Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

Về thể chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Ngày phát hành: 10/06/2019 Lượt xem 29530

                                                

 

           Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định một trong ba đột phá chiển lược là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”, để thực hiện đột phá chiến lược này phải “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế ”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCH TW Đảng (khóa XI) đã nêu rõ “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”; “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan”; “Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền”; “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo. Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo”; “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo”; “Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo”. Việc nhận thức cho đúng, đầy đủ, sâu sắc và hệ thống những nội dung trên có ý nghĩa then chốt trong việc triển khai thực hiện thành công sự nghiệp “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam” và  Đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực mà Đại hội XI của Đảng đã xác định. Một trong những nội dung quan trọng cần nhận thức cho rõ là phải xây dựng và hoàn thiện Thể chế - cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo phù hợp và hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vì thể chế - cơ chế vừa đóng vai trò cơ sở nền tảng vừa đóng vai trò động lực chủ yếu cho sự phát triển giáo dục trong giai đoạn mới .  

I. Bản chất của hoạt động giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường

 

 

1. Giáo dục là phúc lợi xã hội và giáo dục là hàng hóa dịch vụ

  Hiện nay vẫn đang tồn tại hai nhận thức khác nhau (có khi đối nghịch nhau về hoạt động giáo dục, nhất là trong giáo dục đại học và giáo dục nghề), đó là nhận thức coi giáo dục chỉ như là một phúc lợi xã hội, và nhận thức coi giáo dục là hàng hóa dịch vụ.

Giáo dục là phúc lợi xã hội: quan điểm này được xét từ phương diện quyền và lợi ích của người học, lợi ích của xã hội. Trong đó mọi người dân đều có quyền được tiếp cận và hưởng thụ giáo dục như nhau; Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo và đáp ứng nhu cầu học tập của mọi người. Do đó giáo dục được xếp vào lĩnh vực sự nghiệp phúc lợi xã hội, được Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Quan điểm này chưa đề cập tới lợi ích cá nhân khác nhau của mỗi người học và đi theo đó là trách nhiệm cá nhân đối với việc học tập; chưa đề cập tới cơ chế cung ứng giáo dục như thế nào cho có hiệu quả nhất trong điều kiện kinh tế thị trường.

   Giáo dục là hàng hoá dịch vụ: Nhận thức này cho rằng trong điều kiện kinh tế thị trường, giáo dục - đào tạo, nhất là giáo dục đại học, được coi là một lĩnh vực dịch vụ; dịch vụ giáo dục có những điểm giống và những điểm khác với hàng hoá dịch vụ (HHDV) thông thường khác. Do HHDV giáo dục có đặc điểm mang lại “lợi ích tràn xã hội”.... (lợi ích do giáo dục mang lại không chỉ cho riêng người học mà còn cho cả xã hội), cho nên HHDV giáo dục về cơ bản nói chung không phải là hàng hoá tiêu dùng (HHTD) cá nhân thuần túy, cũng không phải là HHTD tập thể thuần túy, mà về cơ bản là HHTD bán tập thể. Xét cả về lý luận và thực tế, HHDV giáo dục - đào tạo nói chung và nhất là giáo dục đại học không đáp ứng đầy đủ hoàn toàn các đặc tính cơ bản của HHDV công cộng thuần túy (HHDV công cộng thuần túy có hai đặc tính cơ bản là không có sự cạnh tranh - Non - rivalrous; và đặc tính không loại trừ - non - excludable). Giáo dục - đào tạo chứa đựng cả lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân, tuy nhiên tương quan giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân ở các cấp bậc học là khác nhau. Tính chất công cộng, lợi ích công cộng thể hiện đậm nét và chiếm ưu thế ở các bậc học thấp, giáo dục cơ bản, giáo dục phổ cập bắt buộc (tại các cấp và các hình thức giáo dục này tính chất cạnh tranh và tính chất loại trừ yếu; thậm chí nếu là giáo dục bắt buộc sẽ không có cạnh tranh và không có loại trừ); còn tính chất cá nhân, lợi ích cá nhân tăng lên ở các bậc học cao, như giáo dục đại học và gắn với đào tạo nghề nghiệp, gắn với mục tiêu cá nhân đầu tư để có nghề nghiệp nhằm nâng cao thu nhập của mỗi cá nhân (đối với các loại hình đào tạo này tính chất loại trừ và tính chất cạnh tranh cao hơn nhiều). Chính vì vậy, xét về phương diện chung cung ứng HHDV, giáo dục - đào tạo về cơ bản không phải là HHDV công cộng thuần túy, mà là HHDV công cộng không thuần túy, và tính chất này ở các cấp bậc học và hình thức đào tạo có khác nhau.

Mức độ, quy mô và hình thức Nhà nước đáp ứng tính công cộng trong giáo dục - đào tạo (cũng chính là mức độ đảm bảo phúc lợi xã hội trong giáo dục - đào tạo), và việc phát triển hàng hóa dịch vụ giáo dục với quy mô và phạm vi nào phụ thuộc vào quan điểm, cơ chế chính sách và tiềm lực thực tế của mỗi nước, đồng thời cũng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường, người học và xã hội trong phát triển giáo dục - đào tạo. Trên thế giới, xu thế phát triển chung coi giáo dục đại học là lĩnh vực mang tính hàng hóa dịch vụ cao, và do đó tiếp cận cơ chế thị trường sâu rộng hơn so với các cấp, bậc giáo dục phổ cập, giáo dục cơ bản, giáo dục bắt buộc. Do đó đối với giáo dục đại học, ở nhiều nước đầu tư công (của Nhà nước) thường có thể chiếm tỷ trọng ít hơn so với đầu tư công trong giáo dục phổ thông. Điều đáng lưu ý là tại một số nước đầu tư công cho giáo dục đại học chiếm tỷ trọng không cao hơn, thậm chí ít hơn so với đầu tư tư nhưng lại có nền giáo dục đại học có chất lượng thuộc loại hàng đầu thế giới, như Mỹ, Canada, Anh, Úc, Nhật Bản, Israel, Korea, New Zeland…    


 

Biểu đồ : Đầu tư tư và đầu tư công cho giáo dục ở các nước

 

2. Tác động của kinh tế thị trường - cơ chế thị trường đối với Giáo dục

1) Về lý luận và thực tiễn thấy rõ tác động của kinh tế thị trường lên giáo dục - đào tạo ở những mặt chủ yếu sau:

(i)- Hình thành mục tiêu - tiêu chí giáo dục gắn với yêu cầu về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao, tư duy sáng tạo, năng lực thực hành… đối với giáo dục đại học trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, đi vào phát triển kinh tế rti thức.

(ii)- Hình thành các giá trị xã hội, giá trị văn hoá, giá trị con người thích ứng với đòi hỏi vai trò chủ thể phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng.

       (iii)- Hình thành nội dung, chương trình và phương thức giáo dục phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển và thay đổi nhanh của nền kinh tế thị trường và của cách mạng KH - CN. 

       (iv)- Đòi hỏi giáo dục gắn trực tiếp hơn, hiệu quả hơn với nhu cầu phát triển mọi mặt của xã hội, gắn hữu cơ với cơ cấu và sự chuyển dịch của thị trường nhân lực quốc gia và quốc tế, nhất là thị trường nhân lực trình độ cao.

       (v)- Hình thành thị trường HHDV giáo dục - đào tạo, tạo sự cạnh tranh trong giáo dục; quốc tế hóa quá trình giáo dục, nhất là giáo dục đại học được đẩy mạnh, hình thành các chuẩn, các tiêu chí giáo dục quốc tế, khu vực.

       (vi)- Sự thay đổi vai trò của Nhà nước và vai trò của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục, thay đổi cơ chế phát triển giáo dục, thay đổi vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động giáo dục (đa dạng hóa các chủ thể tham gia đầu tư và cung cấp dịch vụ giáo dục)…

        Những tác động trên có cả những mặt tích cực và những tác động tiêu cực.

Từ thực tiễn và sự phân tích có thể rút ra kết luận là các yếu tố và các quá trình của giáo dục, nhất là trong giáo dục đại học, đều vận hành trong điều kiện thể chế kinh tế thị trường; kinh tế thị trường - cơ chế thị trường tác động một cách khách quan, phổ quát, toàn diện lên tất cả các yếu tố, quá trình, các chủ thể tham gia giáo dục - đào tạo, với những mức độ khác nhau, có nhiều mặt tích cực nhưng cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực, làm cho giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều đặc điểm khác biệt so với giáo dục trong nền kinh tế bao cấp.  

   2) Cần nhận thức rõ các yếu tố, các quá trình giáo dục “đi” vào kinh tế thị trường với những cấp độ khác nhau. Xét một cách tổng thể có thể chia làm 3 cấp độ sau: cấp độ 1, không chấp nhận hay không được để tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường; cấp độ 2, tham gia vào kinh tế thị trường, cơ chế thị trường với những mức độ hạn chế khác nhau, không hoàn toàn theo cơ chế thị trường; cấp độ 3, tham gia hoàn toàn vào kinh tế thị trường, cơ chế thị trường. Về thực chất đây là mối tương quan về vai trò giữa Nhà nước và Thị trường trong phát triển giáo dục đối với từng yếu tố và quá trình giáo dục khác nhau. Điều này được thể hiện rõ trong giáo dục đại học.

3.  Giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa.

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là xu thế lớn, khách quan, sự phát triển của giáo dục - đào tạo thế giới và của Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó, với những đặc điểm riêng, đồng thời có sự tương quan với tất cả các lĩnh vực khác.

  1) Hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo được thực hiện với nhiều cấp độ và hình thức; từ cấp độ toàn cầu với những quy định của WTO - GATS và UNESCO, đến cấp độ các khu vực, đến cấp độ giữa các quốc gia, giữa các cơ sở giáo dục - đào tạo đến cấp độ giữa các chuyên gia, cá nhân. Các hình thức hợp tác và hội nhập quốc tế rất phong phú và đa dạng, song có thể khái quát thành 2 loại: loại không vì lợi nhuận và loại vì lợi nhuận. Loại vì lợi nhuận thường được thực hiện theo khuôn khổ quy định của GATS với 4 hình thức chủ yếu: cung cấp dịch vụ giáo dục - đào tạo xuyên quốc gia; tiêu thụ ở nước ngoài; hiện diện cá nhân; hiện diện thương mại. Trong quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo các nước, các chủ thể, các cơ sở giáo dục - đào tạo có những mục đích tương hợp với nhau nhưng cũng có những mục đích khác nhau, đặc biệt là về mặt lợi ích giữa các nước “xuất khẩu” và các nước “nhập khẩu” giáo dục - đào tạo. Chính vì vậy quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá về giáo dục - đào tạo chứa đựng cả 2 phương diện hợp tác và cạnh tranh với nhau giữa các khu vực, quốc gia, các cơ sở giáo dục - đào tạo. Hiện nay, xu thế hợp tác và hội nhập quốc tế mang tính lợi nhuận ngày càng phát triển mạnh và nổi trội hơn .

2) Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo mang lại những kết quả và tác động tích cực rất quan trọng, nhưng cũng tiếm ẩn những tác động tiêu cực không thể xem thường, nhất là đối với những nước ở “thế yếu” hơn, đặc biệt là về chất lượng hợp tác quốc tế có thể không đáp ứng yêu cầu, bị cạnh tranh mạnh về thị phần thị trường giáo dục, có thể làm tổn hại tới bản sắc và vị thế nền giáo dục quốc gia... Chính vì vậy, để hợp tác và hội nhập giáo dục - đào tạo có hiệu quả và chất lượng cần có một chiến lược đúng và hệ thống cơ chế, chính sách, giải pháp phù hợp.

 4. Vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục

 Vận dụng cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục - đào tạo được xem xét ở 3 cấp độ: cấp độ hệ thống giáo dục - đào tạo; cấp độ cơ sở giáo dục - đào tạo; và cấp độ các yếu tố, quá trình cụ thể của giáo dục - đào tạo.

          1) Đối với cấp độ hệ thống: Cho đến nay, trên thế giới chưa có nước nào coi nền giáo dục nội địa nước mình và đối với học sinh của nước mình là một ngành kinh tế - kinh doanh, dù đã coi giáo dục là ngành dịch vụ. Nhưng yếu tố kinh tế, hiệu quả đầu tư ngày càng được coi trọng hơn. Đồng thời, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế từng phân hệ thống của hệ thống giáo dục - đào tạo lại được vận dụng cơ chế thị trường ở những cấp độ khác nhau. Ví dụ, hệ thống trường công hướng vào xuất khẩu giáo dục - đào tạo (tại chỗ hay đầu tư ra nước ngoài), hệ thống trường tư vận hành theo cơ chế thị trường, gắn mục tiêu giáo dục với mục tiêu kinh tế (lợi nhuận). Điều này được thể hiện rất rõ trong chiến lược phát triển giáo dục đại học của các nước tiên tiến nhằm giành và giữ thị phần cao trong thị trường giáo dục đại học quốc tế như Mỹ, Anh, Úc…; đồng thời một số nước mới phát triển, mới nổi, hoặc đang phát triển cũng có chiến lược phát triển giáo dục đại học với mục tiêu vươn lên thành trung tâm đào tạo nhân lực trình độ cao của khu vực và quốc tế, chiếm thị phần ngày càng tăng trên thị trường đào tạo nhân lực quốc tế như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Malayxia, Singapore…Hiện nay thị trường giáo dục đại học trên thế giới phát triển rất nhanh, với 4,3 triệu sinh viên du học [5] và tổng giá trị kinh phí lên tới khoảng hơn 90 tỷ USD/năm. Mỹ là nước chiếm thị phần lớn nhất, theo  Báo cáo thường niên của Viện Giáo dục quốc tế (Institute of International Education - IIE), các trường ĐH Mỹ đã đón đạt mức cao kỷ lục là 819.644 SV nước ngoài trong năm học 2012-2013, tức là tăng 7,2% so với năm trước [6]. Riêng chi tiêu của sinh viên quốc tế ở cả 50 bang đã đóng góp gần 24 tỷ USD vào nền kinh tế Hoa Kỳ. Ba nước tiếp tục có số lượng sinh viên đông nhất tại các trường của Mỹ là Trung Quốc, Ấn Độ và Hàn Quốc, chiếm 49% tổng số sinh viên nước ngoài.

Riêng Việt Nam, theo Báo cáo năm 2012, số lượng sinh viên Việt Nam đang học tập tại nước ngoài đã tăng lên con số 106.104 trong niên khóa 2011-2012, tại 49 nước [7]. Bộ Tài chính dự đoán người Việt Nam chi cho con em ra nước ngoài học với tổng số tiền lên đến khoảng 1-1,6 tỷ USD/năm. Tại Mỹ, số lượng sinh viên Việt Nam theo học niên khóa 2012-2013 là 16.098 người, tăng 3,4% so với niên học 2011-2012, tiếp tục xếp ở vị trí thứ 8 về số lượng sinh viên quốc tế học tại Mỹ. Năm 2013 có gần 100 trường ĐH, CĐ Hoa kỳ tham dự Triển lãm Giáo dục tại TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng

Tại châu Âu, hiện nay khẳng định Anh là nhà “lãnh đạo” giáo dục đại học quốc tế khi có đến 34.660 sinh viên Mỹ du học tại Anh năm học 2011-2012, tăng 4,5 lần so với các năm học trước đó. Điều này có nghĩa Anh là điểm đến hàng đầu tại nước ngoài của các sinh viên Mỹ [5].

           2) Đối với cấp độ cơ sở giáo dục - đào tạo : Trong điều kiện kinh tế thị trường, mức độ tiếp cận cơ chế thị trường cũng rất khác nhau. Có thể khái quát làm 4 loại cơ sở giáo dục - đào tạo sau: (a) - cơ sở công lập được bao cấp hoàn toàn; (b) - Cơ sở công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ; (c) - Cơ sở ngoài công lập hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận; (d) - cơ sở ngoài công lập hoạt động theo cơ chế vì lợi nhuận. Về nguyên tắc các loại cơ sở giáo dục đó dù khác nhau về chủ thể sở hữu và bản chất kinh tế, song phải giống nhau ở mục tiêu giáo dục - đào tạo. Trên thực tế cơ chế thị trường được vận dụng ở tất cả các loại hình trường trên với các cấp độ khác nhau. Hiện nay, trên thế giới đang có xu hướng phát triển mạnh các loại hình cơ sở giáo dục - đào tạo kết hợp nguồn lực và cơ chế hoạt động công lập và ngoài công lập, vì lợi nhận và không vì lợi nhận, nhằm phát huy có hiệu quả các mặt mạnh và ưu thế của các loại hình trong phát triển giáo dục, nhất là đối với giáo dục đại học.

3) Đối với cấp độ các yếu tố, quá trình giáo dục - đào tạo : Các yếu tố, quá trình giáo dục - đào tạo tham gia hoặc vận dụng cơ chế thị trường là rất đa dạng, có ý nghĩa khác nhau, có thể là trực tiếp, có thể là gián tiếp. Mức độ vận dụng cơ chế thị trường đối với các yếu tố, quá trình giáo dục - đào tạo phụ thuộc vào cấp bậc giáo dục đào tạo, loại hình cơ sở giáo dục - đào tạo nêu trên, vào đặc điểm, tính chất của các yếu tố, quá trình giáo dục, và vào chính sách cụ thể. Đối với giáo dục đại học trên thế giới tính chất bao cấp của Nhà nước ngày càng giảm đi (trừ các đối tượng chính sách), sự chia sẻ chi phí đào tạo từ phía người học và xã hội tăng lên, cũng có nghĩa là việc vận dụng cơ chế thị trường tăng lên. Ở đây không đơn giản là thiếu nguồn lực cho phát triển giáo dục đại học, mà còn xuất phát từ tính “lợi ích tư” trong giáo dục đại học và việc tạo động lực và hiệu quả trong phát triển giáo dục đại học. 

Việc vận dụng cơ chế thị trường trong giáo dục có những cấp độ khác nhau, không chỉ phụ thuộc vào tính chất đặc biệt chung của giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường, mà còn phụ thuộc rất quyết định vào trình độ thể chế kinh tế thị trường, vào chính sách và cơ chế phát triển giáo dục của mỗi nước.

 

 

II. Thể chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

1. Khái niệm Thể chế

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa thể chế như sau:  Những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội buộc mọi người phải tuân theoTheo cách định nghĩa của Ngân hàng Thế giới thì thể chế là các quy định theo đó các cá nhân, công ty và nhà nước tác động lẫn nhau, "thể chế được nhìn nhận như là yếu tố chính quyết định sự phát triển lâu dài của một quốc gia”.

Thể chế là một khái niệm rộng, được định nghĩa bao quát, gồm những luật chơi chính thức hoặc phi chính thức tạo nên quy tắc ứng xử của con người, của các tổ chức. Xây dựng thể chế phù hợp là một trong các tiền đề - điều kiện cho phát triển hiệu quả bền vững. Một thể chế phù hợp, tiến bộ sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới và phát triển, nhưng một khi thể chế không còn phù hợp nữa thì nó có thể trở thành lực cản kìm hãm mọi sáng tạo, khát vọng, tâm huyết và hiệu quả hoạt động của các chủ thể. Bản thân Thể chế cũng không phải là bất biến, mà nó phải được liên tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa cao hơn của xã hội. Nâng cao chất lượng thể chế là khâu đột phá trong chính sách phát triển.

           Điều này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng ta nêu trong Văn kiện Đại hội XI : “Coi hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá chiến lược”.

Có thể nêu một cách rất khái quát Thể chế gồm cấu trúc hệ thống các chủ thể và cơ chế (quy tắc) chế đinh sự tương tác giữa các chủ thể trong quá trình hoạt động theo những mục đích xác định. Như vậy, Thể chế là một cấu thống nhất bao gồm các chủ thể tham gia (gọi là người chơi), các quy tắc chế định hoạt động và tương tác giữa các chủ thể (gọi là luật chơi), và nội dung hay môi trường trong đó các chủ thể và luật chơi vận hành (gọi là sân chơi).

1. Thể chế phát triển giáo dục

          Thể chế phát triển giáo dục là một phân hệ của thể chế phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước, với những đặc điểm riêng của lĩnh vực giáo dục. Xét về phương diện cấu trúc, Thể chế phát triển giáo dục bao gồm các yếu tố cấu thành chủ yếu sau :

1) Các chủ thể, các đơn vị tham gia vào hoạt động giáo dục và cung cấp dịch vụ giáo dục. Trong đó Nhà nước đóng vai trò định hướng - điều tiết chủ đạo. Vai trò của các Tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư …

2) Hệ thống giáo dục; các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục và liên kết hoạt động giáo dục, cung cấp dịch vụ giáo dục.

3) Hệ thống pháp luật và cơ chế vận hành nền giáo dục;  trong điều kiện hội nhập quốc tế thì đó còn là các cơ chế, quy tắc, “luật chơi” của quốc tế (song phương hay đa phương)

4) Cơ chế thị trường và vai trò của cơ chế thị trường

Cơ chế phát triển giáo dục là cơ chế chế định sự tác động tổng hợp giữa các chủ thể, yếu tố, quá trình đảm bảo cho giáo dục - đào tạo phát triển theo định hướng và mục tiêu đặt ra .

Trong điều kiện kinh tế thị trường, Thể chế phát triển giáo dục được hình thành trên cơ sở thay đổi và hình thành các chức năng mới của các chủ thể tham gia quá trình giáo dục.

   i) Sự thay đổi chức năng của các chủ thể:

   Trong cơ chế thị trường, cấu trúc và vai trò của các chủ thể tham gia vào quá trình Giáo dục - Đào tạo, đã có sự thay đổi đáng kể :

- Nhà nước : Tập trung vào 3 nhiệm vụ chủ yếu là quản lý Nhà nước; là người cung cấp tài chính lớn nhất; đồng thời đảm bảo các chính sách xã hội trong phát triển giáo dục.

- Đa dạng hoá các chủ thể và cơ chế cung cấp HHDV Giáo dục - Đào tạo (công lập, ngoài công lập, trong nước, ngoài nước, KVLN và VLN,…); Tăng cường vai trò tự chủ của các cơ sở giáo dục, đào tạo, nhất là đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề.

- Đa dạng hoá các chủ thể cung cấp tài chính, nguồn lực cho Giáo dục - Đào tạo.

- Ví trí và vai trò của người học cũng có những thay đổi, trách nhiệm tăng lên (cả về học tập và chi phí).

- Vai trò của xã hội tăng lên đáng kể (vừa là chủ thể tham gia phát triển Giáo dục - Đào tạo, vừa là “đối tác”đóng góp với nhà nước về hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, kiểm định giáo dục…).

- Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế với sự thay đổi cấu trúc và chức năng của các chủ thể, từ lý luận và thực tiễn cho thấy đang phát triển mạnh xu thế kết hợp những mặt mạnh của Nhà nước với những mặt tích cực của cơ chế thị trường trong phát triển giáo dục.

          ii) Hình thành cơ chế mới phát triển Giáo dục :

          Trong những năm qua trên thế giới đã hình thành và ngày càng phát triển rộng mô hình quản lý công mới (New public managerment) với bản chất là đặt sự vận động và phát triển của các lĩnh vực dịch vụ công trong mối tương tác giữa Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân sự. Cơ chế phát triển Giáo dục có những nét chung với các lĩnh vực HHDV công cộng khác, nhưng cũng có những đặc điểm riêng do Giáo dục - Đào tạo không hoàn toàn là HHDV công cộng thuần túy.

          Cơ chế phát triển Giáo dục - Đào tạo nêu trên được hình thành là một đòi hỏi khách quan, tuy nhiên nội dung cụ thể ở mỗi nước có khác nhau, và đối với từng cấp bậc học, loại hình đào tạo cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện, trình độ phát triển và chính sách cụ thể của mỗi nước. Đối với giáo dục đại học, do tính chất “công cộng thuần túy” của HHDV giảm đi và tính chất ‘lợi ích tư” tăng lên nên sự kết hợp giữa vai trò của Nhà nước với vai trò của Thị trường và vai trò của người học, của xã hội mạnh hơn so với trong giáo dục phổ cập bắt buộc.

 

  

III. Xây dựng và hoàn thiện thể chế - cơ chế phát triển giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

1. Về mặt nhận thức

Để xây dựng và hoàn thiện thể chế - cơ chế phát triển giáo dục trong giai đoạn mới cần phải có những nhận thức, quan điểm phát triển giáo dục đúng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong đó có những nội dung quan trọng sau:

1) Phải nhận thức đúng đắn bản chất, chức năng, tính chất của giáo dục vận động và phát triển trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhất là đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Giáo dục - đào tạo vừa mang lợi ích công vừa mang lợi ích tư; vừa có tính chất phúc lợi xã hội vừa có tính chất hàng hoá dịch vụ; tính chất hàng hóa dịch vụ cao hơn đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp.

2) Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sự tồn tại và phát triển thị trường đặc biệt hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo (thị trường không hoàn hảo) là khách quan với những đặc điểm và tính chất riêng, nhất là đối với giáo dục đại học.

3) Phải hình thành thể chế, cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo có hiệu quả, thích ứng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; đảm bảo vai trò chủ đạo của Nhà nước kết hợp có hiệu quả với vai trò của cơ chế thị trường, của xã hội; kết hợp có hiệu quả vai trò của yếu tố “công” và yếu tố “tư”; sử dụng và phát huy những mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.

4) Thực hiện ngày càng tốt hơn công bằng, bình đẳng về cơ hội học tập, các chính sách xã hội trong giáo dục - đào tạo, nhất là đối với những vùng khó khăn, người nghèo, người dân tộc ít người và các đối tượng chính sách, trong điều kiện đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

5) Phải đảm bảo chủ quyền quốc gia, bản sắc dân tộc, hiệu quả và chất lượng trong hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo.

2. Thể chế - Cơ chế phát triển giáo dục trong điều kiện mới

Từ những đặc điểm và tính chất của giáo dục - đào tạo, xin nêu thể chế tổng quát phát triển giáo dục - đào tạo Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế là: Nhà nước đóng vai trò chủ đạo kết hợp với cơ chế thị trường, cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đào tạo và vai trò của xã hội, đảm bảo cho giáo dục - đào tạo phát triển theo định hướng của Nhà nước, có hiệu quả và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, đảm bảo tốt hơn công bằng và bình đẳng xã hội trong giáo dục - đào tạo.

Trong thể chế - cơ chế phát triển giáo dục - đào tạo này, vai trò, chức năng của các chủ thể được phân định khách quan phù hợp.

1) Vai trò chủ đạo của Nhà nước được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

(1) - Quản lý Nhà nước về phát triển giáo dục - đào tạo (cả đối với công lập và ngoài công lập), về sứ mạng, mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển giáo dục đào tạo, về quản lý chất lượng giáo dục - đào tạo.

(2) - Ban hành khuôn khổ pháp lý cho sự vận động, hình thành và phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.

(3) - Xây dựng khuôn khổ pháp lý và cơ chế, chính sách cho các cơ sở giáo dục - đào tạo thực hiện cơ chế tự chủ; Định hướng đổi mới và xây dựng mô hình nhà trường năng động, hiện đại, sáng tạo cho thế kỷ. 21.

(4) - Là người cung cấp nguồn lực chủ yếu, lớn nhất cho giáo dục - đào tạo, nhưng có sự đổi mới trong phương thức cung cấp để nâng cao hiệu quả đầu tư các nguồn lực của nhà nước và của xã hội.

(5) - Ban hành và thực hiện các chính sách đảm bảo công bằng, bình đẳng trong giáo dục - đào tạo; ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo ở những vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người, các đối tượng chính sách.

(6) - Ban hành cơ chế chính sách hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục - đào tạo đảm bảo mục tiêu đặt ra, có chất lượng và hiệu quả cao. Vai trò chủ đạo của Nhà nước được cụ thể hóa khác nhau đối với các cấp bậc học và loại hình đào tạo.

2) Vai trò của cơ chế thị trường

Vai trò của cơ chế thị trường được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

(1) - Đa dạng hoá các thành phần, các chủ thể tham gia phát triển giáo dục - đào tạo, cung ứng hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo, nhát là đối với đào tạo đại học và đào tạo nghề;

(2) - Hình thành thị trường hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo (thị trường đặc biệt - thị trường không hoàn hảo); tạo sự cạnh tranh trong giáo dục - đào tạo.

(3) - Thúc đẩy đổi mới và phát triển các mô hình nhà trường hiện đại - năng động - sáng tạo. Hình thành đa dạng các hình thức giáo dục - đào tạo, các cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục - đào tạo: không vì lợi nhuận, vì lợi nhuận, bán vì lợi nhuận. Tạo sự kết hợp, hợp tác công - tư có hiệu quả trong phát triển giáo dục - đào tạo.

(4) - Đòi hỏi gắn mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục - đào tạo với nhu cầu xã hội;

(5) - Thúc đẩy hội nhập, hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo theo cơ chế thị trường.

3) Tự chủ của các cơ sở giáo dục – đào tạo

Cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục - đào tạo được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:

(1) - Phải đảm bảo định hướng, mục tiêu, chất lượng giáo dục - đào tạo toàn diện của Đảng và Nhà nước đề ra;

(2) - Tự chủ trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo. Tự chủ trong việc xây dựng tổ chức, biên chế, nhân sự; tự chủ về mặt tài chính, đảm bảo cân đối thu - chi và đầu tư phát triển. Thực hiện tự do học thuật và tự chủ quản trị phù hợp với cấp bậc, hình thức và trình độ giáo dục- đào tạo.

(3) - Thực hiện trách nhiệm xã hội, trách nhiệm giải trình, công khai minh bạch đối với các cơ quan quản lý nhà nước, người học, xã hội; chuyên nghiệp hoá quản trị cơ sở giáo dục - đào tạo.

(4) - Chủ động trong việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục - đào tạo, thực hiện có hiệu quả hợp tác và hội nhập quốc tế ;

(5) - Xây dựng mô hình nhà trường hiện đại - sáng tạo cho thế kỷ 21.

(6) - Vận dụng đúng đắn, hợp lý, có hiệu quả các công cụ của cơ chế thị trường trong quản trị - vận hành nhà trường; thực hiện sự cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng cung ứng hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo.

(7) - Thực hiện các chính sách xã hội trong giáo dục - đào tạo. Cơ chế tự chủ được thể hiện ở mức độ cao hơn cả là đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề, trên hai phương diện : tự chủ quản trị và tự do học thuật sáng tạo KH - CN, đó là một trong những điều kiện cốt yếu để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.

4) Trách nhiệm của người học

Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, trách nhiệm của người học và gia đình đã có những nội dung mới:

(1) - Tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về việc học tập của mình;

(2) - Chịu trách nhiệm về chi phí học tập (ngoài phần được nhà nước hay xã hội hỗ trợ).

(3) - Chấp nhận sự cạnh tranh về chỗ học, trường học, ngành học, nguồn tài chợ, chỗ làm việc, con đường thăng tiến…Điều này được thể hiện rất rõ đối với  giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. 

5) Vai trò của xã hội

Vai trò của xã hội, trong đó có các nhà đầu tư, có ý nghĩa đặc biệt hơn, thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:

(1) - Trở thành một “đối tác” chủ động, tích cực với Nhà nước và thị trường trong việc tham gia phát triển giáo dục - đào tạo: xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách; giám sát quá trình triển khai thực hiện trên thực tế.

(2) - Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động sự quan tâm, đầu tư các nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo; tham gia cung ứng hàng hoá dịch vụ giáo dục - đào tạo; thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội học tập.

(3) - Tham gia  thực hiện giám sát, đánh giá xã hội đối với quá trình phát triển giáo dục - đào tạo, đối với quản lý nhà nước;

(4) - Đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, tham gia thực hiện các chính sách xã hội trong giáo dục - đào tạo.

Đối với giáo dục đại học và giáo dục nghề, xã hội (theo nghĩa rộng, gồm tất cả các đợn vị sử dụng nhân lực) còn đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và đặt ra yêu cầu về chất lượng và cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực.

Trên đây là Thể chế - cơ chế tổng quát liên kết hữu cơ giữa các chủ thể, các yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp cho phát triển giáo dục - đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Thể chế - cơ chế này cần phải được cụ thể hoá bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, giải pháp cần thiết và được vận dụng phù hợp với từng cấp bậc, hình thức giáo dục - đào tạo, điều kiện phát triển của từng vùng.

3. Vấn đề đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục - đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Vấn đề đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục – đào tạo cần phải được xem xét trong cách tiếp cận sau: Về mặt tổng quát, việc xây dựng được Thể chế - cơ chế phát triển giáo dục như nêu trên và thực hiện có hiệu quả là cơ sở nền tảng để giáo dục - đào tạo phát triển theo định hướng mà Đảng và Nhà nước xác định.

 Trong định hướng chung về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta nêu rõ phải xây dựng cơ chế để phát triển mạnh các lĩnh vực dịch vụ công (trong đó có giáo dục - đào tạo) tiếp cận với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, vận dụng đúng đắn, hợp lý, có hiệu quả những mặt tích cực của cơ chế thị trường phù hợp với đặc điểm của tường lĩnh vực. Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo, một mặt phải quán triệt những nguyên tắc chung, định hướng chung nêu trên, đồng thời cần phải thấu suốt những đặc điểm riêng đó là:

  • Mục tiêu của giáo dục - đào tạo là phát triển con người, phát triển văn hóa, “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, do đó tiêu chí và nội dung giáo dục phải gắn với và phải hướng tới phục vụ đắc lực, có hiệu quả mục tiêu xây dựng đất nước “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
  • “Sản phẩm của giáo dục” là những con người được đào tạo toàn diện có năng lực sáng tạo, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp cao, được giáo dục sâu sắc về văn hóa, đạo đức, lối sống, lý tưởng, yêu gia đình yêu quê hương đất nước - tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội,...trở thành chủ thể vững vàng của đất nước phát triển trong giai đoạn mới.
  • Phát triển một nền giáo dục khoa học, tiên tiến, hiện đại, đại chúng, vừa phát huy những gía trị tốt đẹp của dân tộc vừa tiếp thu những tinh hoa của thế giới – hội nhập quốc tế.
  • Đảm bảo quyền và lợi ích của mỗi người dân trong việc học tập, đảm bảo công bằng, bình đẳng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Đồng thời phải xử lý hài hòa, có hiệu quả về quyền - lợi ích - nghĩa vụ giữa các chủ thể trong phát triển giáo dục - đào tạo.

Vấn đề đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục - đào tạo còn được chế định trong tổng hợp các mối quan hệ sau:

(1) - Giáo dục là một phân hệ chịu sự chi phối, chế định của cả hệ thống lớn về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước đi theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước.

(2) - Hệ thống giáo dục - đào tạo (cả công lập và ngoài công lập) phải thực hiện đường lối, chủ trương, mục tiêu phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước.

(3) - Vận dụng có hiệu quả các mặt tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế tại trường và hội nhập quốc tế trong phát triển giáo dục - đào tạo.

(4) - Quán triệt các quan điểm, xây dựng và triển khai có hiệu quả cơ chế và các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

(5) - Xây dựng môi trường (môi trường xã hội, môi trường nhà trường, môi trường gia đình) thực sự là môi trường lành mạnh đối với giáo dục.

Như vậy, chính mục tiêu phát triển đất nước, định hướng giá trị con người - giá trị xã hội cùng với hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách phát triển đất nước là cơ sở nền tảng cho định hướng phát triển giáo dục - đào tạo. Đồng thời định hướng đó được cụ thể hóa trong mục tiêu, tiêu chí giáo dục - đào tạo, thể hiện trong nội dung chương trình giáo dục - đào tạo và phương thức giá dục đáp ứng với đòi hỏi của giai đoạn mới. Cơ sở pháp lý để thực hiện chính là xây dựng và hoàn thiện Thể chế - cơ chế phát triến giáo dục - đào tạo với hệ thống đồng bộ luật pháp, cơ chế - chính sách phù hợp.

 Đổi mới - phát triển - hoàn thiện và nâng cao năng lực của tất cả các chủ thể, phân định rõ chức năng của các chủ thể, đặc biệt là vai trò chủ đạo của Nhà nước, vai trò của các cơ sở giáo dục phù hợp với từng cấp bậc học, loại hình đào tạo và yêu cầu của giai đoạn mới, nhằm thực hiện có hiệu quả các chức năng như nêu trên là yếu tố quyết định để Thể chế - cơ chế phát triển giáo dục mới tạo được động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới căn bản - toàn diện nền giáo dục nước ta, nhất là đối với giáo dục đại học.

 

PGS.TS Trần Quốc Toản

Hội đồng lý luận Trung ương

 

 

 

 


 

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết