Năm 1921, khi hoạt động cách mạng ở nước Pháp, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nêu vấn đề: Chế độ cộng sản có áp dụng được ở Châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không? Và Người đã nêu rõ quan điểm: “xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”[1].
Đó là nhận thức về tính tất yếu của con đường đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam vẫn bị người phương Tây coi là lạc hậu. Nguyễn Ái Quốc thấy rõ sự cần thiết phải giải phóng dân tộc, giành độc lập và giải phóng giai cấp, xã hội, con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công. Cả hai công cuộc giải phóng vĩ đại đó chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản.
Sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản theo quan niệm của Nguyễn Ái Quốc không chỉ là đấu tranh giải phóng, sự xóa bỏ chế độ cũ mà điều chủ yếu là tạo dựng xã hội mới như thế nào, nhận thức mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa với những nội dung căn bản và chủ yếu. Quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải biến cách mạng sâu sắc và triệt để, không ngừng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội. Năm 1915, V.I.Lênin trong tác phẩm Bàn về khẩu hiệu Liên bang Châu Âu đã nhấn mạnh: “Người ta không thể coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là một công cuộc làm một lần thì xong, mà phải coi đó là một thời đại”[2].
Thời đại đó là quá trình biến đổi cách mạng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội khởi đầu bằng Đảng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động giành lấy chính quyền, và ở một nước thuộc địa phải giành được độc lập dân tộc xây dựng Nhà nước tiêu biểu cho lợi ích quốc gia dân tộc, quyền làm chủ nhân dân. Nhận thức căn bản của độc lập và chủ nghĩa xã hội phải là quyền lợi của nhân dân, hạnh phúc của nhân dân mà Nguyễn Ái Quốc đặt ra ngay từ đầu. Đó phải là đặc trưng hàng đầu của xã hội xã hội chủ nghĩa. “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”[3].
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) đã nêu rõ mục tiêu và con đường cách mạng Việt Nam “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “để đi tới xã hội cộng sản”[4]. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo thành công, giành được độc lập dân tộc, xây dựng Nhà nước cách mạng kiểu mới của nhân dân. Chế độ dân chủ nhân dân là cơ sở và tiền đề rất quan trọng để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng thực dân Pháp quay lại xâm lược, cách mạng Việt Nam vẫn phải tiếp tục sự nghiệp giải phóng dân tộc để có độc lập, thống nhất hoàn toàn. Vì vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa được đặt ra trực tiếp. Mặc dù vậy, chế độ dân chủ nhân dân đã chú trọng tạo dựng những mầm móng của chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc phải hướng tới tự do, hạnh phúc của nhân dân, xây dựng chính quyền nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền sống cả về vật chất, văn hóa, tinh thần, học hành của người dân, cán bộ là công bộc của dân. Hồ Chí Minh nêu rõ vai trò của kinh tế hợp tác xã nông nghiệp trong xây dựng nước nhà. Bản chất của chủ nghĩa xã hội đã định hình từ những chủ trương, chính sách quan trọng đó.
Trong chuyến thăm chính thức với 99 ngày trên đất nước Pháp, ngày 12-7-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời các nhà báo. Trả lời câu hỏi về xu hướng cộng sản ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Người nghiên cứu Các Mác và cho rằng: “Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”[5]. Đó là những điều kiện cần thiết để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và cũng là động lực, mục tiêu và đặc trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa cần xây dựng, nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu, điểm xuất phát ở trình độ thấp.
Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng xã hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp với những nhiệm vụ mới mẻ. Đảng và Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu, phải nghiên cứu sâu sắc nguyên lý chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội để vận dụng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước nhưng cần có cách làm riêng, bước đi thích hợp. Chú trọng tổng kết đặc điểm, hoàn cảnh Việt Nam để tìm ra quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lần đầu tiên (1956), Hồ Chí Minh nêu ra quan niệm chủ nghĩa xã hội như một đặc trưng căn bản: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”[6]. Vì dân, vì đất nước vẫn là mục tiêu hàng đầu của chủ nghĩa xã hội. Trong nhiều bài viết và nói chuyện, Hồ Chí Minh đặc biệt lưu tâm và nhận thức rõ rằng, chủ nghĩa xã hội phải làm cho mọi người dân ấm no, sung sướng, được học hành, có nhà ở tử tế, ốm đau được chữa bệnh, trẻ em được nuôi dạy, người già được chăm sóc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Trong xã hội có giai cấp bóc lột thống trị, chỉ có lợi ích cá nhân của một số rất ít người thuộc giai cấp thống trị là được thoả mãn, còn lợi ích cá nhân của quần chúng lao động thì bị giày xéo”[7].
Những luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là cơ sở rất quan trọng để Đảng nhận thức và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đề ra đường lối hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã tỏ rõ sức mạnh và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần quyết định thắng lợi của cuộc chống Mỹ cứu nước hoàn thành độc lập, thống nhất Tổ quốc. Sau toàn thắng 30-4-1975, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV của Đảng (12-1976) đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của cả nước. Chế độ xã hội chủ nghĩa đã phải vượt qua nhiều thách thức mới, kể cả cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây-Nam và biên giới phía Bắc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế với Campuchia, vững vàng phát triển. Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua đường lối của Đại hội III và Đại hội IV và thực tiễn cách mạng đã định hình những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa trước đổi mới:
- Xây dựng và hoàn thiện chế độ chính trị chuyên chính vô sản với sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, vai trò quản lý, tổ chức của Nhà nước và thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân lao động (có lúc gọi là quyền làm chủ tập thể). Vận hành cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
- Nền kinh tế được xây dựng và phát triển dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân (nhà nước) và sở hữu tập thể, hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể; Nhà nước quản lý nền kinh tế tập trung thống nhất thông qua công cụ kế hoạch hóa và quyết định hành chính; thực hiện chế độ phân phối theo lao động và bao cấp trong sản xuất và phân phối sản phẩm; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cách mạng khoa học - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Có nền văn hóa và con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tiến hành cách mạng về tư tưởng, văn hóa. Nền văn hóa mới mang bản chất xã hội chủ nghĩa và kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống của dân tộc. Con người xã hội chủ nghĩa là con người có tinh thần, ý thức tập thể, có kiến thức và năng lực, có trách nhiệm với cộng đồng, yêu nước và nêu cao lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có tinh thần kỷ luật tự giác, ý thức tổ chức và lối sống lành mạnh, văn minh, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Cơ cấu xã hội của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Đó là nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các lực lượng xã hội đó tạo nên động lực to lớn của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự vững chắc của chế độ chính trị và sự phát triển của nền kinh tế, bảo đảm sự đồng thuận xã hội. Chăm lo lợi ích và cuộc sống về mọi mặt của toàn dân. Các chính sách xã hội vì cuộc sống của nhân dân.
- Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân. Giải quyết đúng đắn quan hệ giữa tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trung thành và nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, tăng cường đoàn kết và góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới, đoàn kết trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và củng cố hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Kết hợp chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả.
Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa thời kỳ 1954-1986 trình bày trên đây có nhiều nội dung được hiện thực hóa trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tỏ rõ bản chất, sức mạnh của chế độ mới, có vai trò quyết định thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm, yếu kém bắt nguồn từ căn bệnh chủ quan, duy ý chí, nóng vội không phù hợp với thực tiễn đất nước, chưa nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, dẫn tới đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ năm 1979.
Không quá khó để nhận thấy những yếu kém, khuyết điểm chủ yếu trên lĩnh vực cơ chế và chính sách kinh tế. Đã tuyệt đối hóa vai trò của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và kinh tế quốc doanh, tập thể, không chấp nhận sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sự tồn tại của kinh tế tư nhân. Đề cao kế hoạch hóa và sự quản lý tập trung, hành chính của Nhà nước, không coi trọng kinh tế thị trường để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Chế độ phân phối bao cấp, bình quân, chưa coi trọng lợi ích của người lao động đã không tạo ra động lực cho sự phát triển. Từ cuối những năm 70, đầu thập niên 80, Đảng đã nhận rõ những sai lầm, khuyết điểm đó. Yêu cầu khách quan đặt ra, phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Phải thay đổi nhận thức và chính sách, đổi mới cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý, thực hiện chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kết hợp kế hoạch với thị trường, thúc đẩy sản xuất hàng hóa và thị trường trong nước, bảo đảm lợi ích và nâng cao đời sống nhân dân, thu hút sự đầu tư của nước ngoài. Đó là vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới được quyết định tại Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12-1986). Đại hội VI đã tổng kết những bài học cần thiết trong đó nhấn mạnh: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”[8].
Thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, từ nửa cuối thập niên 80, kinh tế khởi sắc và phát triển nhất là từ 1989, chính trị, xã hội ổn định vượt qua thách thức lớn do sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Năm 1989, Đảng đề ra các nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, trong đó khẳng định, đổi mới không phải xa rời con đường xã hội chủ nghĩa mà là thực hiện tốt hơn mục tiêu chủ nghĩa xã hội, bằng nhận thức mới và những hình thức, bước đi và giải pháp thích hợp. Cần phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn đất nước và từ những thành công và thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển đất nước đúng con đường xã hội chủ nghĩa, từ ý chí độc lập, tự cường, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị khóa VI (1986-1991) thấy rõ sự cần thiết phải soạn thảo Cương lĩnh mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ban soạn thảo Cương lĩnh do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đứng đầu. Yêu cầu của Cương lĩnh phải hướng tới nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới. Phải nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng sáng tạo, không ngừng đổi mới tư duy lý luận và xuất phát từ thực tế Việt Nam, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nắm vững quy luật khách quan. Trong khi mô hình chủ nghĩa xã hội tan rã ở Liên Xô và các nước Đông Âu, thì Việt Nam xây dựng Cương lĩnh, xác định rõ những đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
“- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[9].
Cương lĩnh nhấn mạnh xây dựng nhà nước vững mạnh do Đảng Cộng sản lãnh đạo; phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch và các công cụ khác, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp tới cao; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; có chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người; đại đoàn kết dân tộc; kết hợp chặt chẽ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, phương hướng phát triển đề ra trong Cương lĩnh được cụ thể hóa, thể chế hóa thành chính sách, pháp luật trong quá trình đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn đó khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, là hoàn toàn đúng đắn. Thành quả xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới đã góp phần phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng rõ hơn về mô hình, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, về hình thức, bước đi và giải pháp chủ yếu; về những quy luật, đặc trưng của thời kỳ quá độ và khả năng, nội dung bỏ qua chủ nghĩa tư bản, những gì loài người đã đạt được dưới chủ nghĩa tư bản mà chủ nghĩa xã hội có thể kế thừa.
Sự phát triển của đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa và những biến đổi nhanh chóng của thế giới hiện nay, có cả cơ hội và nguy cơ. Thực tế đó đồi hỏi Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội, trong đó có nhận thức về những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng lần thứ XI (1-2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh là bước phát triển quan trọng về nhận thức lý luận và có ý nghĩa lớn trong chỉ đạo thực tiễn về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh bổ sung mới 2 đặc trưng số 1 và số 7 với sự khái quát cao và phản ánh yêu cầu thực tiễn. Sáu đặc trưng của Cương lĩnh 1991 đều được bổ sung những nội dung mới. Cương lĩnh nêu rõ 8 đặc trưng:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[10].
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải không ngừng tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận. Năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có sự tổng kết rất quan trọng trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tác phẩm đã làm sâu sắc hơn những đặc trưng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tổng Bí thư nêu rõ:
“Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”[11].
Những chỉ dẫn quan trọng của Tổng Bí thư cũng là những yêu cầu cần bổ sung, phát triển trong điều kiện hiện nay cả trong nước và thế giới để đưa Việt Nam vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa như Đại hội XIII đã xác định đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển thu nhập cao. Cần thiết phải xác định xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, độc lập, tự cường, phồn vinh, hạnh phúc. Có nền kinh tế phát triển cao, độc lập tự chủ. Hoàn thiện hệ thống các chính sách xã hội vì con người, an ninh, an toàn xã hội. Quốc phòng, an ninh, đối ngoại vì khát vọng hòa bình, bản chất của chủ nghĩa xã hội là hòa bình.
PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc
[1] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 1, trang 47.
[2] Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tập 26, trang 444.
[3] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 2, trang 292.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1998, tập 2, trang 2.
[5] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 4, trang 315.
[6] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 10, trang 390.
[7] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 11, trang 610.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2006, tập 47, trang 363.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2007, tập 51, trang 134.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, trang 70.
[11] Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đê lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb CTQGST, H, 2022, trang 21-22.