Thứ Năm, ngày 25 tháng 04 năm 2024

Vận dụng quan điểm của Đảng về quản lý phát triển xã hội trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

Ngày phát hành: 13/09/2021 Lượt xem 11768

 

1.  Sự cần thiết của quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững

Giảm nghèo bền vững luôn là một chủ trương nhất quán của Đảng và là chính sách quan trọng của nhà nước trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước. Giảm nghèo bền vững gồm các tiêu chí như: (1) Về thu nhập của người nghèo được đảm bảo và vượt mức chuẩn nghèo, thu nhập ổn định; (2) Người nghèo được hỗ trợ các chính sách để tiếp cận với các dịch vụ xã hội như nhà ở, nước sạch, nhà vệ sinh hợp vệ sinh, giáo dục, y tế, thông tin và sự tiếp cận này luôn duy trì ổn định, hạn chế tình trạng tái nghèo hoặc phát sinh nghèo do thiếu các dịch vụ này. Nghị quyết số 24/2021/QH15 của Quốc hội về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025 của nhấn mạnh mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống; hỗ trợ các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn. Nghị quyết này là sự cụ thể hóa quan điểm trong Văn kiện Đại hội XII, XIII của Đảng về giảm nghèo bền vững, tăng trưởng bao trùm và quan tâm mọi nhóm xã hội, đặc biệt nhóm yếu thế dễ bị tổn thương.

Nói đến phát triển bền vững là phải nhấn mạnh một xã hội tăng trưởng bao trùm, không để một bộ phận bị “bỏ lại phía sau” và giảm thiểu tối đa tỷ lệ người nghèo và thiếu hụt các cơ hội để tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. Bởi vậy, chính sách của Đảng thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững là điều kiện tiền đề quan trọng để đất nước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Giảm nghèo nhanh và bền vững sẽ đem lại một nền kinh tế đất nước phồn vinh với giá trị dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kết quả thực hiện giảm nghèo bền vững ở Việt Nam đã có những chuyển tích cực và điều này được Đảng ta đánh giá tại Đại hội  XIII rằng, đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm còn dưới 3%; nhà ở xã hội được quan tâm; đã hoàn thành các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ; trong có nhiều mục tiêu về giảm nghèo, y tế, giáo dục hoàn thành trước thời hạn, được đánh giá là điểm sáng; đang tích cực triển khai thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.[4] Mặc dù vậy, “giảm nghèo chưa bền vững, chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý vấn đề phân hóa giàu – nghèo, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn, xung đột xã hội”[5].

Thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều trong giai đoạn qua đã có nhiều kết quả tích cực nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thách thức. Câu hỏi đặt ra làm thế nào, lộ trình thế nào để có giải quyết kịp thời những bất cập trong công tác giảm nghèo hiện nay để hướng đến quản lý xã hội phát triển bền vững luôn thôi thúc các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu. “Quản lý phát triển xã hội, một cách chung nhất, là sự tác động có chủ đích của hệ thống quản lý hay chủ thể quản lý (trực tiếp là Nhà nước, hoặc các tổ chức ngoài nhà nước) lên hệ thống bị quản lý hay khách thể quản lý (đời sống xã hội), bằng các nguồn lực trong xã hội và các công cụ, phương thức tác động đa dạng, nhằm hướng sự vận hành và phát triển của đời sống xã hội theo các mục tiêu đặt ra”[6]. Quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững là một trong những giải pháp cứu cánh cho hiệu quả của công tác giảm nghèo trong bối cảnh hiện nay. Thực tế cho thấy vận dụng tối ưu tiếp cận quản lý phát triển xã hội trong công tác này sẽ giúp cho các chủ thể quản lý nắm được thực trạng, sự biến đổi xã hội để kịp thời điều chỉnh các chính sách nhằm góp phần đạt được mục tiêu đã đặt ra.

Với cách tiếp cận trên, trong phạm vi bài viết quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững được đánh giá dựa trên 2 yếu tố: (1) Chủ thể quản lý là các tổ chức, nhóm xã hội có liên quan đến hoạch định và thực thi chính sách giảm nghèo; (2) Khách thể quản lý là vấn đề kết quả thụ hưởng chính sách giảm nghèo của các nhóm xã hội, mục tiêu giảm nghèo.

 

 

2. Thực trạng quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

1) Sự tham gia của các chủ thể quản lý phát triển xã hội đối giảm nghèo bền vững

Trước hết, thời gian qua, các chủ thể quản lý tham gia tích cực vào hoạt động hoạch định chính sách an sinh xã hội và giảm nghèo. Sự tham gia của các chủ thể quản lý phát triển xã hội đối với chiến lược giảm nghèo bền vững được thể hiện trong mọi quy trình của chính sách từ hoạch định đển tổ chức thực thi chính sách. Điều này được thể hiện từ việc cơ chế phân cấp trong triển khai thực hiện, tình hình huy động nguồn lực, sự phân công và sự phối kết hợp của các bên liên quan; sự giám sát, đánh giá và năng lực thực thi của các cơ quan nhà nước và cộng đồng và đánh giá hiệu quả trong triển khai các chương trình giảm nghèo bền vững.

Các chủ thể quản lý tham gia tích cực vào hoạt động hoạch định chính sách giảm nghèo. Chính phủ và các cơ quan Bộ, ngành đã có ban hành nhiều chính sách nhằm giúp cho người nghèo có cuộc sống tốt đẹp hơn. Các Chương trình phát triển KT-XH các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi (CT 135-II) theo Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo giai đoạn 2006-2010 theo Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 của Chính phủ; Quyết định số 1489/QĐ-TTg, ngày 8 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn  2012 – 2015” và quyết định số 1722/QĐ-TTg, ngày 2 tháng 9 năm 2016 về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020”. Ngoài ra, còn có nhiều chính sách khác như hỗ trợ giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường…[7]. Bên cạnh đó, các chủ thể còn thể rõ quan điểm trong hoạch định chính sách an sinh xã hội. Tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW về “một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020” đã nêu rõ rằng, “đến năm 2020, cơ bản bảo đảm anh sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”. Nghị quyết số 21/NQ-TW ngày 22/11/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) giai đoạn 2012-2020” đã đề ra mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN)”. Tinh thần này tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ XII (2016) của Đảng rằng, “bảo đảm an sinh xã hội là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới; tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội tới mọi người dân, hướng tới mục tiêu thực hiện an sinh xã hội toàn dân; khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của mỗi người dân...”. Nghị quyết 28-NQ-TW tại Hội nghị lần thứ VII của Ban chấp hành Trung ương Khóa XII, ngày 23 tháng 5 năm 2018 về “cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” càng thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đảm bảo an sinh xã hội. Trong hai năm kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát đã đã tác động tiêu cực đến sinh kế của rất nhiều nhóm xã hội, đặc biệt là nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương và Chính phủ đã kịp thời ban hành chính sách an sinh xã hội kịp thời, trợ cấp đột xuất, mở rộng lưới an sinh để giúp các nhóm xã hội đảm bảo cuộc sống trước tác động của đại dịch hoành hành. 

Tuy nhiên, sự chồng chéo giữa các chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững, sự không thống nhất và đồng bộ giữa các chính sách là hợp phần của các chương trình xóa đói, giảm nghèo sẽ làm giảm hiệu quả của các chương trình XĐGN. Đơn cử với chương trình 135-II và Chương trình mục tiêu nước sạch và vệ sinh, môi trường nông thôn có các hợp phần với nội dung và cách tiếp cận rất giống nhau. Chình vì thế, nó đã dẫn đến lo ngại về khả năng có sự chồng chéo đáng kể giữa các hoạt giảm nghèo khác nhau của Chính phủ[8].

Thứ hai, chủ thể tham gia vào thực thi chính sách an sinh xã hội, chương trình XĐGN thông qua cơ chế phân cấp quản lý. Việc phân cấp này trong triển khai thực hiện chương trình có ảnh hưởng đến hiệu quả của các chương trình giảm nghèo bền vững. Để nâng cao hiệu quả chương trình giảm nghèo bền vững, Chính phủ đã quyết định phân cấp trong quản lý chương trình XĐGN và phân cấp quản lý trong lập kế hoạch, ngân sách.

Đối với phân cấp trong quản lý chương trình XĐGN, cơ chế điều hành chương trình XĐGN đã được tiến hành bao gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Ở cấp trung ương, Bộ LĐTB&XH là cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý Chương trình, Bộ KHĐT, Bộ Tài Chính, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Ủy ban Dân tộc, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế và Ngân hàng Nông nghiệp chịu trách nhiệm chỉ đạo chung. Các cơ quan này cùng với một số đoàn thể quần chúng (Mặt trận tổ quốc, hội LHPN, hội ND) đều có đại diện tham gia Ban chỉ đạo Chương trình XĐGN quốc gia do Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm giúp Chính phủ chỉ đạo, điều phối và giám sát chương trình.

Đối với phân cấp quản lý trong kế hoạch, ngân sách, Chính phủ phân bổ ngân sách qua hai kênh: (1) Kênh thứ nhất cho nhóm gồm 7 chính sách gồm: chính sách khuyến nông-lâm-ngư, cơ sở hạ tầng cho các xã vùng ven biển và hải đảo; dạy nghề; nhân rộng mô hình giảm nghèo; nâng cao năng lực giảm nghèo; chính sách hỗ trợ pháp lý; và giám sát đánh giá. Các tiêu chí và dự toán cho ngân sách phân bổ theo Thông tư liên tích giữa Bộ tài chính và bộ LĐTB&XH số 102/TTLT/BTC-LĐTBXH năm 2007. (2) Kênh thứ hai là những chính sách còn lại được áp dụng cơ chế tài chính khác và có những thể thức thực hiện riêng biệt. Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo được thực hiện thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội và cơ chế quản lý chính sách được quy định theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2002. Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo được xây dựng theo Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2002 và được quy định theo Thông tư liên tịch giữa Bộ Y tế và Bộ Tài chính số 14/2002/TTLT-BYT-BTC. Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo được quy định bằng sáu quyết định và nghị định khác nhau từ năm 1997 – 2007.

Thực hiện phân cấp quản lý nguồn lực giảm nghèo bền vững đã tạo nhiều sự chuyển biến trong quá trình thực hiện Chương trình XĐGN. Chủ trương phân cấp mạnh cho các xã nghèo thực hiện các công trình dự án mà địa phương và cộng đồng có khả năng đảm đương sẽ giúp nâng cao năng lực thực thi của địa phương và năng lực tham gia của cộng đồng, đồng thời nâng cao hiệu quả của nguồn lực. Đơn cử chương trình 135, cấp xã và thôn bản được làm chủ các công trình có nguồn vốn nhỏ và trên thực tế đã chứng minh phần lớn các xã đã thực hiện tốt các chương trình này.

Mặc dù, cơ chế phân cấp quản lý Chương trình an sinh xã hội, XĐGN đã góp phần thực hiện tốt công tác giảm nghèo bền vững; tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì vẫn bộc lộ một số hạn chế như: (1) trong phân bổ nguồn lực của Chương trình, rất khó có thể theo dõi việc phân bổ từ nguồn ngân sách Nhà nước và theo dõi các nguồn này được sử dụng như thế nào. (2) do phân cấp quản lý của Chương trình an sinh xã hội và XĐGN theo hướng từ trên xuống, hệ thống phụ thuộc vào việc ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời và rõ ràng từ Trung ương cho các địa phương cho các hợp phần của chương trình. (3) Trong phân cấp đó là năng lực của cán bộ địa phương chưa đáp ứng được với những công việc mà họ được giao từ chương trình XĐGN. (4) Sự thiếu kịp thời minh bạch trong cung cấp thông tin từ cấp trung ương đến cấp tỉnh, huyện xã. (5) các chủ thể thực thi chính sách vẫn còn tham nhũng về chính sách, trục lợi cá nhân. Điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến công tác thực hiện an sinh xã hội và giảm nghèo trong thời gian qua.

Thứ ba, sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành liên quan, chính quyền các cấp trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện các chương trình mục giảm nghèo bền vững đã làm tăng hiệu quả KT- XH của các chương trình. Thực tiễn công tác quản lý cho thấy, nơi nào có sự phân công rõ ràng trách nhiệm của cán bộ ngành liên quan và chính quyền các cấp trong thực thi chính sách giảm nghèo bền vững thì hiệu quả của chương trình càng cao. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan và chính quyền các cấp đã giúp nguồn lực cho giảm nghèo được sử dụng một cách có hiệu quả, từ đó đảm bảo tính hiệu quả của các chương trình giảm nghèo bền vững. Sự giám sát, đánh giá trong thực hiện chương trình, chính sách XĐGN đã đảm bảo hiệu quả của các chương trình[9]. Tuy nhiên, trong quá trình phối hợp thực hiện các chính sách, đặc biệt là chính sách an sinh xã hội thì còn thiếu sự đồng bộ nên dẫn tới nhiều chính sách chưa đạt được hiệu quả cao. 

Thứ tư, sự tham gia của người dân là những nhân tố quan trọng đảm bảo tính hiệu quả của các chương trình. Trong thời gian qua, người dân đã đóng vai trò tích cực trong chương trình XĐGN. Sự tham gia của người dân thể hiện qua nhiều hoạt động như: bình xét hộ nghèo, tham gia giám sát các công trình công cộng, tham gia các mô hình sản xuất, yêu cầu sự công khai minh bạch trong tiêu chí xem xét và niêm yết danh sách hộ nghèo của địa phương… Người dân tích cực phản ánh những vấn đề tiêu cực nảy sinh trong quá trình xem xét hộ nghèo để giảm tình trạng hộ rất nghèo thì không được đưa vào danh sách hộ nghèo để được hỗ trợ nguồn lực và những hộ không nghèo lại được đưa vào danh sách hộ nghèo để trục lợi chính sách. Thực tế cho thấy, ở địa phương nào nếu mức độ tham gia của người dân càng cao vào các hoạt động giảm nghèo thì hiệu quả của công tác giảm nghèo cũng như ảnh hưởng của chính sách giảm nghèo càng rõ rệt.

Bên cạnh đó, sự chung tay cùng với nhà nước, người dân cũng đã tham gia tích cực vào các hoạt động an sinh xã hội như hoạt động cứu trợ, hỗ trợ vùng chịu ảnh hưởng của thiên tai, hoạt động từ thiện của các nhóm tình nguyện… Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã khiến đến nhiều nhóm xã hội yếu thế rơi vào sự khủng hoảng đời sống; người dân cũng đã tích cực đồng hành cùng với nhà nước xây dựng nhiều hoạt động ý nghĩa như máy ATM gạo, phát khẩu trang miễn phí, hỗ trợ xuất ăn miễn phí cho sinh viên, người nghèo giúp nhóm yếu thế trong xã hội vượt qua cú sốc kinh tế.

Ngoài ra, sự tham gia của người dân với tư cách là chủ thể quản lý phát triển xã hội trong lĩnh vực giảm nghèo còn thể hiện qua vai trò kiểm soát quá trình thực thi chính sách của cơ quan chính quyền. Trong thời gian qua, nhiều tiêu cực trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đã được phát hiện chủ yếu từ phía người dân thông qua kênh dư luận xã hội, “tai mắt” của người dân do đó sự minh bạch, công bằng cho các chính sách giảm nghèo được phát huy tốt hơn. Hơn nữa phát huy sự tham gia của người dân vào quản lý các quá trình xã hội vừa là thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở ở xã phường thị trấn vừa là huy động sức mạnh của người dân vào quá trình quản lý.

Thứ năm, huy động sự tham gia của các Hội, Đoàn thể. Trong thời quan, các tổ chức Đoàn thể đã tích cực trong quá trình thực hiện Chương trình XĐGN thông qua nhiều hoạt động: tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia vào công tác giảm nghèo; hoạt động giám sát, phản biện xã hội đối với các chương trình XĐGN; hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ vốn, kỹ thuật, giáo dục, y tế cho hộ nghèo. Điều này cho thấy, các tổ chức đoàn thể đã và đang tham gia thực hiện và triển khai các chương trình giảm nghèo, một cách tích cực với các loại hình hoạt động “rất đa dạng và phong phú”, từ đó đã góp phần đáng kể vào việc huy động và tăng cường nguồn lực cho XĐGN, những thành tựu giảm nghèo chưa bao giờ thiếu vắng vai trò của các tổ chức đoàn thể. Mặc dù các hoạt động, cách làm của mỗi tổ chức đoàn thể, mạng lưới xã hội có sự khác nhau nhưng đều có chung mục đích giúp đỡ các hộ nghèo nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống.

 

 

2) Đánh giá khách thể của quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững

Khách thể của quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững là những kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo thông qua các công cụ, phương tiện quản lý chính sách giảm nghèo. Kết quả XĐGN là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá thực trạng về khách thể của quản lý phát triển xã hội đối với công tác giảm nghèo.

Trong thời gian qua, Chính phủ đã nỗ lực trong công tác chỉ đạo thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững với tinh thần “cả nước chung tay vì người nghèo- không để ai bỏ lại ở phía sau”. Cho nên, nhiều chương trình, chính sách giảm nghèo đã triển khai có hiệu quả, góp phần làm giảm tỷ lệ nghèo của cả nước. Thực hiện Quyết định 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020, với mục tiêu tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống bình quân từ 1%-1,5%/năm. Ở bảng số liệu 1 cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo cả nước theo tiêu chí đa chiều giảm từ 9,2% của năm 2016 xuống còn 4,8% của năm 2020. Điều này cho thấy, kết quả giảm nghèo đã đạt được mục tiêu theo tinh thần của Quyết định 59 của Thủ tướng Chính phủ.

 

 Bảng: Tỷ lệ hộ nghèo cả nước (%)

 

2004

2008

2012

2016

Theo tiêu chí đa chiều

 

2016

2017

2018

2020

CẢ NƯỚC

18,1

13,4

11,1

5,8

9,2

7,9

6,8

4,8

Thành thị

8,6

6,7

4,3

2,0

3,5

2,7

1,5

1,14

Nông thôn

21,2

16,1

14,1

7,5

11,8

10,8

9,6

7,06

Ðồng bằng sông Hồng

12,7

8,6

6,0

2,4

3,1

2,6

1,9

1,34

Tây Nguyên

29,2

21,0

17,8

9,1

18,5

17,1

13,9

11,02

Ðông Nam Bộ

4,6

2,5

1,3

0,6

1,0

0,9

0,6

0,32

Ðồng bằng sông CửuLong

15,3

11,4

10,1

5,2

8,6

7,4

5,8

4,17

(Nguồn: TCTK, www.gso.gov.vn)

 

           Theo báo cáo kinh tế - xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá, “chương trình mục tiêu quốc giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 được triển khai mạnh mẽ, chuyền từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẫn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3,0% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2020 giảm trên 1,4%/năm”[10]. Thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2018 tăng khoảng 1,4 lần so với cuối năm 2015, dự kiến đến cuối năm 2020 thu nhập hộ nghèo tăng 1,6 lần, vượt chỉ tiêu đề ra là 1,5 lần. Mức độ bao phủ bảo hiểm xã hội năm 2020 đạt 32,7%[11]. Diện tích bình quân nhà ở tăng từ 22m2/người năm 2015 lên 24m2/người năm 2020.[12] Kết cấu hạ tầng thiết yếu ở huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường. Đời sống người dân không ngừng cải thiện; tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản[13]. Rõ ràng, công tác giảm nghèo theo tiêu chuẩn đa chiều đã có những kết quả tích cực.

Mặc dù vậy, trong quá trình thực hiện công tác này vẫn còn nhiều bất cập và điều này đã được Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận “kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thật sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; còn tình trạng lợi dụng chính sách giảm nghèo để trục lợi. Mức độ thụ hưởng văn hóa giữa các vùng, miền còn khoảng cách lớn. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi còn rất cao, giảm nghèo thiếu bền vững. Khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn rất khó khăn[14]. Mức độ phân hóa thu nhập giữa nhóm có thu nhập thấp nhất và cao nhất có xu hướng tăng từ 9,2 lần năm 2010[15] lên 10,2 lần năm 2019[16] và giảm xuống còn 8,4 lần năm 2020.

Tình trạng lõi nghèo vẫn còn tập trung vào nhóm cư dân ở nông thôn và đồng bào dân tộc thiểu số. Theo Tổng Cục thống kê, tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều ở thành thị chỉ còn 1,5% so với 9,6% của nông thôn. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo của các hộ dân tộc vùng DTTS là 35,5%, mặc dù có giảm so với năm 2015 nhưng vẫn cao gấp 3,5 lần tỷ lệ chung của toàn quốc[17]. Tình trạng giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng kinh tế xã hội, Đông Nam bộ là vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất (0,32%), tiếp đến là đồng bằng sông Hồng (1,34%), đồng bằng sông Cửu Long (4,17%), Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (6,51%) và tỷ lệ hộ nghèo cao nhất tập trung ở Trung du và miền núi phía Bắc (14,38%) và Tây Nguyên (11,02%). Có thể nói rằng, giảm nghèo chưa có sự đồng bộ giữa các vùng kinh tế- xã hội, nông thôn – thành thị và đồng bào dân thiểu số. Sở dĩ các vùng kinh tế- xã hội có tỷ lệ hộ nghèo cao là do các vùng này có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số; điều kiện đi lại còn rất khó khăn, đất đai ở các vùng núi bị xói mòn, thiếu màu mỡ…, đã làm ảnh hưởng ít nhiều đến canh tác sản xuất cho nên năng suất cây trồng, vật nuôi không cao và cộng với sự khắc nghiệt của thời tiết trong những năm qua.  

Vì thế, cần có các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững, góp phần hạn chế những bất cập trong công tác này, thu hẹp khoảng cách thu nhập và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản giữa các nhóm xã hội trong giai đoạn tới.

 

 

3. Một số giải pháp thực thi chính sách giảm nghèo bền vững từ tiếp cận quản lý phát triển xã hội

Nhìn từ tiếp cận quản lý phát triển xã hội đối với giảm nghèo bền vững đã góp phần thúc đẩy thành công các mục tiêu giảm nghèo bền vững ở nước ta trong thời gian qua; tuy nhiên, vẫn còn không ít “lỗ hổng” trong quá trình thực thi chính sách này ở nhiều địa phương và nhiều nhóm xã hội. Những bất cập này xuất phát từ nhiều yếu tố tác động cả chủ thể và khách thể quản lý. Vì thế, để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý phát triển xã hội trên lĩnh vực giảm nghèo, Đảng ta chỉ rõ phương hướng “quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, đảm bảo an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội… Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”[18]. Đồng thời, “đẩy mạnh tuyên truyền mục tiêu giảm nghèo sâu rộng, khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và các nguồn lực hỗ trợ của nhà nước, của cộng đồng để thoát nghèo. Tiếp tục thược hiện mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững”[19]. Với tinh thần chỉ đạo của Đảng tại Đại hội lần XIII, để công tác này có hiệu quả hơn trong thời gian tới thì chúng tôi đề xuất một số kiến nghị hàm ý chính sách như sau:

 

Một là, từ tiếp cận quản lý phát triển xã hội cho thấy việc rà soát tổng thể hệ thống các chính sách, chương trình liên quan đến giảm nghèo nhằm hạn chế sự chồng chéo về các nội dung trong các chính sách, dự án giảm nghèo; hạn chế sự chồng chéo trong phân công các chủ thể thực hiện. Cần có sự nhất quán trong khâu chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương; Chính phủ, các Bộ, ngành và các địa phương bổ sung, sửa đổi cơ chế, hệ thống chính sách giảm nghèo mới ngày càng phù hợp hơn. Ngoài ra, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cần nghiên cứu và điều chỉnh lại bộ tiêu chí ra soát hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều đảm bảo sự phù hợp với tình hình thực tiễn và vùng miền, tộc người. Có như vậy thì góp phần rà soát đúng đối tượng nghèo, hỗ trợ đúng địa chỉ và thực hiện tốt tinh thần chỉ đạo của Chính phủ “không ai bị bỏ lại ở phía sau”. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn không ổn định, thường xuyên thay đổi đã ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành trong thực hiện giảm nghèo ở địa phương cơ sở. Chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ này ở cấp huyện, cấp xã chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực, kinh nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý của chương trình ở địa phương chưa đồng đều, hạn chế đến hiệu quả công tác tham mưu cho các cấp chính quyền. 

 

Hai là, chính quyền cấp cơ sở cần phát huy tính tích cực của người nghèo trong quá trình ban hành và thực thi chính sách liên quan đến giảm nghèo. Cần lắng nghe tiếng nói từ chính chủ thể người nghèo trong hoạch định và thực thi, giám sát chính sách. Sự tham gia của người nghèo vào chu trình chính sách sẽ là cơ sở cho việc ban hành chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như nhu cầu của họ. Sự tham gia của người dân, đặc biệt là người nghèo sẽ góp phần vào công tác kiểm soát và quản lý có hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ cho người nghèo nhằm tránh thất thoát và tham nhũng trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo. Tăng trách nhiệm giải trình, thực hiện công khai minh bạch kịp thời mọi chủ trương, chính sách và nguồn lực giảm nghèo cho người dân là giải pháp cần được quan tâm mọi lúc, mọi nơi.

 

Ba là, chú trọng cải thiện vốn sinh kế đối với nhóm người nghèo. Nguyên nhân chính dẫn đến một bộ phận người nghèo không có khả năng thoát nghèo là do thiếu vốn sinh kế, vì vậy để giảm nghèo bền vững thì cần có tổng tích hợp các biện pháp để cải thiện sinh kế của người nghèo. Trong đó, đặc biệt quan tâm đến biện pháp nâng cao vốn con người (trình độ học vấn, sức khỏe, kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, tay nghề…); đảm bảo vốn tự nhiên và vốn xã hội của người nghèo. Nghiên cứu và hỗ trợ những hộ gia đình nghèo không có tư liệu sản xuất tham gia vào dòng di cư nội địa và quốc tế. Các chương trình hỗ trợ có thể là vay vốn, đào tạo nghề để cho họ có thể tìm kiếm việc làm ở nơi đến một cách dễ dàng và nhanh chóng thích nghi với môi trường đô thị để hạn chế tình trạng đời sống bấp bênh và dễ tổn thương ở các đô thị lớn. Đồng thời nên có cơ chế thu hút nguồn tiền gửi của người di cư gửi để đầu tư vào phát triển kinh tế ở địa phương góp phần thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo ở nông thôn một cách bền vững.

 

Bốn là, tiến tới có giải pháp hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ quản lý đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững; rà soát, tích hợp, giảm chồng chéo, trùng lắp chính sách giảm nghèo bền vững. Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu về hộ nghèo chưa được thống nhất trong cả nước vì vậy là một thách thức trong việc quản lý và giám sát các kết quả đạt được cũng như cập nhật về thực trạng hộ nghèo một cách hệ thống trên phạm vi quốc gia. Để quản lý được tốt hơn cần có cơ sở dữ liệu người nghèo trong đó phân loại theo các nhóm xã hội như về cơ cấu độ tuổi; dân tộc; giới tính; vùng miền; cần phân loại các nguyên nhân dẫn đến nghèo (bệnh tật nan y, thiếu vốn, chây lười lao động, mất sức lao động …) để từ đó có những giải pháp giảm nghèo bền vững phù hợp với từng nhóm đối tượng.

 

Năm là, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tham mưu hoạch định và thực thi chính sách giảm nghèo. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi mục tiêu giảm nghèo. Thực tế cho thấy, nhiều chính sách, chương trình được hoạch định ra chưa phù hợp với thực tế và gặp không ít khó khăn trong quá trình thực hiện. Một trong những nguyên nhân là do năng lực tham mưu hoạch định chính sách còn hạn chế. Để chính sách giảm nghèo hiệu quả thì đội ngũ cán bộ làm công tác này cần phải nghiên cứu và thâm nhập vào thực tế nhiều hơn; tích cực lắng nghe tiếng nói từ phía người dân. Đồng thời, cũng có biện pháp, chế tài đối với đội ngũ cán bộ làm công tác khi tham mưu chính sách không phù hợp.

 

Đặng Thị Ánh Tuyết[2] – Phan Thuận[3]

 



[1]Bài viết dựa vào kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Bộ 2020-2021: “Quản lý phát triển xã hội bền vững trong điều kiện mới”, Viện Xã hội học và Phát triển là cơ quan chủ trì.

[2] PGS,TS Học viện CTQG Hồ Chí Minh

[3] Ths, NCS, Học viện Chính trị khu vực IV, Cần Thơ.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tập 1, Nxb CTQG-Sự thật, Hà Nội, trang 67.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 1, trang 85.

[6] Phạm Ngọc Thanh, Quản lý phát triển Xã hội tại Tây Nguyên trong xóa đói giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr 24

[7] UNDP (2009). Rà soát tổng quan các chương trình, dự án giảm nghèo ở Việt Nam. Hà Nội, trang 11-13.

[8] UNDP (2009), Sđd, trang 15

[9] Đỗ Kim Chung (2016), Nghiên cứu đáng giá ảnh hưởng tổng thể về kinh tế xã
hội của các chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2015, Báo cáo khoa học tổng hợp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập 2, Nxb CTQG-Sự thật, Hà Nội, trang 43.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 2, trang 42

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 2, trang 42,

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 2,  trang 43

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 2,  trang 72-73

[15] Tổng Cục thông kê (2011), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2010, Nxb Thông Kê, Hà Nội.

[16] Tổng Cục thông kê (2020), Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2019, Nxb Thông Kê, Hà Nội.

[17]Ủy ban dân tộc và Tổng Cục thống kê (2020), Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb Thống Kê, Hà Nội, trang 49

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 1,  trang 116.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Sđd, tập 2,  trang 140.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết