Thứ Ba, ngày 19 tháng 03 năm 2024

“Định hướng chiến lược phát triển và ứng dụng KHCN & ĐMST đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới”

Ngày phát hành: 02/07/2020 Lượt xem 11761

                                                   

1.  Đánh giá thực trạng thực hiện Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020

a. Kết quả đạt được

Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 (sau đây gọi tắt là Chiến lược) được ban hành theo Quyết định số 418-QĐ/TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ, đã đề ra mục tiêu, định hướng, giải pháp chủ yếu phát triển KH&CN quốc gia giai đoạn 2011-2020. Sau 10 năm thực hiện Chiến lược đã đạt được kết quả như sau:  

- Nhận thức của cấp ủy, lãnh đạo; của các tổ chức, doanh nghiệp và người dân đối với vai trò của KHCN&ĐMST trong phát triển kinh tế - xã hội ngày càng được nâng cao.

Hầu hết các cấp ủy, tổ chức đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương đã thể hiện trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chiến lược và các văn bản của Đảng và Nhà nước về phát triển KH&CN. Tư duy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được đổi mới, pháp luật về khoa học và công nghệ được hoàn thiện, công tác quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ, cơ chế đầu tư và tài chính, chính sách đối với cán bộ khoa học có tiến bộ, đã tạo môi trường ngày càng thuận lợi cho hoạt động khoa học và công nghệ.  

Nhận thức chung của doanh nghiệp và người dân về vai trò của KH&CN đối với sản xuất và đời sống có bước chuyển đáng kể. Một số doanh nghiệp đã ưu tiên đầu tư, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu KH&CN hiện đại vào sản xuất, đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ tạo bước tiến mới nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tiềm lực KH&CN quốc gia được tăng cường

 Tiềm lực KH&CN quốc gia ngày càng được nâng cao theo hướng phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng và địa phương, gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KH&CN trong từng giai đoạn.

Nguồn nhân lực KHCN được gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Cả nước có hơn 63.000 cán bộ NC&PT (7 người/vạn dân). Nếu so sánh với các nước ASEAN về số cán bộ nghiên cứu trên 1 vạn dân thì Việt Nam đứng thứ 4 (với 7,02) sau Singapo (69,2), Malaysia (23,6) và Thái Lan (12,1). Bên cạnh đội ngũ cán bộ KHCN đang làm việc trong các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp trong nước, lực lượng các nhà khoa học và chuyên gia người Việt ở nước ngoài là nguồn lực có nhiều tiềm năng, để kết nối và thúc đẩy dòng lưu chuyển kỹ năng và ý tưởng từ bên trong và bên ngoài biên giới quốc gia, để bổ sung lẫn nhau, cùng nhau đồng sáng tạo vì các mục tiêu phát triển chung của đất nước.

Mạng lưới các tổ chức KHCN được cải thiện cả về chất và lượng: Đến nay, cả nước có 3.590 tổ chức đăng ký hoạt động KHCN, 303 doanh nghiệp KHCN, 13 khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và 8 khu công nghệ thông tin tập trung. Riêng 3 khu công nghệ cao Hòa Lạc, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đã thu hút 217 dự án đầu tư với số vốn gần 10 tỷ USD, tạo hơn 50.000 việc làm.

Đầu tư tài chính cho KHCN (từ xã hội và doanh nghiệp) ngày càng gia tăng mạnh mẽ, tỷ trọng đầu tư giữa Nhà nước và doanh nghiệp được cải thiện theo chiều hướng tích cực (52/48) so với tỷ lệ (70/30) của đầu thập kỷ.

Hạ tầng KHCN được cải thiện: Hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành tiếp tục được quan tâm đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động. Hạ tầng thông tin KHCN đã có bước phát triển về chất trên cơ sở ứng dụng rộng rãi mạng Internet, các mạng tiên tiến và các thành tựu KHCN hiện đại về số và thư viện điện tử. Đề án Tri thức Việt số hóa được chính thức khởi động.

Thị trường khoa học công nghệ phát triển mạnh hơn; đã có 15 sàn giao dịch, 50 vườn ươm công nghệ. Tổng giá trị các giao dịch mua bán công nghệ tăng mạnh hàng năm. Công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ được tăng cường. Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia ngày càng tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế[1]. Cơ sở dữ liệu về công nghệ và chuyên gia được hình thành.

Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được quan tâm hơn. Đến nay, đã có hơn 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST, gần 70 khu không gian làm việc chung, hình thành nhiều quỹ đầu tư mạo hiểm. Số đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp tăng nhanh. Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, năm 2019 xếp thứ 42/129, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.

Nhìn chung, tiềm lực KH&CN đã được phát triển khá đồng đều và toàn diện, trong đó đã có sự tập trung nhất định vào các ngành trọng điểm và địa phương trọng điểm.

-  Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN

Nhìn chung, đã hình thành đồng bộ cơ chế, chính sách khuyến khích sáng tạo, trọng dụng nhân tài và đẩy mạnh ứng dụng KH&CN. Cụ thể là:

+ Tập trung xây dựng và đổi mới mạnh mẽ chính sách KH&CN với 03 trụ cột chính: Đầu tư và cơ chế tài chính; quản lý tổ chức và nhiệm vụ KH&CN; chính sách đối với nhân lực, nhân tài trong lĩnh vực KH&CN. Sự đổi mới đồng bộ đó có vai trò quan trọng để nâng cao hiệu quả của hoạt động KH&CN nói chung, trong đó hướng đến tạo điều kiện để phát huy tài năng, tiềm năng của cán bộ khoa học nói riêng.

+ Cơ chế quản lý nhiệm vụ không còn mang nặng tính hành chính, xin cho mà dựa trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và phản biện độc lập theo thông lệ quốc tế. Đã cố gắng cân đối, đầu tư đến ngưỡng cho các nhiệm vụ KH&CN ưu tiên tại các chương trình KH&CN quốc gia.

+ Các chính sách, quy định về việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN tiếp tục được áp dụng. Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN với nội dung đáng chú ý là việc đào tạo, bồi dưỡng theo ê kíp các nhóm nghiên cứu làm việc trong các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp KH&CN nhằm nâng cao khả năng phối hợp để triển khai hiệu quả nhiệm vụ KH&CN quan trọng.

- Hội nhập quốc tế về KHCN&ĐMST

Hợp tác quốc tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần hỗ trợ nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về KH&CN với hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế và khu vực; là thành viên của hơn 100 tổ chức quốc tế và khu vực về KH&CN; ký kết và thực hiện hơn 80 hiệp định, thỏa thuận hợp tác KH&CN cấp Chính phủ và cấp Bộ. Mạng lưới đại diện KH&CN Việt Nam đã được hình thành tại 21 địa bàn trọng điểm ở 12 quốc gia, vùng lãnh thổ.

Hoạt động hợp tác quốc tế đa phương được duy trì và phát triển, góp phần nâng cao vị thế và vai trò về KH&CN của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Các hoạt động hợp tác về sở hữu trí tuệ tiếp tục được triển khai trong khuôn khổ các hợp tác đa phương, hợp tác song phương và hợp tác trực tiếp với các cơ quan sở hữu trí tuệ quốc gia và khu vực. Nhiều nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ dưới hình thức Nghị định thư đã được triển khai nhằm tranh thủ thế mạnh của đối tác nước ngoài về công nghệ, trình độ nghiên cứu, trang thiết bị và tài chính,... Cơ chế, chính sách thu hút, tạo thuận lợi cho trí thức người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp xây dựng và phát triển đất nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện.

- KHCN&ĐMST đã đóng góp quan trọng trong cải thiện chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao rõ rệt năng suất lao động, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.

+ Ở phạm vi quốc gia: Vai trò của KHCN&ĐMST thể hiện trên các mặt như sau:

  • KHCN&ĐMST góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước đạt khoảng 6,35%/năm trong cả giai đoạn 2011-2020, thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới[2]; nâng GDP bình quân đầu người tăng từ 1.332 USD năm 2010 lên hơn 3.000 USD năm 2020, đạt mục tiêu chiến lược đề ra
  • KHCN&ĐMST góp phần tăng năng suất và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm, đạt tốc độ cao nhất trong các nước ASEAN.

+ Ở phạm vi các ngành, các lĩnh vực: Vai trò của KHCNĐMST được thể hiện cụ thể ở các lĩnh vực KH&CN, ngành và lĩnh vực kinh tế-xã hội, cụ thể là:

  • Lĩnh vực KH&CN: Khoa học xã hội đã đóng góp tích cực vào cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các ngành khoa học cơ bản, khoa học công nghệ liên ngành, khoa học mới tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam đã tiệm cận trình độ các nước trong khu vực về công nghệ nano, tế bào gốc, giải mã gen cây trồng, vật nuôi và giải mã bộ gen người.
  • Ngành kinh tế-xã hội: KHCN&ĐMST đã gắn kết, song hành phục vụ phát triển, tái cơ cấu ngành, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển KT-XH của đất nước. Có thể kể đến các kết quả nổi bật như:

Trong nông nghiệp, KHCN&ĐMST đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi. Mức độ tổn thất của nông sản đã giảm đáng kể (lúa gạo còn dưới 10%,...). Mức độ cơ giới hóa ở khâu làm đất đối với các loại cây hàng năm (lúa, mía, ngô, rau màu) đạt khoảng 94%; khâu thu hoạch lúa đạt 50% (các tỉnh đồng bằng đạt 90%). Kim ngạch xuất khẩu nông sản năm 2018 ước đạt 40,02 tỷ USD; tiếp tục duy trì 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 17 tỷ USD, trong đó có 05 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, rau quả, cà phê, hạt điều). Đã xuất hiện nhiều mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghiệp công nghệ cao với sự đầu tư mạnh của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn trong nước và nước ngoài.

 

 

Trong công nghiệp, xây dựng, giao thông, các nhiệm vụ KH&CN chú trọng vào hỗ trợ phát triển sản phẩm của doanh nghiệp theo chuỗi giá trị để tạo ra sản phẩm, hàng hóa mang nhãn hiệu Việt Nam, có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường; nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngành công nghiệp. Đã làm chủ công nghệ thiết kế, thi công các nhà máy thủy điện lớn, phát triển nguồn điện, lưới điện, hệ thống điều khiển - điều độ - thông tin - viễn thông điện lực, công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc đạt chuẩn quốc tế; các sản phẩm công nghệ sinh học hỗ trợ phòng và điều trị bênh ung thư, rối loạn mỡ máu, tim mạch, điều hoà hoócmon, các bệnh nhiễm HIV/AIDS, viêm gan,... với giá thành bằng khoảng 60-70% giá của sản phẩm ngoại nhập.

  • Lĩnh vực kinh tế-xã hội:

Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, sự phát triển của công nghệ giúp cho phát triển các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các mô hình kinh doanh mới có giá trị gia tăng cao, phục vụ tối đa nhu cầu của con người. Vùng phủ sóng 4G của các doanh nghiệp viễn thông ngày càng mở rộng và có khả năng cung cấp dịch vụ cho trên 95% dân số; tập trung nghiên cứu để phát triển mạng 5G.

Trong lĩnh vực y tế, các nghiên cứu trong lĩnh vực y - dược đã góp phần không nhỏ trong công tác bảo vệ nâng cao sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh và khám chữa bệnh: Nghiên cứu, sản xuất vắc xin phục vụ chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia; thuốc điều trị ung thư, tim mạch, tiểu đường, chống thải ghép..., mang lại nguồn thu lớn cho doanh nghiệp. Nhiều thành tựu trong lĩnh vực cấy ghép tạng, ghép đa tạng,… là kết quả của quá trình thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia.

- KH&CN góp phần phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, các chuyên gia trong và ngoài nước tiếp tục ứng dụng kỹ thuật đồng vị trong việc nghiên cứu và quản lý nguồn nước ngầm, đặc biệt đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bước đầu triển khai nghiên cứu đề xuất các giải pháp đảm bảo an ninh nguồn nước nội địa và liên quốc gia[3].

Trong lĩnh vực môi trường, thực hiện đánh giá mức độ tổn thương môi trường, phục vụ công tác quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường góp phần phát triển kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững của Việt Nam; đánh giá mức độ an toàn đến môi trường, sức khỏe con người, qua đó phục vụ công tác quy hoạch khai thác, sử dụng chế phẩm sinh học vào công tác bảo vệ môi trường góp phần phát triển kinh tế.

Trong lĩnh vực dự báo, phòng chống tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu, kết quả nghiên cứu đã cung cấp các công cụ dự báo cho các địa phương như: Công nghệ dự báo, cảnh báo lũ, ngập lụt cho hệ thống sông; công nghệ dự báo lũ, dòng chảy, hạn,… phục vụ vận hành liên hồ chứa được ứng dụng kỹ thuật mới và các mô hình mới. Nghiên cứu và xây dựng được tập bản đồ Atlas khí hậu và biến đổi khí hậu (95 bản đồ) nhằm cung cấp những thông tin cơ bản nhất về khí hậu và biến đổi khí hậu phục vụ các hoạt động phát triển KT-XH; tăng cường năng lực thông tin khí tượng thủy văn trong việc đáp ứng yêu cầu thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu; xây dựng luận cứ khoa học cho việc cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam.

Trong lĩnh vực quốc phòng, bảo vệ an ninh quốc gia, khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự tập trung nghiên cứu, từng bước làm chủ thiết kế, chế tạo một số loại vũ khí thông thường; tiếp cận một số lĩnh vực công nghệ mũi nhọn có trình độ cao; tăng cường chuyển giao tiến bộ KH&CN. Chế tạo thành công máy trả lời MTL-VN2 trang bị cho trực thăng Mi-8 và cường kích Su-22M4, thiết bị mã mật 6110-VN2 cho tiêm kích đa năng Su-30MK2 và lắp đặt thử nghiệm hệ thống cho các tàu thuộc Quân chủng Hải quân giúp nâng cao năng lực chiến đấu tại chỗ và tiết kiệm NSNN.

Trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, thành tựu KH&CN đã được ứng dụng vào các lĩnh vực quản lý an ninh thông tin, công tác điện đài và nâng cao hiệu quả công tác an ninh thông tin, phản gián điện đài, công tác ngoại tuyến, quản lý xuất nhập cảnh. Các nghiên cứu khoa học đã góp phần giải quyết một số vấn đề phức tạp nổi lên trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo trật tự an toàn xã hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, phòng, chống tội phạm có tổ chức, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm về kinh tế, ma tuý, tham nhũng, môi trường, tội phạm hình sự nguy hiểm, hoạt động có tổ chức, liên tỉnh, liên tuyến.

+ Hoạt động KHCN&ĐMST của các doanh nghiệp được tăng cường. Nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh mới dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo, nhất là công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Đã hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế tư nhân tiên phong trong đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ, có thương hiệu và năng lực cạnh tranh trong nước, khu vực và quốc tế như Viettel, Tập đoàn VinGroup, Trường Hải, Thành Công, Tập đoàn Hoa Sen, Tập đoàn Hòa Phát, Công ty TNHH Hòa Bình Minh, Công ty thép Pomina, Công ty CP thép Nam Kim,... Năm 2017, Tập đoàn Viettel được xếp hạng đứng thứ hai trong ASEAN và trong tốp 50 thương hiệu viễn thông lớn nhất thế giới với giá trị thương hiệu đạt 2,68 tỷ USD. Đủ khả năng thiết kế, chế tạo thành công nhiều công nghệ, thiết bị đạt tiêu chuẩn quốc tế[4].

Từ những phân tích trên đây cho thấy đóng góp của KHCN&ĐMST vào phát triển kinh tế được thể hiện rõ ràng, toàn diện và có chiều sâu.

b. Những hạn chế, yếu kém

- Hạn chế trong phát triển tiềm lực KH&CN quốc gia (tổ chức KH&CN, nhân lực KH&CN, đầu tư cho KHCN&ĐMST, thông tin KH&CN, hạ tầng kỹ thuật KH&CN, thị trường KH&CN, hệ sinh thái khởi nghiệp, năng lực KHCN&ĐMST của doanh nghiệp,…).

+ Trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực Đông Nam Á. Trừ một số lĩnh vực có tốc độ đổi mới công nghệ khá nhanh như công nghệ thông tin - viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính - ngân hàng,…nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, ĐMST của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.

+ Đầu tư cho KH&CN còn hạn chế; tỷ lệ chi cho KH&CN trên GDP chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế của đất nước. Đội ngũ cán bộ KH&CN tuy có tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Thiếu các tập thể khoa học mạnh, các chuyên gia đầu ngành có khả năng dẫn dắt các hướng nghiên cứu mới hoặc chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ quốc gia ở trình độ quốc tế. Hợp tác quốc tế chưa đi vào chiều sâu, thiếu trọng tâm, chưa chú trọng đến chuyển giao, tiếp thu và làm chủ công nghệ tiên tiến. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị cho hoạt động khoa học, công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ.

- Hạn chế trong đổi mới cơ chế quản lý KH&CN;

Đổi mới cơ chế quản lý KH&CN còn chưa đặt ra được so với mục tiêu đề ra và yêu cầu của bối cảnh mới. Đầu tư cho khoa học, công nghệ hiệu quả chưa cao. Việc xã hội hoá các đơn vị sự nghiệp khoa học, công nghệ công lập còn chậm. Thiếu cơ chế, chính sách hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo và doanh nghiệp thực hiện đổi mới, ứng dụng công nghệ, đặc biệt là các công nghệ tiên tiến, thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

- KH&CN chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội

+ Tăng trưởng kinh tế của nước ta vừa qua chủ yếu dựa vào tăng vốn và lực lượng lao động giá rẻ, chưa dựa vào tăng trưởng năng suất và KH&CN.

+ Năng suất lao động xã hội của Việt Nam còn khiêm tốn so với các nước trong khu vực.

+ KHCN&ĐMST chưa đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiên tiến, hiện đại. Còn thiếu vắng những ngành kinh tế dựa trên KH&CN như các ngành công nghệ cao.

+ Thiếu những doanh nghiệp dựa trên KH&CN tầm quốc tế và khu vực. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế. Doanh nghiệp chưa thực sự là trung tâm, đóng vai trò quyết định cho đổi mới sáng tạo. Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất vẫn đang sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới. Mối liên kết giữa nghiên cứu với đào tạo, giữa nghiên cứu với thị trường và doanh nghiệp còn yếu.

Như vậy, mặc dù trong giai đoạn vừa qua, KHCN&ĐMST đã đạt được kết quả đáng ghi nhận, song thực tế cho thấy tăng trưởng kinh tế của nước ta vừa qua chủ yếu dựa vào tăng vốn và lực lượng lao động giá rẻ, chưa dựa vào tăng trưởng năng suất và KH&CN. Nói cách khác, KH&CN chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.

2. Nguyên nhân KH&CN chưa thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội

- Tiềm lực KH&CN của đất nước còn hạn chế về trình độ KH&CN, năng lực hấp thu đổi mới công nghệ, ĐMST của doanh nghiệp, đầu tư cho KH&CN còn hạn chế,…

- Nền kinh tế Việt Nam còn ở trình độ thấp; mô hình tăng trưởng kinh tế chưa tạo điều kiện phát triển và ứng dụng KHCN&ĐMST; doanh nghiệp chủ yếu là quy mô nhỏ…

Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, cách thức vận hành nền kinh tế trong một thời gian dài chưa tạo áp lực mạnh đối với nhu cầu phát triển và ứng dụng KH&CN.

Nhu cầu về đổi mới công nghệ kém do cạnh tranh và tăng trưởng của doanh nghiệp chưa dựa vào nhân tố công nghệ mà còn dựa chủ yếu vào tăng quy mô vốn đầu tư, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và các lợi ích ngắn hạn. Đây là điểm yếu chung của các nền kinh tế thuộc nhóm sơ khởi[5], trong đó có Việt Nam.

- Còn có khoảng cách giữa nhận thức và hành động của các cấp, các ngành về vai trò của KH&CN dẫn tới các khó khăn trong tổ chức thực hiện, đưa pháp luật, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực KH&CN vào cuộc sống. Nhìn chung, nhận thức của các cấp, các ngành và các địa phương về vai trò của KH,CN&ĐMST còn chưa đầy đủ, toàn diện.

- Xã hội và các cơ quan quản lý tài chính chưa hiểu rõ đặc thù của hoạt động KH&CN, chưa chấp nhận rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, dẫn tới các khó khăn trong đánh giá hiệu quả nhiệm vụ KH&CN và yêu cầu hoàn chi ngân sách. Đặc thù của khoa học là quá trình thử và sai, có độ trễ (đôi khi tính bằng thập kỷ) để kết quả KH&CN được ứng dụng thành công và mang lại giá trị gia tăng. Tư duy quá xem trọng việc bảo toàn và nuôi dưỡng nguồn thu ngân sách mà không tính đến các lợi ích to lớn, gián tiếp và trong dài hạn mà KH&CN mang lại cho xã hội là một cản trở trong quá trình xây dựng chính sách hỗ trợ hoạt động KH&CN.

Các nguyên nhân này có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, toàn diện.

3. Bối cảnh quốc tế và trong nước giai đoạn tới

a. Bối cảnh quốc tế

Trên thế giới đang diễn ra cuộc Cách mạnh công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người. Sức mạnh của mỗi quốc gia tùy thuộc phần lớn vào năng lực KH,CN&ĐMST[6]. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.

Xu thế mới đang chi phối tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong xu thế mới, những yếu tố mà các nước như Việt Nam đã và đang tự coi là có ưu thế như lực lượng lao động thủ công trẻ, dồi dào sẽ không còn là thế mạnh nữa, thậm chí bị đe dọa. Trong tương lai, người dân có thể mất việc làm, bởi những lĩnh vực mà công nghệ robot có thể tác động tới, từ các lĩnh vực dệt may, dịch vụ, giải trí cho đến y tế, giao thông, giáo dục.... Do đó, các xu thế mới không chỉ tạo ra cơ hội mà còn là đặt ra thách thức đối với Việt Nam hiện nay. Nếu chúng ta biết tận dụng tối đa và có hiệu quả những điều kiện và tiền đề đang có thì không chỉ Cách mạnh công nghiệp 4.0 nói riêng, mà cả cách mạng KH&CN nói chung, có thể được triển khai và mang lại những hiệu quả tích cực ở nước ta trong những thập kỷ tới, có thể biến nó trở thành công cụ quyết định trong việc rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển trên thế giới[7].

b.  Bối cảnh trong nước

Ở trong nước, sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới và hơn 10 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi và lấy lại đà tăng trưởng, đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Đặc biệt là những năm gần đây đã đạt được những thành tựu đáng kể, mức tăng trưởng GDP đạt 6,81% năm 2017, cao hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân 6,0% giai đoạn 2008-2017 và cao hơn đáng kể so với mức bình quân khối ASEAN-5 (lần lượt là 4,9% và 5,3%). Năm 2018 kinh tế Việt Nam đã có những thành tích nổi bật. Tăng trưởng kinh tế năm 2018 cao nhất trong 10 năm qua (7,08%). Về cơ cấu kinh tế năm 2018, khu vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng 14,5% GDP, công nghiệp 34,3%, dịch vụ 41,2%. Đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP là 43,5%. GDP trên đầu người ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên cùng với môi trường chính trị ổn định đã tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh CNH, HĐH và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

 

 

Trên cơ sở bước phát triển đã đạt được, mục tiêu phát triển kinh tế được đề ra trong thời gian tới là đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại vào năm 2045. Cụ thể, phấn đấu là quốc gia thu nhập trung bình cao trước năm 2025 (GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD), đạt GDP bình quân đầu người trên 6.000 USD vào năm 2030 và trở thành nước có thu nhập cao trước năm 2045.

Trong những năm qua, thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng của Việt Nam chủ yếu dựa trên vốn đầu tư và lao động. Trong thời gian tới, tăng trưởng kinh tế sẽ phải dựa ngày càng nhiều vào tăng năng suất lao động. Động lực tăng năng suất quan trọng nhất chính là ĐMST, cụ thể là ĐMST được dẫn dắt bởi công nghệ. Bởi vậy, cần phải tăng cường hệ thống ĐMST quốc gia, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò là trung tâm và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh. Để làm được điều đó, phát triển dựa trên KH&CN cần là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong nội dung phát triển của các ngành, vùng, lĩnh vực.

4. Một số đề xuất về giải pháp lớn để hiện thực hóa vai trò động lực then chốt của KH&CN trong giai đoạn tới

a. Những điểm mới cơ bản về KHCN&ĐMST cần được tập trung thực hiện trong giai đoạn 2021-2030 (bên cạnh KH&CN, bổ sung thêm ĐMST; KHCN&ĐMST đóng vai trò là một trong các đột phá chiến lược trong phát triển đất nước; chủ động tiếp cận CMCN 4.0; chú trọng ứng dụng; …).

- Nhấn mạnh ĐMST và gắn KHCN với ĐMST

+  Khung chính sách và triển khai chính sách KH,CN &ĐMST cần chuyển sang hỗ trợ ứng dụng, áp dụng, hấp thụ công nghệ thay cho đang nghiêng về việc hỗ trợ tạo ra công nghệ.

+ Nhấn mạnh phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, lấy doanh nghiệp là trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ (bên cầu), viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh (bên cung).

- Đề cao KHCN&ĐMST là một trong các đột phá chiến lược trong phát triển đất nước .

- Tăng cường tập trung thúc đẩy áp dụng công nghệ hiện có (phía cầu) và các hoạt động đổi mới sáng tạo không dựa trên R&D. Chiến lược KHCN&ĐMST tới đây cần có một trụ cột về việc áp dụng công nghệ, tích hợp các giai đoạn công nghệ khác nhau để hỗ trợ các doanh nghiệp với trọng tâm bao gồm cả “khuyến” quản lý và “khuyến” công nghệ.  

- Nhấn mạnh vai trò của KHCN&ĐMST trong tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

- Đề cao vai trò chủ động của các cấp, các ngành trong thúc đẩy KHCN&ĐMST. Cụ thể là làm rõ nội dung KHCN&ĐMST trong các chỉ tiêu, chương trình hành động trên mọi lĩnh vực của các cấp, các ngành, địa phương.

Đây chính là những điểm mới cơ bản tạo nên khác biệt của phát triển KHCN&ĐMST trong giai đoạn 10 năm tới. Đồng thời cũng là căn cứ để kỳ vọng sẽ tạo ra được những bước phát triển vượt bậc, đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030.

b. Thực hiện các định hướng và giải pháp chủ yếu trong phát triển KHCN&ĐMST giai đoạn tới.

Các điểm mới cơ bản nêu trên được thể hiện cụ thể ở những định hướng và giải pháp chủ yếu sau đây:

  1. Tập trung xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, tạo nền tảng tăng cường ứng dụng, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển, tiến tới làm chủ một số công nghệ mới;
  2. Tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển nền khoa học Việt Nam. Đặc biệt chú trọng tháo gỡ các rào cản của hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế đang gây khó khăn cho hoạt động KHCN&ĐMST.
  3. Cho phép thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới, chấp nhận rủi ro cho việc triển khai và ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hình kinh doanh mới.
  4. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hình thành các trung tâm nghiên cứu và triển khai, đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
  5. Cơ cấu lại các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ, gắn với nhu cầu xã hội, chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng.
  6. Lựa chọn và tập trung hỗ trợ triển khai nghiên cứu, ứng dụng phát triển công nghệ cho một số ngành và lĩnh vực then chốt.

c. Trong Chiến lược phát triển KHCN&ĐMST giai đoạn 10 năm tới phải thể hiện rõ ràng, cụ thể và có hệ thống các nội dung mới trong các phần như Quan điểm, Mục tiêu, Định hướng, Giải pháp

 Trước mắt, các định hướng và giải pháp chủ yếu cần được thể hiện trong Chiến lược KHCN&ĐMST giai đoạn 2021-2030 mà Bộ KH&CN chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng phê duyệt. Đây cũng chính là thực hiện gắn kết chặt chẽ giữa Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.

 

TS Phạm Văn Hồng

                                                             Viện Trưởng Viện Chiến lược và Chính sách KHCN

Học Viện Khoa học Công nghệ và ĐMST-Bộ KHCN

 

 

 

 

 

 



[1] Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia bao gồm hơn 11.500 TCVN, trong đó tỷ lệ hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực đạt trên 54%.

[2] Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới và UNSTATS, tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2017 cao hơn mức bình quân của nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (5,4%) và các nước Đông Nam Á (5%).

[3] Nghiên cứu giải pháp quy hoạch vùng Đồng Tháp Mười trở thành vùng trữ nước ngọt cho khu vực Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; đánh giá an ninh nguồn nước phục vụ xây dựng quy hoạch tài nguyên nước, áp dụng cho sông Đồng Nai; nghiên cứu tác động của hoạt động tân kiến tạo đối với sự biến đổi dòng chính các lưu vực sông khu vực Miền Trung; ứng dụng công nghệ trong đánh giá, dự báo, vận hành điều tiết nước, giám sát tài nguyên nước, kiểm soát các hoạt động gây ô nhiễm, suy thoái nguồn nước.

[4] Làm chủ công nghệ thiết kế, thi công các nhà máy thủy điện lớn, công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc đạt chuẩn quốc tế; chế tạo thành công thiết bị cơ khí thủy công và nâng hạ siêu trường, siêu trọng; làm chủ các kỹ thuật tiên tiến trong y tế (đặc biệt là kỹ thuật ghép đa tạng, sản xuất vắc xin). Có năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ mới, công nghệ cao trong một số ngành thiết yếu như điện, điện tử, dầu khí, đóng tàu, xây dựng, y tế, thông tin và truyền thông... Việt Nam đã sản xuất được các trạm BTS 4G và nhiều thiết bị viễn thông.

[5] Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) năm 2018 về mức độ sẵn sàng cho tương lai của nền sản xuất trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Việt Nam được xếp vào nhóm Sơ khởi (58 quốc gia).

[6] Tham khảo thêm Phụ lục 4: Vai trò và đóng góp của KH,CN&ĐMST trong phát triển.

[7] Tham khảo thêm Phụ lục 5: Xu hướng KH,CN&ĐMST trên thế giới tới năm 2030.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết