Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội

Ngày phát hành: 16/04/2019 Lượt xem 20120

 

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng về chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội trong 30 năm "đổi mới" chính là quá trình phát triển nhận thức ngày càng sâu sắc và rõ nét hơn về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội mà trực tiếp là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và xây dựng chính sách xã hội dựa trên cách tiếp cận về quyền con người.

1.1. Nhận thức về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội

Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, từ nhận thức đúng đắn tính thống nhất và mâu thuẫn trong quá phát triển kinh tế và phát triển xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương đúng đắn để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội. Đảng luôn chủ trương phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; coi hai mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tăng trưởng kinh tế là cơ sở, làm tiền đề và điều kiện cho thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, ngược lại, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.

Giai đoạn trước 2011:

Giai đoạn 1991-1995, định hướng gắn kết tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện trong Cương lĩnh năm 1991. Các định hướng chính sách lớn trong giai đoạn 1991-1995 tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển các thành phần kinh tế, hình thành các thị trường nhân tố sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế thị trường. Chính sách xã hội bắt đầu tập trung vào giải quyết những vấn đề cơ bản nhất, đó là cải cách và đổi mới chính sách tiền lương cho phù hợp khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, trong đó có chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và chăm sóc sức khỏe cho cả đối tượng ngoài khu vực nhà nước. Văn kiện Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế”[1]. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được Đảng xác định một cách rõ ràng hơn: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”[2].

Giai đoạn 1996-2000, bên cạnh tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao với mục tiêu tăng trưởng cao hơn giai đoạn trước (GDP tăng từ 9%-10% hàng năm), quan điểm về phát triển xã hội nhấn mạnh thêm vấn đề tạo việc làm, giảm thất nghiệp và xóa đói giảm nghèo. Định hướng chính sách nhằm tăng gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội đã cụ thể hơn. Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng nêu: “Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội.”[3]

Giai đoạn 2001-2005, quan điểm của Đảng về tăng trưởng có sự thay đổi rõ nét, đó là tăng trưởng nhanh, nhưng bền vững. Mục tiêu về tốc độ tăng GDP khoảng 7,5% hàng năm; đồng thời cần chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc tiếp tục thực hiện công bằng xã hội thể hiện qua quan điểm chính là tạo chuyển biến mạnh về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người, tạo việc làm và cơ bản xóa đói giảm nghèo. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[4].

Giai đoạn 2006-2010, Đảng ta chủ trương thực hiện các định hướng chính sách lớn theo hướng kết hợp giải quyết các vấn đề xã hội thông qua chính sách kinh tế. Đại hội lần thứ X, Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khi coi đây là một trong những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội Đảng nêu: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”[5].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Giai đoạn 2011-2016, Đảng khẳng định rằng, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là hai mục tiêu song trùng của sự phát triển xã hội; mục đích tối cao của tăng trưởng kinh tế là nhằm phát triển con người; mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, là để giải phóng những giá trị văn hóa tích cực nhất của loài người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; mặt khác, tăng trưởng kinh tế đồng thời giúp con người có nhiều cơ hội, khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa, đưa xã hội tiến lên những nấc thang mới trong lịch sử nhân loại. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần”. Trực tiếp hơn, việc cụ thể hóa những quan điểm nhận thức lớn vào giải quyết các vấn đề xã hội thuộc Ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Hội nghị Trung ương Năm (Khóa XI) về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, đã nhấn mạnh: (1) Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; (2) Chính sách ưu đãi người có công và an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội và khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; (3) Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng; (4) Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia. Đồng thời tạo điều kiện để người dân nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh.

Văn kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Mọi người dân đều có cơ hội và điều kiện phát triển toàn diện[6]. Quan điểm công bằng đã được mở rộng ra không chỉ công bằng về lợi ích vật chất mà còn hướng đến công bằng về cơ hội.

Sự gắn kết tư duy kinh tế và tư duy phát triển xã hội góp phần đổi mới vai trò của nhà nước trong quản lý xã hội. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII đã thể hiện rõ các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về phương thức quản lý phát triển xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó tách biệt rõ mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sở hữu-quan hệ phân phối và quan hệ lao động. Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, vai trò quản lý nhà nước cũng đã có sự thay đổi cơ bản:

(i) Chuyển từ các chính sách can thiệp trực tiếp sang xây dựng khung khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người cùng tham gia, phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội;

(ii) Kiểm soát chặt chẽ và giảm thiểu tác động tiêu cực của cơ chế thị trường dẫn đến bất bình đẳng trong tiếp cận cơ hội và hưởng lợi các thành quả của tăng trưởng;

(iii) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp quản lý phát triển xã hội;

(iv) Đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực, hình thành các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức, hiệp hội để hỗ trợ các nhóm yếu thế dễ bị tổn thương, huy động sức mạnh của cộng đồng, gia đình, bản thân đối tượng và hệ thống tổ chức xã hội, nhân đạo từ thiện để hỗ trợ chăm sóc các đối tượng xã hội ngày càng thiết thực và hiệu quả hơn;

(v) Xây dựng cơ chế để cho người dân tham gia quản lý xã hội.

1.2. Chính sách xã hội ngày càng gắn với đảm bảo các quyền cơ bản của người dân

Từ những văn kiện đầu tiên, Đảng xác định rõ mục tiêu cơ bản và lâu dài của cách mạng là bảo đảm quyền con người cho người dân Việt Nam. 

Giai đoạn trước 2011:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) khẳng định mục tiêu “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” đồng thời “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.

Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII khẳng định quan điểm của Đảng ta về quyền con người được thể hiện một cách tập trung và toàn diện, trong đó quyền con người được nhìn nhận là giá trị chung của nhân loại, là kết quả cuộc đấu tranh lâu dài của loài người; xem xét vấn đề này không thể tách rời phạm trù quyền dân tộc, chủ quyền quốc gia, cũng như truyền thống văn hóa, lịch sử và trình độ phát triển của dân tộc. Do đó, giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Mặt khác, quyền không tách rời nghĩa vụ; dân chủ phải đi đôi với kỷ cương. Với cách hiểu cơ bản về quyền con người như vậy, Đảng ta khẳng định: “quyền con người là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội”. Và quan trọng hơn cả, vấn đề quyền con người xuất phát từ chính mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ và bao quát rộng rãi nhiều lĩnh vực. Vì vậy, bảo vệ và phát huy quyền con người là trách nhiệm chung mà tất cả các cấp, các ngành và địa phương phải tích cực, chủ động thực hiện.

Đại hội X của Đảng tiếp tục vạch ra đường lối phát huy dân chủ, khẳng định “dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đồng thời nhấn mạnh việc “xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân”[7]. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung và nhiệm vụ bảo đảm quyền cho người dân nói riêng, Đảng ta nhìn nhận việc duy trì và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa chiến lược. Đồng thời, đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ của toàn dân tộc và toàn bộ hệ thống chính trị. Đảng xác định cần lấy mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” làm điểm tương đồng để gắn bó các dân tộc, tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, xóa bỏ định kiến, xây dựng tinh thần khoan dung, cởi mở và tin cậy lẫn nhau.

 

Đoàn cán bộ Hội đồng Lý luận Trung ương thăm một mô hình trồng cây ăn quả ở xã Hồng Thái-Na Hang-Tuyên Quang

 

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Tại Đại hội XII, Đảng đã bổ sung, phát triển nhiều quan điểm mới về xây dựng, phát triển con người. Những quan điểm này không chỉ là sự bổ sung về mặt lý luận, mà còn được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp, định hướng cụ thể trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Trong 6 nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Nghị quyết Đại hội XII có 3 nhiệm vụ liên quan đến phát triển con người. Đó là: “Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế” (nhiệm vụ 3); “Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” (nhiệm vụ 5); “Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc” (nhiệm vụ 6). [8]

Thông báo Kết luận tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW, ngày 20-7-2010, của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã thể hiện tính nhất quán quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong thực hiện quyền con người, xác định con người là trung tâm của sự phát triển; đồng thời là bước cụ thể hóa việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về lĩnh vực xây dựng, phát triển con người và quyền con người.

Quyết tâm đổi mới đã tạo điều kiện cho các chính sách xã hội phát triển trên cả 3 nội dung cơ bản: Nâng cao năng lực vốn con người (thông qua tăng cường phúc lợi toàn dân), cải thiện môi trường hoạt động của con người (thông qua phát triển các chính sách chính sách lao động, việc làm, y tế, giáo dục, phát triển doanh nghiệp, hạ tầng cơ sở...) và bảo đảm an sinh xã hội (thông qua các chính sách hỗ trợ người yếu thế tham gia thị trường lao động, tăng cường bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội và giảm nghèo)[9].

- Tăng trưởng đã hướng vào giải phóng sức sản xuất, phát huy tối đa tiềm năng nguồn nhân lực, tạo cơ hội để người lao động có việc làm, chuyển dịch việc làm sang các ngành có thu nhập và an sinh tốt hơn; làm việc trong môi trường ngày càng được an toàn và vệ sinh; phân phối tiền lương và thu nhập ngày càng theo cơ chế thị trường;

- Nguồn vốn nhân lực ngày càng tăng: trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực phát triển nhanh (chỉ số HDI của Việt Nam cao hơn so với những nước có cùng mức thu nhập); tình trạng sức khỏe được cải thiện nhanh chóng, điều kiện sống cũng tăng lên.

- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội: Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong thực hiện chính sách xã hội ở nhiều mục tiêu: đạt được hầu hết các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), đặc biệt về giảm nghèo, giảm trên 3/4 tỷ lệ nghèo, thu nhập bình quân nhân khẩu của hộ nghèo đã tăng 2 lần. Các đối tượng xã hội được bảo trợ ngày càng tốt hơn[10].

 

 

1.3. Những nhận thức mới trong từng lĩnh vực Lao động, Người có công và Xã hội

1.3.1 Giải phóng sức lao động, phát huy tối đa tiềm năng nguồn nhân lực, tạo cơ hội để người lao động có việc làm, làm việc trong môi trường an toàn và vệ sinh, tăng thu nhập, bảo đảm công bằng trong phân phối tiền lương và thu nhập

a. Lĩnh vực việc làm

Xuyên suốt quá trình phát triển đất nước từ năm 1991 đến nay, vấn đề cơ bản, đổi mới tư duy trong lĩnh vực việc làm là hướng vào phát triển con người, tạo mở nhiều cơ hội việc làm và tận dụng tối đa nguồn lao động cho phát triển, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển bền vững, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Qua các giai đoạn, thời kỳ, Đảng ta luôn khẳng định và không ngừng nhấn mạnh nhất quán quan điểm tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, giải phóng sức lao động, đảm bảo cung cấp nguồn nội lực chất lượng cho phát triển đất nước. Đồng thời, các quan điểm của Đảng cũng từng bước đổi mới và hoàn thiện theo hướng đi sâu vào mục tiêu việc làm bền vững, việc làm chất lượng, ổn định cho người dân. Đảng ta cũng chính thức thừa nhận sự tồn tại và tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ thị trường lao động hình thành và phát triển, có sự liên thông, gắn kết thị trường trong nước với quốc tế.

Giai đoạn trước 2011:

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII xác định: “Phương hướng quan trọng nhất để giải quyết việc làm là thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, coi trọng cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với phân bố lại lao động theo vùng lãnh thổ, xây dựng các khu kinh tế mới, hình thành các cụm kinh tế-kỹ thuật-dịch vụ nhỏ ở nông thôn, ở các thị trấn, thị tứ, đồng thời mở rộng xuất khẩu lao động. Đa dạng hoá việc làm và thu nhập để thu hút lao động của mọi thành phần kinh tế. Giải quyết việc làm là trách nhiệm của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, của từng gia đình, từng người, với sự đầu tư của Nhà nước, các đơn vị kinh tế và nhân dân. Có chương trình đồng bộ giải quyết việc làm. Sớm ban hành Luật Lao động và các quy chế cụ thể để đảm bảo quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động"[11].

Trong giai đoạn 1996-2000, Đảng tiếp tục khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển nhằm tạo thêm việc làm mới, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Nhà nước tạo môi trường thuận lợi khuyến khích các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển, tạo ra nhiều chỗ việc làm mới; phát triển các cơ sở dạy nghề và dịch vụ về việc làm; mở rộng quỹ quốc gia giải quyết việc làm và huy động các nguồn khác để trợ giúp ban đầu cho người lao động tự tạo việc làm có thu nhập”, "… nhanh chóng triển khai Chương trình  quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tự tìm việc làm. Mỗi năm thu hút thêm 1,3 -1,4 triệu lao động làm việc. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 75%".[12]

Giai đoạn 2001-2005: Đảng ta xác định rõ các mục tiêu về việc làm: “Trong 5 năm tới, tập trung tạo việc làm và ổn định việc làm cho khoảng 7,5 triệu người, bình quân trên 1,5 triệu người/năm; phấn đấu đến năm 2005 giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống còn khoảng 5,4% và nâng quỹ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%.... Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp, xây dựng từ 16% năm 2001 lên 20-21% năm 2005, lao động trong các ngành dịch vụ từ 21% lên 22%-23%. Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp cả về số tuyệt đối và tỷ trọng từ 63% xuống còn 56-57%”, “Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động”, “Tạo cơ hội bình đẳng và tiếp cận trực tiếp về đào tạo và việc làm cho mỗi công dân, khuyến khích người lao động học tập, đào tạo và tự kiếm việc làm…”[13].

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 trong định hướng phát triển về văn hóa, xã hội tiếp tục khẳng định: “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống dưới 50% vào năm 2010. Tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, xây dựng và đặc biệt là lao động ở khu vực dịch vụ trong tổng lao động xã hội. Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi do đô thị hóa và công nghiệp hóa”, “tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao động”, “xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp”[14].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011-2015) là: “Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tỉ trọng lao động nông- lâm- thuỷ sản năm 2015 chiếm 40-41% lao động xã hội...”; đồng thời chỉ rõ định hướng trong phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế: “Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc làm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa… Phát triển mạnh mẽ hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, …”, “Phát triển thị trường lao động, khuyến khích các hình thức giao dịch việc làm”.[15]

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục khẳng định lao động, việc làm và thu nhập cho người dân là trụ cột quan trọng của chính sách xã hội, từ đó xác định mục tiêu “Đến năm 2020, tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%” và định hướng “Phát triển thị trường lao động, bảo đảm đồng bộ, liên thông, minh bạch và tạo thuận lợi cho việc tự do dịch chuyển lao động”, “Tăng cường quản lý nhà nước về nguồn nhân lực, gắn kết cung-cầu lao động. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo điều kiện hỗ trợ dịch chuyển lao động và phân bố lao động hợp lý, hiệu quả”, “Thực hiện tốt chính sách việc làm công, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc khu vực công. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.”[16].

b. Lĩnh vực đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài

Giai đoạn trước 2011:

Chỉ thị số 41/CT-TW ngày 22 tháng 9 năm 1998 của Bộ Chính trị về xuất khẩu lao động và chuyên gia khẳng định "xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế-xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế giữa nước ta với các nước... Cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá...".

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Chỉ thị số 16-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương ngày 08 tháng 5 năm 2012 khẳng định “trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, nhu cầu tiếp nhận lao động của các nước rất lớn, là cơ hội để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả việc đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nhằm giải quyết việc làm, tạo thu nhập, phân công lại lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tăng thu ngoại tệ và góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.” Xuất khẩu lao động trong những năm gần đây đã đổi mới về cách làm qua việc tạo điều kiện cho sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân vào hoạt động xuất khẩu lao động, xử lý hài hòa các mối quan hệ thị trường.

 

Nuôi cá lồng trên sông Năng -Na hang-Tuyên Quang

c. Lĩnh vực tiền lương

Đã thừa nhận thị trường sức lao động và quyền của người lao động được lựa chọn việc làm trong mọi thành phần kinh tế; xác định tiền lương trong khu vực doanh nghiệp theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, đảm công bằng trong phân phối tiền lương thu nhập.

Giai đoạn trước 2011:

Tại Đại hội VII, Đảng đưa ra yêu cầu đối với chính sách tiền lương: “Đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập, khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng. Đấu tranh ngăn chặn thu nhập phi pháp. Cải cách cơ bản chính sách tiền lương và tiền công theo các nguyên tắc: tiền lương và tiền công phải dựa trên số lượng và chất lượng lao động, bảo đảm tái sản xuất sức lao động; tiền tệ hoá tiền lương, xoá bỏ chế độ bao cấp ngoài lương dưới hình thức hiện vật; thực hiện mối tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập của các bộ phận lao động xã hội. Từ năm 1992 cải cách chính sách tiền lương với bước đi hợp lý gắn với tinh giản bộ máy, biên chế và tìm thêm việc làm cho số lao động dôi ra.”[17]. Theo đó, lần đầu tiên tiền lương được coi là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ trong nền kinh tế thị trường. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 và 8, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII và Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa IX tiếp tục quán triệt “phải quán triệt quan điểm tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước”; “Coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để kinh tế phát triển, trả lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đầu tư  cho phát triển” và “Chính sách tiền lương phải phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần hình thành thị trường lao động lành mạnh, thu hút được lao động có chất lượng cao vào những khu vực quan trọng của nhà nước và xã hội” và “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội[18].  Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX; Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX và Nghị quyết Đại hội X của Đảng về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước khẳng định “Doanh nghiệp được tự chủ trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp”; “Nhà nước có cơ chế khuyến khích thoả đáng về vật chất, tinh thần đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp căn cứ vào mức độ đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời có chế tài phù hợp để xử lý những cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả do nguyên nhân chủ quan[19].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục khẳng định “Tiền lương, tiền công phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước[20]; đồng thời Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của Hội nghị lần thứ năm và Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI chỉ rõ: “xác định khung tiền lương cơ bản có khống chế mức lương tối đa đối với viên chức quản lý doanh nghiệp nhà nước gắn với kết quả sản xuất, kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn; quản lý chặt chi trả lương và các khoản thu nhập ngoài lương của doanh nghiệp”; “tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương theo nguyên tắc thị trường, có sự quản lý của Nhà nước; từng bước điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh và nhu cầu tối thiểu của người lao động; bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp trong việc xác định, quyết định tiền lương gắn với năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh; tăng cường thương lượng, thỏa thuận tiền lương nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích của người lao động và doanh nghiệp”.  Tầm quan trọng của chính sách tiền lương đã được thể hiện thành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, trong đó khẳng định: Chính sách tiền lương là một chính sách đặc biệt quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế-xã hội. Tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao động và gia đình người hưởng lương; trả lương đúng là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, tạo động lực nâng cao năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội; thúc đẩy, nâng cao chất lượng tăng trưởng và phát triển bền vững.

d. Lĩnh vực Quan hệ lao động

Nhận thức chung của Đảng xuyên suốt qua các thời kỳ đã hướng đến xây dựng quan hệ lao động hài hòa, thừa nhận sự khác biệt về quyền lợi và lợi ích của các bên tham gia quan hệ lao động; thừa nhận và khuyến khích quyền gia nhập công đoàn của người lao động trong mọi thành phần kinh tế, thừa nhận cơ chế đối thoại và thương lượng bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Giai đoạn trước 2011:

Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 được Đại hội toàn Quốc lần thứ VII của Đảng thông qua đã chỉ rõ: "Dân chủ hoá đời sống xã hội; quyền công dân, quyền con người và tự do cá nhân được bảo đảm bằng pháp luật, được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật"..."Ban hành Luật lao động, bảo đảm cho mọi người làm chủ sức lao động của mình. Trong khuôn khổ luật pháp, mọi người được tự do học nghề và hành nghề, lựa chọn việc làm và nơi làm việc, thuê mướn nhân công"[21]. Báo cáo Chính trị tại đại hội lần thứ IX của Đảng 2001-2005: "Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động"[22].  Báo cáo Chính trị tại đại hội lần thứ X của Đảng 2006-2010: "Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động". Văn kiện đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ X: "Tiếp tục hoàn chỉnh thể chế thị trường lao động theo hướng bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động"[23].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 đã đề ra mục tiêu: "Thực hiện tốt chính sách về lao động, việc làm, tiền lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực của người lao động, bảo đảm quan hệ lao động hài hòa, cải thiện môi trường và điều kiện lao động.". Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011): " Chế độ hợp đồng lao động được mở rộng, áp dụng phổ biến cho các đối tượng lao động."; "tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật lao động, đưa việc thi hành pháp luật lao động vào nền nếp; xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hoà, tiến bộ"[24]. Nghị quyết số 06/NQ-TW ngày 5/11/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới xác định một trong các chủ trương về giải quyết các vấn đề xã hội là “Hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt về quan hệ lao động và những vấn đề mới phát sinh từ quá trình thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.

e. Lĩnh vực An toàn vệ sinh lao động

Xuyên suốt trong các giai đoạn, Đảng luôn nhận thức vai trò của tạo việc làm gắn với cải thiện điều kiện lao động, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Giai đoạn trước 2011:

Nghị quyết 04/NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Khóa VII ngày 14/1/1993 về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân đã chỉ rõ “...Phải tuân thủ điều lệ vệ sinh, nhất là vệ sinh ăn uống và thực phẩm, vệ sinh môi trường, vệ sinh lao động, vệ sinh nơi ở và nơi làm việc”. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (Tháng 7/1994) khẳng định: "Tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện lao động. Thực hiện tốt những quy định về bảo hộ lao động, an toàn lao động, giảm bớt lao động chân tay giản đơn, nặng nhọc, độc hại. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về sử dụng lao động nữ và các chính sách đối với lao động nữ. Phòng chống có hiệu quả các bệnh nghề nghiệp".  Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (Năm 1996):" Tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện lao động và vệ sinh công nghiệp, hạn chế đến mức thấp nhất tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp"[25]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: “Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động”. Chỉ thị số 46/NQ-TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới nhấn mạnh “kịp thời dự báo, có biện pháp ngăn ngừa để hạn chế đến mức tối đa những tác động tiêu cực đối với sức khỏe do môi trường và điều kiện lao động trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại... Đẩy mạnh phòng chống các bệnh nghề nghiệp”.

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 18/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế:“Chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế về an toàn lao động, vệ sinh lao động” “Tăng cường trao đổi thông tin, kinh nghiệm, tiếp cận, ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước để đảm bảo ngày càng tốt hơn công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động ở trong nước. Tranh thủ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, hỗ trợ của các nước, các tổ chức quốc tế, tiến tới chủ động đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh lao động trong tất cả các ngành nghề, lĩnh vực trong nước”.

f. Lĩnh vực Giáo dục nghề nghiệp

Trong nhận thức của Đảng, giáo dục nghề nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp cho các ngành kinh tế; đầu tư giáo dục nghề nghiệp là đầu tư cho phát triển. Giáo dục đào tạo (GĐ-ĐT) nói chung và giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nói riêng thực hiện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. GDNN phải gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực, là đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tăng lợi thế cạnh tranh, góp phần phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Giai đoạn trước 2011:

Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã nêu định hướng cơ bản về GD-ĐT, trong đó khẳng định vai trò then chốt của GD-ĐT, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo; đồng thời xác định những định hướng lớn như mở rộng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân lành nghề; sắp xếp lại các cơ sở dạy nghề … Nghị quyết TW2 Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) về Định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH-HĐH đã nhấn mạnh thực sự coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu; GD-ĐT cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD-ĐT là đầu tư­ phát triển. Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho việc “học tập suốt đời”, phát triển dạy nghể gắn với nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội; coi trọng cả ba mặt; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đã nâng tầm nhận thức của Đảng về GD-ĐT, coi GD-ĐT là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học tập”. Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006), nhận thức của Đảng về GD-ĐT đã nâng lên tầm cao mới khi đề ra định hướng đổi mới toàn diện GD-ĐT với những quan điểm, định hướng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Tư duy về GD-ĐT, trong đó có đào tạo nghề đã có sự thay đổi hướng tới chất lượng và hội nhập với thế giới.

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Tại Đại hội Đảng lần thứ XI (2011), Đảng đã quyết định Đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Nghị Quyết 29 của Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 8 khóa XI (2013) về Đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế nêu rõ quan điểm chỉ đạo: phát triển dạy nghề phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội, phù hợp quy luật phát triển khách quan, những tiến bộ KH-CN. Chuyển phát triển dạy nghề chủ yếu theo mục tiêu số lượng sang phát triển theo mục tiêu vừa đáp ứng yêu cầu số lượng, vừa chú trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Chuyển hệ thống đào tạo cứng nhắc, thiếu tính liên thông sang hệ thống mở, linh hoạt, bảo đảm liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập suốt đời. Phát triển hài hòa, bình đẳng giữa dạy nghề công lập và ngoài công lập. Ưu tiên đầu tư phát triển dạy nghề ở các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển dạy nghề. Văn kiện Đại hội XII (2016) của Đảng xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạolần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan điểm GDNN phải gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực là đột phá chiến lượclà yếu tố quyết định đẩy mạnh, phát triển khoa học và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tăng lợi thế cạnh tranh.

 

Giúp người dân tìm hiểu chính sách xã hội

1.3.2 Chăm sóc toàn diện người có công với cách mạng

Đảng luôn nhận thức việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người có công là đạo lý cao đẹp của dân tộc, “uống nước nhớ nguồn” với phương châm “thế kiềng ba chân” huy động nguồn lực trong xã hội để chăm sóc người có công với cách mạng. Huy động mọi nguồn lực xã hội chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công… Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư.

Giai đoạn trước 2011:

Đại hội VII của Đảng khẳng định: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng”[26]. Đến Đại hội VIII, Đảng chỉ rõ: “Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những người có công với đất nước và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân nơi cư trú; bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em những người có công với cách mạng tiếp nối sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ...”[27]. Tại Đại hội IX, Đảng đặt ra yêu cầu: “Chăm lo tốt hơn đối với các gia đình chính sách và những người có công với cách mạng, bảo đảm tất cả các gia đình chính sách đều có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình so với người dân địa phương trên cơ sở kết hợp 3 nguồn lực: Nhà nước, cộng đồng và cá nhân các đối tượng chính sách tự vươn lên”[28].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) khẳng định “Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công….Tạo điều kiện, khuyến khích người và gia đình có công tích cực tham gia phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư tại địa bàn”[29].

Đến Đại hội XII (2016), Đảng ta tiếp tục yêu cầu: “Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công”[30].

1.3.3 Đảm bảo an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, các dân tộc; chăm sóc, bảo vệ tốt hơn các nhóm xã hội yếu thế; thực hiện bình đẳng giới trong mọi mặt của đời sống xã hội; kiểm soát tác hại của tệ nạn xã hội

 

 

a. Lĩnh vực Bảo hiểm xã hội

Bảo hiểm xã hội (BHXH) được coi là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, có vai trò quan trọng trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tiếp cận bảo hiểm xã hội là quyền an sinh xã hội mang tính phổ quát, gắn với mục tiêu mở rộng diện bao phủ, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Giai đoạn trước 2011:

Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 26 tháng 5 năm 1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH nêu rõ “Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc”.

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Quan điểm này tiếp tục được kế thừa và thể hiện sâu sắc hơn trong Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH. BHYT giai đoạn 2012-2020 với “bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế-xã hội”. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN bổ sung thêm quan điểm coi việc tiếp tục hoàn thiện chính sách BHXH, BHTN, BHYT, bảo hiểm tai nạn lao động là nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ “phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an sinh xã hội; khuyến khích người dân tự nguyện tham gia bảo đảm an sinh xã hội”. Để định hướng đổi mới chính sách bảo hiểm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết 28-NQ/TW (2018) yêu cầu thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân; bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ.

 

Chuẩn bị cho một vụ lúa mới trên cánh đồng ruộng bậc thang

b. Lĩnh vực giảm nghèo

Giai đoạn trước 2011:

Trước đây, công tác XĐGN được đề cập một cách khá chung chung, thì đến Đại hội VII đã xuất hiện các từ khóa: “tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng”, “năng lực sản xuất”, “tự phát triển”. Việt Nam sẽ phải dần tự lực cánh sinh, dựa vào nội lực là chính trong công tác XĐGN, quan trọng nhất là phải bảo đảm duy trì được kết quả của công tác XĐGN, tránh nguy cơ tái nghèo.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), công tác giảm nghèo được nhìn nhận và tiếp cận một cách khá toàn diện và khoa học: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư”[31]. Chủ trương Đại hội VIII được cụ thể hoá thành các chính sách phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, và tiếp tục được duy trì, phát triển trong những kỳ Đại hội sau.

Báo cáo chính trị Đại hội IX đã xác định: “tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội”[32].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Trong những giai đoạn gần đây, nhận thức của Đảng đã có thay đổi về chính sách giảm nghèo. Chính sách giảm nghèo hướng đến nâng cao tính hiệu quả và tập trung vào các địa bàn nghèo. Giảm nghèo bên cạnh mục tiêu nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân một cách bền vững còn hướng đến cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã xác định: “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn”[33].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) đã tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”[34]. Trong đó, “phương pháp đo lường nghèo đa chiều” là một khái niệm hoàn toàn mới.

c. Lĩnh vực trợ giúp xã hội

Quan điểm, nhận thức của Đảng đã có nhiều đổi mới, tiếp cận các quan điểm an sinh xã hội toàn diện, trợ giúp xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế-xã hội, khả năng huy động, cân đối nguồn lực của đất nước, xu hướng quốc tế và từng bước tiếp cận với mức sống tối thiểu trong từng thời kỳ; ưu tiên người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo, người sống ở vùng núi, vùng hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; Trợ giúp xã hội phải đa dạng về mô hình, toàn diện cả vật chất và tinh thần phù hợp với vòng đời con người, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân; bảo đảm người dân gặp rủi ro được hỗ trợ kịp thời từ Nhà nước, các tổ chức và cộng đồng; phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội.

Giai đoạn trước 2011:

Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII, năm 1991 chỉ rõ định hướng thực hiện chính sách trợ giúp các đối tượng yếu thế: “Hình thành các tổ chức của người tàn tật  và vì người tàn tật, các hội từ thiện, tổ chức việc giúp đỡ người già cô đơn và trẻ em mồ côi, những người cơ nhỡ, bất hạnh trong cuộc sống”[35].Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, năm 1996 nhấn mạnh quan điểm tăng trưởng phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. "Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo từ thiện. Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật; xây dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp; tiến tới xây dựng luật về bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi"[36]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: "Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hoá, đề cao trách nhiệm của chính quyền các cấp, huy động các nguồn lực trong nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể, các tổ chức xã hội"[37].

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tiếp tục khẳng định “Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. ...Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu”[38].Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, trong đó khẳng định[39]: “Đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân,..., bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”. Đồng thời cũng khẳng định:" trợ giúp xã hội (TGXH) là một trong bốn trụ cột của hệ thống an sinh xã hội (ASXH).

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đặt ra mục tiêu trong giai đoạn 2016-2020 “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội[40].

d. Lĩnh vực bình đẳng giới

Trong lĩnh vực bình đẳng giới, sự phát triển trong nhận thức và quan điểm chỉ đạo của Đảng bắt đầu từ việc giải phóng phụ nữ tiến đến thực hiện bình đẳng giới. Quyền của phụ nữ là quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm thực hiện.

Giai đoạn trước 2011:

Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16 tháng 5 năm 1994 của Ban Bí thư TW Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới đã nhấn mạnh việc tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ, trong đó nêu rõ “Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội là yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”. Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam (1996): Đặc biệt coi trọng việc đào tạo nghề nghiệp, giúp đỡ chị em có việc làm, phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống, bảo vệ sức khỏe của phụ nữ và trẻ em.[41]

Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (2006) nhấn mạnh: “Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp; Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ; Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ[42]. Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực”.

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã coi quyền của phụ nữ là quyền con người cần được tôn trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (2016) khẳng định tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách bình đẳng giới. Ban Bí thư đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở đó, ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/1/2018 về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới.

 

Giờ luyện tập thể chất của các cháu Trường Tiểu học Vinschool

e. Lĩnh vực Trẻ em

Trẻ em là tương lai của đất nước, là hạnh phúc của mỗi gia đình. Đầu tư cho trẻ em là đầu tư cho phát triển bền vững, cho nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Quan điểm của Đảng luôn nhất quán và thể hiện sự quan tâm, ưu tiên hàng đầu đối với việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Quan điểm về bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã có sự phát triển rõ rệt, đảm bảo ứng phó với những thay đổi của xã hội và đáp ứng tiến trình hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em không chỉ tập trung vào giải quyết hậu quả với các hoạt động trọng tâm  là bảo vệ, chăm sóc và hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt mà còn cần chú trọng đến chủ động phòng ngừa, can thiệp, loại bỏ những nguy cơ cho mọi trẻ em trước khi bị tổn hại.

Giai đoạn trước 2011:

Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 30/5/1994 của Ban Bí thư về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, năm 1998, trong đó xác định: “Sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của mọi công dân và mỗi gia đình; Trong phạm vi khả năng của mình, cần tạo điều kiện tối đa để mọi trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và được phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ”. Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Ủy Đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng đối với việc chăm sóc trẻ em “Để đảm bảo cho thế hệ trẻ Việt Nam được phát triển toàn diện, giữ vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động phòng ngừa, khắc phục những tác động tiêu cực mới đối với trẻ em trong bối cảnh hiện nay”.

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Chỉ thị số 20/CT-TW, ngày 5/11/2012 của Bộ Chính trị về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới đã đề cập: Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lược, lâu dài, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.”

f. Lĩnh vực phòng chống tệ nạn xã hội

Nhận thức của Đảng về phòng, chống tệ nạn xã hội ngày càng rõ ràng, nhất quán, không chỉ là vấn đề nhận thức luận, mà còn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu sắc, coi đây là một cuộc đấu tranh cam go, phức tạp, gắn liền với xây dựng con người mới, xã hội mới trong quá trình phát triển và hội nhập. Bởi vậy cần phải tập trung sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; phát động thành phong trào toàn dân tham gia phòng ngừa và đấu tranh với các loại tệ nạn xã hội, góp phần phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Giai đoạn trước 2011:

Đại hội VII (1991) trên cơ sở nhận định rằng mặc dù có nhiều cố gắng và ngăn chặn, song tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, Đảng ta đã xác định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu 5 năm 1991-1995 là phải “đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng[43]. Thời kỳ 1996-2000, Đảng ta chủ trương “tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội[44], nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma tuý, mua bán dâm… Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001-2005) đã xác định cần phải “ngăn chặn và bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là các tệ nạn mại dâm, ma tuý và HIV/AIDS[45]. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh phải “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa[46], là hướng quan trọng và cơ bản nhất để đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ tệ nạn xã hội trong đời sống xã hội.

Giai đoạn từ 2011 đến nay:

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra chủ trương: "Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền, giáo dục cộng đồng, đề cao vai trò giáo dục của gia đình đối với thanh, thiếu niên về tác hại của ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác. Đấu tranh quyết liệt với việc buôn bán, sử dụng ma tuý. Huy động nhiều nguồn vốn, tăng cường đầu tư xây dựng, quản lý các trung tâm cai nghiện có hiệu quả. Đề cao trách nhiệm của gia đình, đoàn thể và chính quyền cơ sở trong quản lý, tạo việc làm, tái hoà nhập cộng đồng cho các đối tượng sau cai nghiện. Có giải pháp kiểm soát và hạn chế tệ nạn mại dâm, giảm thiểu tác hại của các tệ nạn xã hội. Nhân rộng mô hình xã, phường, thôn, ấp, bản không có tệ nạn xã hội...; "[47].

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc khóa XII đã tiếp tục khẳng định “Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông[48].

 

PV (theo BC của Bộ LĐTB &XH)

 

 

 


 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1994, Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

[9] Một nội dung khác của chính sách xã hội còn bao gồm các chính sách điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội (cưới xin, đồng tính, li dị, hủ tục và tệ nạn xã hội…) không thuộc phạm vi của ngành lao động thương binh xã hội nên không đề cập tại đây.

[10] Thành tích của Việt Nam về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trong vòng hai thập kỷ qua là rất đáng chú ý nếu sử dụng bất cứ chuẩn nghèo nào. Theo chuẩn nghèo của Chính phủ trong từng giai đoạn, tỷ lệ hộ nghèo cả nước luôn có xu hướng giảm. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,88% vào năm 2015 xuống còn ước 5,2% vào năm 2018.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[37] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[39]Nghị Quyết số 15-NQ/TW của BCH TW Đảng khóa 5, ngày 1/6/2012.

[40] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

[41] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[42] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[43] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.

[44] Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

[45] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.

[46] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

[47] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

[48] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết