của Đảng, sự điều hành của Nhà nước nhằm bảo đảm xây dựng gắn với phát triển con người toàn diện.
(6) Điều kiện bảo đảm thúc đẩy xây dựng và phát triển con người toàn diện: (i) Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. (ii) Bảo đảm môi trường chính trị - pháp lý ổn định (một cách năng động) để giữ vững niềm tin của người dân vào cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” phù hợp với thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN ngày nay. (iii) Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo để thực hiện giáo dục toàn dân, toàn diện; tự học, học suốt đời; học đi đôi với hành và lý luận gắn với thực tiễn; kết hợp nâng cao dân trí với đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. (iv) Tiếp tục xây dựng nến văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn với xây dựng, phát triển con người phát triển toàn diện, trong cả văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội. (v) Bồi dưỡng, phát triển toàn diện con người để con người có khả năng phát hiện, khai thác, phát huy tiềm năng, và sử dụng tối ưu năng lực bản thân nhằm phát triển đất nước nhanh, bền vững đồng thời có năng lực chủ động, tích cực bảo vệ bản thân và cộng đồng. Đặc biệt phải coi trọng nâng cao chất lượng dân số, sức khỏe người dân cả về thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, tái sản sinh bền vững giới tính và các thế hệ người cũng như chất lượng cuộc sống theo các chỉ số HDI; đồng thời bảo đảm an toàn, an ninh con người để con người, đặc biệt những người yếu thế, yên tâm, không lo sợ, trước những thách thức lớn đột xuất trong cuộc sống hoặc trước những biến cố lớn của cộng đồng, của đất nước.
4. Một số kiến nghị
(1) về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức xây dựng, phát triển con người Việt Nam – chủ thể của trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong giai đoạn mới
Thứ nhất, kiến nghị về xây dựng, triển khai, thực thi “Chiến lược phát triển con người Việt Nam bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI” gắn với xây dựng, thực thi “Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam” và tiếp tục thực hiện “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030”: Hiện nay, Đảng chưa có nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển con người, mặc dù tất cả các nghị quyết đều đề cập đến con người, cá nhân, gia đình, nhà trường, xã hội. Do con người là chủ thể trung tâm của xã hội, nên cần có một quyết định của Chính phủ (hay một nghị quyết chuyên đề của Ban CHTW Đảng): Về “Chiến lược phát triển con người Việt Nam bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI” gắn với xây dựng, thực thi “Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam” và tiếp tục thực hiện “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030” được xây dựng, hoàn thiện trên cơ sở Nghị quyết của Đảng về công tác dân số trong tình hình mới (Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2017) và Chiến lược phát triển dân số đến 2030 của Chính phủ (2019) với mục tiêu bảo đảm vững chắc tổng tỷ suất sinh thay thế (2,1 con);
về “ Chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam” và tiếp tục thực hiện “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030”. Các Chiến lược này có tính kết nối với nhau trong nội dung và cách thức triển khai, thực hiện trên thực tế; trong đó không thể thiếu định hướng, nội dung, yêu cầu chung về bảo đảm tái sản sinh một cách hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả bền vững con người và dân số Việt Nam, và các hệ giá trị quốc gia, văn hóa cũng như hệ chuẩn mực con người Việt Nam.
Thứ hai, kiến nghị tiếp cận toàn diện về chỉ số phát triển con người (HDI), nhằm khắc phục quan niệm coi phát triển con người chỉ đơn thuần về tăng thu nhập bình quân trên đầu người.
Hiện nay, việc đo lường phát triển con người ở Việt Nam vẫn sử dụng chỉ số HDI của LHQ. HDI là một thước đo gồm các tiêu chí: Sức khỏe (LEI) - Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình; Tri thức (EI) - được đo bằng số năm đi học bình quân (MYSI) và số năm đi học kỳ vọng (EYSI); Thu nhập: Mức sống – được đo bằng GNI bình quân đầu người; và thước đo mới cho HDI bằng cách đo lường thêm lượng phát thải CO2 và mức tiêu thụ nguyên vật liệu trên đầu người (theo Báo cáo UNDP năm 2020). Tuy vậy chỉ số này còn thiếu hụt một số tiêu chí: Sự tham gia của con người vào đời sống xã hội; sự tiếp cận các dịch vụ viễn thông (ICT), mà việc tiếp cận các dịch vụ viễn thông đã trở nên cực kỳ quan trọng trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tự hiện nay; hay thiếu hụt tiêu chí về sự an toàn, an ninh xã hội, văn hóa và môi trường. Cho nên cần bổ sung các tiêu chí còn thiếu hụt vừa nêu. Việt Nam cũng có thể tham khảo bộ chỉ số xây dựng và phát triển con người theo vùng của EU. Việc tham khảo chỉ số của EU không phải là không có tính khả thi khi mà Đảng đã có nghị quyết về phát triển các vùng ở Việt Nam; việc lồng ghép phát triển con người trong phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng ở các vùng, không đối lập mà còn bổ sung cho nhau.
(2) Về xác định và triển khai chuẩn mực con người Việt Nam
Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (12/2024) xác định hệ chuẩn mực con người Việt Nam gồm 8 chuẩn mực: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo[2]. Kiến nghị thêm chuẩn mực thứ 9 là dân chủ để thống nhất với giá trị dân chủ được nêu trong hệ giá trị quốc gia và hệ giá trị văn hóa[3]; và có thể xếp trước các chuẩn mực trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo để thành: Yêu nước, đoàn kết, nghĩa tình, tự cường, trung thực, dân chủ, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.
Hệ chuẩn mực con người mới là kết quả tổng hợp của 3 hệ giá trị quốc gia, văn hóa và gia đình; đồng thời con người với tư cách là chủ thể cũng tạo ra 3 giá trị này. Hệ chuẩn mực này là sự kết hợp những giá trị truyền thống (đang hiện hành) kết nối với những giá trị mới hình thành trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI. Việc cụ thể hóa hệ chuẩn mực con người Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI theo hướng tổng hợp về nhân cách (tâm lực), tri thức (trí lực), thể lực và kỹ lực (năng lực thực hành), gồm: (i) Nhân cách, đạo đức, lối sống; trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân, đề cao dân chủ gắn với ý thức thượng tôn pháp luật; ý thức dân tộc, khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. (ii) Kỹ năng hay năng lực thực hành đổi mới, sáng tạo, tự chủ, làm chủ, vượt qua thách thức theo tinh thần “7 giám”: Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung.[4] (iii) Tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thức tư. (iv) Năng lực thực hành sáng tạo, hiệu lực, hiệu quả. (v) Kỹ năng sống, liên kết, hợp tác, hoạt động cộng đồng để phát hiện tiềm năng và sự dụng tối ưu năng lực bản thân nhằm phát triển toàn diện con người gắn với bảo vệ con người và cộng đồng, đất nước. (vi) Khả năng sống, làm việc trong môi trường quốc tế. (vii) Tích cực làm gương, nêu gương, noi gương và tích cực đấu tranh với cái xấu, cái ác trong xã hội.
(3) Về các chủ thể chủ chốt trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững
Thứ nhất, đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài và cơ chế đánh giá cán bộ. Kiến nghị: (i) Mở rộng việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng trong hệ thống chính trị. (ii) Thực hiện nghiêm việc cán bộ trình bày đề án trước khi bổ nhiệm, có kế hoạch kiểm tra định kỳ việc thực hiện đề án của cán bộ khi bổ nhiệm. (iii) Thí điểm chủ trương người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu với cấp có thẩm quyền để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình. (iv) Bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên ban thường vụ và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định đó. (v) Trong quá trình cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước hiện nay, cùng với việc tiến hành sàng lọc, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, cần thúc đẩy bảo đảm quyền khởi nghiệp của đội ngũ cán bộ , công chức, viên chức (và cả người lao động, lực lượng vũ trang) thuộc diện tinh gọn bộ máy nhà nước.
Thứ hai, đối với đội ngũ trí thức.
Trong thời kỳ đổi mới đã khắc phục được quan niệm coi trí thức là tầng lớp tiểu tư sản, trung gian, bấp bênh, mâu thuẫn. Đặc trưng lao động của đội ngũ trí thức là sản xuất, truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học, đặc biệt góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất công nghiệp bán dẫn của thế giới. Kiến nghị: Dựa vào hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và hệ chuẩn mực của con người Việt Nam, có thể đề xuất 10 chuẩn mực cốt lõi, cơ bản của đội ngũ trí thức là: Yêu nước, đoàn kết, nghĩa tình, hiếu học, tự cường, trung thực, dân chủ, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. (Như vậy, so với 9 chuẩn mực đối với các giai tầng xã hội khác – đã nêu ở trên, đội ngũ trí thức thêm chuẩn mực: Hiếu học).
Thứ ba, đối với đội ngũ doanh nhân.
Ở Việt Nam hiện nay, cũng như đội ngũ trí thức, doanh nhân xuất thân từ nhiều giai tầng xã hội, nên là một đội ngũ, chứ không phải là một giai cấp hay tầng lớp xã hội. Kiến nghị: (i) Trau dồi bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp và văn hóa, đạo đức người kinh doanh; hoạt động sản xuất, kinh doanh tuân thủ đúng pháp luật, quy định của Nhà nước. (ii) Thể hiện mạnh mẽ vai trò xung kích đi đầu trên mặt trận phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường kết nối, nâng cao trình độ quan trị doanh nghiệp, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, chuyển đổi số quốc gia, chống biến đổi khí hậu; đặc biệt góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm tài chính của khu vực và thế giới. (iii) Tận dụng sự phục hội mạnh mẽ thị trường trong nước, đồng thời mở rộng tìm kiếm thị trường quốc tế. (d) Chủ động đổi mới mô hình sản xuất, kinh doanh, tái cấu trúc doanh nghiệp gắn với phát triển theo kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, không ngừng đổi mới, sáng tạo, xây dựng và nâng cao thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân, nâng cao năng lực cạnh tranh; (iv) Bảo đảm đầy đủ quyền lợi cho người lao động, đầu tư cho ứng dụng khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; (v) Trên cơ sở ý kiến của Tổng bí thư Tô Lâm cần quán triệt và triển khai, thực hiện nghiêm túc các giải pháp lớn nhằm thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, năng động khu vực doanh nghiệp, gồm cả doanh nghiệp tư nhân.[5] (vi) Tiếp tục thể hiện trách nhiệm xã hội, tích cực tham gia các chương trình xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
PV (Nguồn: Theo Báo cáo chắt lọc kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.23/21-25)
[1] Đảng CSVN: Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở - Lưu hành nội bộ), Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 12/ 2024, tr.25.
[2] Đảng CSVN: Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIV của Đảng…,Tlđd, tr.25.
[3] Đảng CSVN: Dự thảo các văn kiện trình đại hội XIV của Đảng…,Tlđd, tr.25.
[4] Xem: Bài phát biểu của nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020-2025, đã nhấn mạnh về công tác cán bộ và chú trọng xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”.