Thứ Năm, ngày 02 tháng 05 năm 2024

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" trong thể chế pháp quyền (phần 2) ​

Ngày phát hành: 23/03/2022 Lượt xem 2068

Xem phần 1: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" trong thể chế pháp quyền (phần 1)

 

 

III. Một số định hướng đổi mới, hoàn thiện cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" trong giai đoạn mới

 

1. Về nhận thức và cách tiếp cận về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”:

Việc gọi đây là “mối quan hệ” lớn, trọng yếu là đúng; tuy nhiên khái niệm “mối quan hệ” thường được dùng trong nghiên cứu, phân tích mang tính chất học thuật, dễ làm cho người ta nhận thức rằng các chủ thể liên quan thiết lập các “mối quan hệ” theo nhận thức chủ quan và “quyền” của mình, không mang tính bản chất ràng buộc tất yếu khách quan. Trên thực tế, đây không chỉ là “mối quan hệ”, mà ở cấp độ cao hơn là một thể chế, cơ chế khách quan về sự tương tác hữu cơ với nhau giữa ba chủ thể trong một thể chế phát triển dân chủ pháp quyền. Bản chất của cơ chế này là phát huy cao vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng, hiệu lực, hiệu quả cao của quản lý của nhà nước, để hướng tới đảm bảo và phát huy cao dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi nguồn lực, sức sáng tạo của nhân dân và của tất cả các chủ thể trong xã hội, tạo động lực phát triển nhanh - bền vững đất nước. Vì vậy, cơ chếĐảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” cần phải được nhận thức và xây dựng phù hợp với yêu cầu khách quan và điều kiện thực tế, trên bình diện chung, cũng như trong từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực, từng đơn vị.

 

2. Cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm quốc tế để nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về bản chất, cấu trúc, cơ chế vận hành củathể chế dân chủ pháp quyền”. Đây không chỉ là một thể chế quản lý xã hội, mà thực chất là một thể chế phát triển của một xã hội dân chủ pháp quyền hiện đại, trong đó là thể thống nhất của Nhà nước pháp quyền - xã hội pháp quyền - con người (công dân) pháp quyền. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” là một cơ chế cốt lõi, cơ bản của thể chế dân chủ pháp quyền. Vì thế, việc xây dựng và hoàn thiện cơ chếĐảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” phải hướng tới xây dựng đồng bộ Nhà nước pháp quyền - xã hội pháp quyền - con người (công dân) pháp quyền.

 

3. Tiếp tục nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn để đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo - cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhất là trong điều kiện đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền. Đây là vấn đề Đảng ta đặc biệt quan tâm, được nhấn mạnh trong gần như tất cả các kỳ Đại hội của Đảng. Trên thực tế đã có những bước tiến rất quan trọng, nhưng cho đến nay vẫn còn không ít những yếu kém, bất cập cần phải được khắc phục, đổi mới, như đã được nêu trong Văn kiện của Đại hội XIII của Đảng. Cần nhận thức rõ và chế định phù hợp một số vấn đề cơ bản sau:

- Nhận thức rõ về “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền”: “Đảng lãnh đạo” được hiểu là Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, tuyên truyền vận động nhân dân tin theo và Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện, giành được sự tín nhiệm, đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân đối với Đảng, đi theo Đảng nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng đề ra. Trong bản chất, sự lãnh đạo của Đảng không có quyền lực áp đặt (nhất là quyền lực nhà nước, quyền lực pháp luật); hay nói đúng hơn Đảng lãnh đạo bằng “quyền lực mềm”, bằng uy tín chính trị của mình (ngay cả khi chưa giành được chính quyền), như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo[1]. Còn “Đảng cầm quyền” là Đảng trực tiếp lãnh đạo chính quyền; Đảng thực hiện sự lãnh đạo thông qua nhà nước - bằng con đường pháp luật (pháp quyền) mà nhân dân ủy quyền cho nhà nước để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Có nghĩa là Đảng trực tiếp “có quyền lực nhà nước”, thông qua quyền lực nhà nước để thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và qua Nhà nước để thực hiện chúng trong cuộc sống.

Như vậy, Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực nhà nước; có những nội dung liên quan mật thiết đến “Đảng lãnh đạo”, nhưng có những nội dung khác với “Đảng lãnh đạo”; “Đảng lãnh đạo” không tất yếu gắn với quyền lực Nhà nước. Khi là đảng cầm quyền, đảng vừa có sự lãnh đạo, vừa có sự cầm quyền gắn bó mật thiết với nhau. Trong đó bản chất lãnh đạo đúng đắn, khoa học, “tất cả vì lợi ích của nhân dân” phải là nền tảng cốt lõi của sự cầm quyền của Đảng.

- Trên cơ sở nhận thức đúng về “lãnh đạo” và “cầm quyền” để xác định đúng “phương thức lãnh đạo” và “phương thức cầm quyền” của Đảng.

Phương thức lãnh đạo của Đảng tập trung chủ yếu ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu thể hiện trong Cương lĩnh, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân tin tưởng, tự nguyện làm theo, thực hiện thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng. Còn phương thức cầm quyền của Đảng tập trung chủ yếu ở thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế của Nhà nước và lãnh đạo - chỉ đạo tổ chức thực hiện bằng hệ thống pháp luật nhà nước, nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách mục tiêu của Đảng đề ra. Khi Đảng cầm quyền, phương thức cầm quyền là sự kế tiếp, gắn kết hữu cơ - biện chứng với phương thức lãnh đạo, nhưng không thể thay thế phương thức lãnh đạo, coi nhẹ phương thức lãnh đạo.

Trong Cương lĩnh của Đảng khảng định “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”; đã nêu rõ các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội[2]. Đồng thời, nhấn mạnh khi Đảng cầm quyền, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền thì một phương thức lãnh đạo rất quan trọng và cơ bản của Đảng đối với Nhà nước là “phương thức lãnh đạo của Đảng chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước; thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống Nhà nước”[3]. Như vậy, có thể hiểu “phương thức cầm quyền” của Đảng là một phương thức lãnh đạo đặc biệt của Đảng: lãnh đạo bằng Nhà nước - thông qua Nhà nước, bằng con đường pháp quyền. Phương thức lãnh đạo này thể hiện tập trung nhất sự hiện thực hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ”. Tuy nhiên, “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, “Không thể buông lỏng lãnh đạo các cơ quan chính quyền, song cũng không thể bao biện công việc của chính quyền”, “Chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước”, “chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”, “Không nên có sự đối lập giữa việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính quyền nhà nước. Sức mạnh của Đảng cầm quyền và sức chiến đấu của nó biểu hiện chính là ở hiệu lực và sức mạnh của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng” “Hiệu lực của bộ máy nhà nước chính là biểu hiện năng lực lãnh đạo của Đảng và thông qua bộ máy nhà nước[4].

 

Như vậy, đòi hỏi phải xử lý một cách rất khoa học - rất thực tiễn giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính quyền nhà nước; phải coi trọng và đề cao đúng đắn vai trò của các tổ chức đảng và các đảng viên, nhất là các đồng chí có trọng trách cao trong hệ thống cơ quan nhà nước; đây là những tổ chức đảng và đảng viên được giao trực tiếp thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan nhà nước. Phương thức lãnh này trên thực tế là sự quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự “Lãnh đạo đúng” của Đảng, đó là Đảng: “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng”, “Phải tổ chức thi hành cho đúng”, và “phải tổ chức kiểm soát đúng”.

Để có “ba đúng” đó Đảng đều phải dựa vào dân, vì dân. Do đó, một yêu cầu rất quan trọng đặt ra là các cấp ủy đảng phải đẩy mạnh đổi mới và nâng cao chất lượng các nghị quyết của Đảng theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”, “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[5]. Trong các nghị quyết cần nêu rõ các nội dung cần được cụ thể hóa, thể chế hóa bằng con đường pháp quyền; trách nhiệm của các cơ quan cụ thể hóa, thể chế hóa và lãnh đạo tổ chức thực hiện.

 

- Đẩy mạnh nghiên cứu, cụ thể hoá, thể chế hoá, cơ chế hóa vai trò, chức năng nội dung, phương thức, cơ chế lãnh đạo - cầm quyền của Đảng (các tổ chức đảng, các cấp ủy) đối với các tổ chức nhà nước các cấp và đối với xã hội; để Đảng thực hiện tốt sứ mệnh đã được nêu trong Cương lĩnh của Đảng và hiến định trong Hiến pháp năm 2013[6]. Phải cụ thể hóa, thể chế hóa công khai, minh bạch, đồng bộ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, trách nhiệm giải trình trước nhân dân của từng cấp ủy đảng, từng cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp), từng lĩnh vực kinh tế, xã hội…

 

- Đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức và cơ chế lãnh đạo của đảng (các cấp ủy) đối với các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức xã hội theo hướng nâng cao định hướng chính trị trong hoạt động của các tổ chức này; đồng thời tôn trọng và đề cao nguyên tắc hoạt động tự chủ, tự quản theo luật pháp và theo điều lệ của từng tổ chức.

 

4. Tiếp tục nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc, phù hợp và sáng tạo kinh nghiệm quốc tế, đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam vừa phù hợp với xu thế và những giá trị chung của nhân loại, đồng thời thể hiện rõ những bản chất - bản sắc của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Cần tập trung vào một số nội dung quan trọng sau:

- Nhận thức rõ những đặc trưng chung, mang tính phổ biến về Nhà nước pháp quyền. Đây là một hình thức tổ chức dân chủ của quyền lực nhà nước, trong đó, toàn bộ tổ chức và hoạt động của Nhà nước và tất cả các chủ thể trong xã hội đều được quy định bởi pháp luật và theo đúng các quy định của pháp luật[7]; đồng thời quán triệt sâu sắc tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền Việt Nam “trăm điều phải có thần linh pháp quyền[8], theo quan điểm của Đảng được nêu trong Cương lĩnh và được chế định trong Hiến pháp 2013.

 

- Xác định, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền là nhiệm vụ trung tâm của đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng thể chế chính trị. Hoàn thiện đồng bộ thể chế nhà nước phản ánh đúng bản chất “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Nâng cao đồng bộ chất lượng và hiệu lực, hiệu quả hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đề cao hơn vai trò của tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp quyền.  

 

- Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Nhà nước pháp quyền theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Trong đó, chế định rõ, đồng bộ, công khai, minh bạch chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm giải trình của từng cấp chính quyền, từng tổ chức nhà nước, nhất là những người đứng đầu, trong từng lĩnh vực cụ thể.

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách theo yêu cẩu và các nguyên tắc pháp quyền, theo nguyên tắc “người dân được làm những gì mà pháp luật không cấm; còn các cơ quan nhà nước và cán bộ công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép”; chế định công khai, minh bạch quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước và các chủ thể liên quan; gắn với hoàn thiện thiết chế tổ chức thi hành pháp luật. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý - quản trị đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

 

- Trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, xác định rõ hơn cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; chế định công khai minh bạch cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía các tổ chức xã hội và nhân dân; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.

 

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải đáp ứng yêu phát triển nhanh - bền vững đất nước trong giai đoạn mới; do đó, việc xây dựng Nhà nước được thể hiện cụ thể ở xây dựng Nhà nước pháp quyền - kiến tạo phát triển Việt Nam. Đó phải là một Nhà nước đề cao chức năng kiến tạo phát triển - quản trị phát triển - đối tác phát triển mạnh (đồng bộ cả về lập pháp, hành pháp, tư pháp) trên nền tảng của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, với phương châm “liêm chính, kỷ cương, hành động, sáng tạo, bứt phá và hiệu quả”, kiến tạo động lực phát triển; với hệ thống tổ chức, bộ máy tinh gọn, thể chế và cơ chế hoạt động hiệu lực, hiệu quả cao; đội ngũ cán bộ công chức chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn và phẩm chất “công bộc” cao. Xây dựng cơ chế phát huy cao nhất vai trò và sức mạnh của nhà nước, sử dụng có hiệu quả sức mạnh của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và sức mạnh của toàn xã hội, theo hướng “Nhà nước mạnh - Thị trường hiệu quả - xã hội, doanh nghiệp, người dân năng động sáng tạo”, nhằm tạo động lực phát triển đất nước nhanh - bền vững. Cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền - kiến tạo phát triển phải là một bộ phận hợp thành hữu cơ của cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ” nhằm phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Cơ chế này mang những đặc trưng kiến tạo phát triển, theo nguyên tắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

 

5. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn đồng bộ với nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước nhằm đảm bảo dân chủ và nâng cao vai trò chủ thể của nhân dân - quyền làm chủ của nhân dân, theo nguyên tắc “thượng tôn pháp luật”, dân chủ gắn với kỷ cương và với trách nhiệm xã hội trong mọi lĩnh vực. Trong đó chế định rõ các cơ chế bảo vệ và phát triển các quyền và lợi ích, giá trị con người - giá trị công dân, giá trị xã hội; tương quan lẫn nhau về quyền - lợi ích - trách nhiệm - nghĩa vụ giữa tất cả các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là hướng tới đảm bảo sự đồng bộ hữu cơ giữa xây dựng nhà nước thượng tôn pháp luật - xây dựng xã hội công dân thượng tôn pháp luật - và xây dựng con người - công dân thượng tôn pháp luật. Cần khẩn trương cụ thể hóa, thể chế hóa và chế định cơ chế thực hiện có hiệu quả hơn các quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, quyền và nghĩa vụ con người và quyền và nghĩa vụ công dân đã được hiến định trong Hiến pháp 2013; khẩn trương xây dựng và ban hành Luật lập hội, Luật biểu tình, Luật dân chủ cơ sở, Luật phản biện xã hội…Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức trách nhiệm về “dân là chủ” và năng lực “dân làm chủ” của nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ. 

 

Đẩy mạnh đổi mới nội dung và cơ chế hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng phân định rõ các chức năng, nhiệm vụ tham gia vào hệ thống chính trị (chức năng chính trị) và chức năng kinh tế - xã hội mang tính đặc thù của từng tổ chức đối với các thành viên (mang tính tự nguyện, tự chủ), để xây dựng tổ chức và cơ chế hoạt động phù hợp, hiệu quả; giảm bớt các khâu trung gian, khắc phục tình trạng nhà nước hoá, hành chính hóa, công chức hoá, quan liêu hoá. Đặc biệt, cần đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp cơ sở, để các tổ chức này phải thực sự là người đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên của mình theo luật pháp; đề cao tính tự nguyện, tự chủ, tự quản, tính cộng đồng trong hoạt động của các tổ chức này; Nhà nước có cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp, nhưng không theo cơ chế hành chính bao cấp. Ban hành đồng bộ khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội và nhân dân tham gia có hiệu quả xây dựng Đảng và Nhà nước, xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát, phản biện xã hội, chức năng tham gia giám sát thực thi quyền lực Nhà nước; cơ chế thể hiện sự tín nhiệm đối với sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý các cơ quan quản lý nhà nước các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là những người đứng đầu.

 

Đặc biệt, cần đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở cấp cơ sở, trọng tâm là cấp ủy và hệ thống chính quyền (vừa là cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp ở cơ sở, vừa là người trực tiếp đại diện cho nhân dân trên địa bàn); đồng thời coi trọng hoàn thiện cơ chế để phát huy cao tính tự chủ, tự quản của cộng đồng dân cư; đảm bảo có hiệu quả quyền tiếp cận thông tin; thực hiện có hiệu quả dân chủ cơ sở; thể chế hoá và thực hiện tốt phương châm “Dân cần, dân biết, dân bàn, dân quyết, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ, nhân quyền để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và làm chủ của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế để thực hiện hiệu quả mối quan hệ giữa phát huy dân chủ, đảm bảo kỷ cương, tuân thủ pháp luật gắn với trách nhiệm xã hội đối với tất cả các chủ thể trong xã hội.

 

6. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Thể chế phát triển nhanh - bền vững đất nước. Đây là vấn đề lần đầu tiên được xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Thể chế phát triển nhanh - bền vững là thể chế phát triển tổng hợp, đồng bộ về thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế văn hóa, xã hội và thể chế bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng và thực hiện thể chế phát triển nhanh - bền vững chứa đựng yêu cầu và nội dung xuyên suốt về hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ”. Trong giai đoạn mới, với yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh - bền vững đất nước trong một thế giới phát triển rất nhanh, mang tính đột phá và đầy biến động, đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị về một số phương diện đòi hỏi phải có “tính vượt trước”, đảm bảo tính định hướng - dẫn đường, trong đó vai trò lãnh đạo tiên phong của Đảng thể hiện ở nắm bắt xu thể phát triển mọi mặt của thế giới, nhu cầu phát triển khách quan của đất nước, để định ra đường lối, chiến lược, mục tiêu, mô hình phát triển (chính trị - kinh tế - xã hội - môi trường) có luận cứ khoa học - thực tiễn đúng đắn; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đảm bảo cho đất nước phát triển nhanh - bền vững theo chiều sâu, không bị tụt hậu.

Thể chế chính trị tạo nền tảng chính trị - pháp lý để đẩy mạnh đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh thế thị trường hiện đại, phù hợp, hiệu quả; trọng tâm là hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách để tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch, khuyến khích tất cả các chủ thể kinh tế, toàn xã hội huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để thúc đẩy đất nước phát triển theo chiều sâu, nhanh - bền vững. Thể chế văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái chứa đựng các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước vì hạnh phúc của nhân dân.

Như vậy cả về phương diện tư duy cũng như thực tiễn, xây dựng thể chế phát triển nhanh - bền vững cần hướng tới đảm bảo mối quan hệ biện chứng như sau: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước” - Thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm - Thể chế văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò điều tiết hài hòa phát triển kinh tế, với phát triển văn hóa, xã hội, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Thể chế phát triền nhanh - bền vững phải đặt phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo vào động lực then chốt, nhất là quá trình chuyển đổi số trong phát triển nền kinh tế số, xã hội số và Nhà nước số. Điều này đòi hỏi phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy mạnh phát triển và nâng cao nguồn lực trí tuệ của toàn xã hội, nhất là đội ngũ nhân lực chất lượng cao, trình độ cao. Phát triển nhanh - bền vững đồng bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường sinh thái phải trở thành một giá trị cốt lõi trong tư duy phát triển, cơ chế, chính sách phát triển; sự lãnh đạo của tất cả các cấp ủy đảng, sự quản lý - quản trị phát triển của tất cả các cấp chính quyền; sự tham gia và hành động thực tiễn của mọi chủ thể trong xã hội. Xây dựng và thực hiện hiệu quả Thể chế phát triển nhằm tạo được động lực phát triển trong mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi cộng đồng, liên kết lợi ích kinh tế, tinh thần - giá trị xã hội, giá trị dân chủ và pháp quyền, giá trị đạo đức, của tất cả các chủ thể trong xã hội, kết nối thành động lực phát triển nhanh - bền vững của cả dân tộc trong giai đoạn mới.

 

7. Đảng và Nhà nước đẩy mạnh hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ, để xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức “thực đức - thực tài”, thực sự là “công bộc của dân”, liêm chính, gương mẫu, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đánh của nhân dân; là cầu nối tạo nên mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân; đưa chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước vào cuộc sống, xây dựng đất nước “dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng - văn minh - phồn vinh - hạnh phúc”.

 

Như vậy, cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ”, chứa đựng bản chất cốt lõi một Đảng vì dân, một Nhà nước vì dân, kiến tạo được niềm tin bền vững của nhân dân với Đảng và Nhà nước, phát huy được cao nhất dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân, vun đắp ngày càng sâu sắc hơn tình yêu quê hương đất nước, nghĩa đồng bào, khát vọng chấn hưng Dân tộc, tạo được động lực mạnh mẽ để thúc đẩy đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới. Cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” có thể khái quát một cách hình ảnh là “Ý Đảng - Thể chế dân chủ pháp quyền - Lòng dân => thành sức mạnh vô địch”. Đó cũng chính là thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một đất nước Việt Nam “trăm điều phải có thần linh pháp quyền”, sớm đưa Non sông Việt Nam trở nên tươi đẹp, dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu”.

(Hết)

PGS.TS Trần Quốc Toản

Nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

Nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ



 [1] Hồ Chí Minh, toàn tập, t. 3, tr. 139 ; NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995

 [2] 1) Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.

2) Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên,

3) Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

4) Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.

5) Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

 [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, HN, 2011, tr. 144

[4]. Lê Duẩn, Toàn tập, t. II tr. 1274-1275, tr. 1275-1276, tr. 1276 -1277; Lê Duẩn và cách mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007: tr. 694, tr.696, tr. 697.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, t.1, tr.50, 51.

[6] Hiến pháp 2013, Điều 4: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

 [7] Nhà nước pháp quyền được thể hiện trên các phương diện sau : (1) Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; (2) Thượng tôn pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và toàn xã hội; (3) Quyền lực nhà nước được cấu thành hữu cơ, đồng bộ bởi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân công và chế ước lẫn nhau; (4) Quyền lực nhà nước phải được kiểm soát; đảm bảo quyền tư pháp độc lập; (5) Quyền con người, quyền công dân được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm; quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; (6) Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền - thị trường - xã hội gắn bó mật thiết với nhau theo yêu cầu, trình độ phát triển và đặc điểm của mỗi nước; (7) Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các giá trị chung của nhân loại và các cam kết quốc tế mà mình là thành viên; (8) Nhà nước pháp quyền luôn có cơ chế bảo vệ Hiến pháp phù hợp, bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp; (9) Trong xã hội dân chủ hiện đại, thể chế pháp quyền bao gồm bốn chủ thể chủ yếu quan hệ mật thiết với nhau là: Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền, các tổ chức xã hội (theo nghĩa rộng) và những con người - công dân.

 [8] Trong bản “Việt Nam yêu cầu ca” (năm 1922), yêu cầu thứ bảy là: “Bảy xin hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết