Chủ Nhật, ngày 05 tháng 05 năm 2024

Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về Chiến lược Biển Việt Nam

Ngày phát hành: 09/10/2018 Lượt xem 4269

Thế kỷ XXI được coi là thế kỷ của đại dương, việc “vươn ra biển” đã trở thành xu thế lớn, định hướng quan trọng của tất cả các quốc gia có biển và cả các quốc gia không có biển. Đối với nước ta, biển, đảo không chỉ là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, mà còn là môi trường sinh tồn phát triển đời đời bền vững của dân tộc Việt Nam.

Nắm bắt xu thế chung của thế giới, khu vực và nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã nhạy bén, kịp thời ra Nghị quyết về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết đã chỉ rõ các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và các định hướng Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, xác định nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy các tiềm năng từ biển, phát triển các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của đất nước.

Đây là Nghị quyết đặc biệt quan trọng nên việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết này là hết sức cần thiết. Thiết thực phục vụ Hội nghị Trung ương 8 khóa XII, theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Hội đồng Lý luận Trung ương đã tích cực, nghiêm túc triển khai nghiên cứu trao đổi, khảo sát thực tiễn ở 8 bộ, ngành, địa phương, một số đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản; thường xuyên chia sẻ thông tin với Ban Chỉ đạo tổng kết Chiến lược Biển của Chính phủ; tổ chức các cuộc tọa đàm chuyên gia và thảo luận tại Kỳ họp thứ 7 Hội đồng Lý luận Trung ương, xây dựng báo cáo tư vấn trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

 

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN ĐẶT RA QUA 10 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC BIỂN VIỆT NAM

Triển khai thực hiện Chiến lược Biển, trong 10 năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ các bộ, ngành và các địa phương có biển đã cụ thể hóa, thể chế hoá, ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp và tổ chức triển khai thực hiện một cách thiết thực, đạt được những kết quả quan trọng, góp phần vào những thành tựu chung trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước. Bên cạnh những ưu điểm và thành công, nhận thức và thực tiễn việc thực hiện Chiến lược Biển còn những hạn chế, bất cập và đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.

1. Một số vấn đề về nhận thức lý luận

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, một số quan điểm, định hướng của Nghị quyết chưa được nhận thức đầy đủ và sâu sắc; một số vấn đề mới chưa được bổ sung, hoàn thiện, vì vậy về nhận thức lý luận đang đặt ra một số vấn đề cần được quan tâm sau đây:

Một là, chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ vị trí, vai trò ngày càng quan trọng của biển đối với sự ổn định, phát triển bền vững, lâu dài của đất nước, dân tộc. Biển nước ta thuộc Biển Đông. Biển Đông giàu tài nguyên, là tuyến đường biển huyết mạch của thế giới, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu và Trung Đông. Hơn 90% lượng vận tải thương mại thế giới thực hiện bằng đường biển thì có 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông. Biển, đảo là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, là môi trường sinh thái, nguồn tài nguyên to lớn, nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Nhận rõ vai trò đặc biệt đó sẽ nâng cao ý thức toàn Đảng, toàn dân trong việc giữ biển đảo, nuôi biển, ứng xử tốt nhất với biển, vì biển.

Hai là, Chiến lược biển mang tính toàn diện, đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực có tính kết nối quốc tế cao, chịu tác động lớn đến tình hình quốc tế nhưng khi xây dựng Chiến lược mới tập trung nhiều vào những vấn đề trong nước mà không dự báo được các yếu tố quốc tế, dẫn tới các khó khăn trong quá trình thực hiện. Biển nước ta có vị trí địa chính trị, địa quân sự, địa kinh tế quan trọng trong khu vực và trên thế giới, với tuyến giao thông đường biển gắn với an ninh, an toàn hàng hải quốc tế. Phát triển các ngành kinh tế biển của nước ta từ dầu khí, vận tải biển, đánh bắt hải sản, du lịch biển đều có liên quan đến các nước nên tình hình thế giới, khu vực có khó khăn, diễn biến phức tạp, đã ảnh hưởng tới việc thực hiện Chiến lược.

Ba là, chưa nhận thức đầy đủ khó khăn nhất trong việc thực hiện Chiến lược Biển chính là phải xử lý các mối quan hệ: giữa phát triển kinh tế biển với bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học biển; giữa kinh tế biển, đảo với kinh tế ven biển và trong đất liền; giữa kinh tế với văn hoá, xã hội vùng biển, đảo và ven biển; giữa giải quyết nhiệm vụ kinh tế trước mắt với phát triển lâu dài, bền vững; giữa phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng biển, đảo và ven biển với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp. Đồng thời, cũng chưa xác định được các tiêu chí cụ thể thế nào là quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển để tạo sự thống nhất nhận thức, đồng bộ các giải pháp, phát huy hiệu quả và sức mạnh tổng hợp trong thực hiện Chiến lược Biển.

Bốn là, thực hiện Chiến lược Biển trong thời đại cách mạng khoa học- công nghệ nhưng chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn vai trò của khoa học- công nghệ, chiến lược nguồn nhân lực; do đó chưa quan tâm phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thực hiện Chiến lược Biển. Ngày nay, để khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các tài nguyên biển, phát triển các lĩnh vực kinh tế biển bền vững, đòi hỏi phải điều tra, nắm vững đặc điểm tự nhiên, tài nguyên (khoáng sản, sinh học) của từng vùng biển, đảo; đòi hỏi phải phát triển khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các lĩnh vực này. Nhận thức rõ điều đó việc thực hiện chiến lược biển mới có kết quả tốt đẹp.

Năm là, xây dựng Chiến lược Biển chưa thật gắn kết với chiến lược phát triển chung về kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng và diễn biến phức tạp trên Biển Đông. Hơn nữa, cũng chưa nhận thức đầy đủ tính chất đặc thù, phức tạp, tổng hợp, liên ngành, vừa tuân theo luật pháp trong nước, vừa phải phù hợp với luật pháp quốc tế… trong các hoạt động trên biển, đảo để quan tâm xây dựng cơ quan quản lý Nhà nước tập trung, thống nhất, có hiệu lực, hiệu quả.

2. Một số vấn đề đặt ra trong thực hiện Chiến lược Biển

Nghị quyết Trung ương về Chiến lược Biển đã được các cấp ủy, tổ chức đảng triển khai học tập quán triệt đến đông đảo cán bộ, đảng viên. Việc tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết đến các tầng lớp nhân dân được thực hiện bằng nhiều hình thức phong phú. Việc thể chế hóa các nội dung của Nghị quyết thành chủ trương, chính sách được thực hiện tích cực. Quốc hội đã thông qua nhiều luật liên quan đến biển, đảo. Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động, nhiều nghị định, nghị quyết, quyết định để thực hiện Nghị quyết Trung ương. Các bộ, ngành, địa phương có liên quan đã ban hành nhiều thông tư, đề án, quy hoạch, kế hoạch, nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ; dành nhiều kinh phí đầu tư cho biển, đảo. Đã thành lập cơ quan nhà nước cấp tổng cục (Tổng cục Biển và hải đảo) thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường là đầu mối quản lý tổng hợp về biển, đảo. Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên quan tâm chỉ đạo, đôn đốc, sơ kết việc thực hiện Nghị quyết.

Việc thực hiện Nghị quyết đã đạt được một số kết quả tích cực. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về tầm quan trọng của biển đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc được nâng lên. Các ngành kinh tế biển tiếp tục phát triển, hệ thống kết cấu hạ tầng ven biển được đầu tư nâng cấp; chủ quyền quốc gia, an ninh trên biển được đảm bảo; điều tra tài nguyên, môi trường biển, nghiên cứu khoa học cũng như bảo vệ môi trường biển đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sau 10 năm thực hiện, do nhiều nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan trong xây dựng Chiến lược và chỉ đạo, tổ chức thực hiện, nhiều mục tiêu, nhiệm vụ trong Chiến lược Biển đề ra còn chưa đạt được, bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Từ đó đặt ra những vấn đề bức thiết cần được quan tâm giải quyết.

Thứ nhất, có sự bất cập và khoảng cách lớn giữa yêu cầu của Chiến lược Biển với việc tổ chức triển khai trên thực tiễn; nhiều mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược đề ra không đạt được. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 kinh tế biển và ven biển đóng góp 53 - 55% GDP cả nước; thu nhập bình quân đầu người nhân dân vùng biển và ven biển cao gấp hai lần thu nhập bình quân chung cả nước; xây dựng một số thương cảng quốc tế tầm cỡ khu vực; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh; xây dựng cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp, thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả; đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, không thực hiện được.

Thứ hai, chất lượng và hiệu quả thực hiện Chiến lược Biển vẫn là vấn đề nổi cộm… Các ngành kinh tế biển tuy có bước phát triển nhưng không đều, không tương xứng với tiềm năng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh thấp; một số ngành có những yếu kém, sai phạm nghiêm trọng, có những ảnh hưởng, tác động tiêu cực cho đất nước. Sản lượng dầu khai thác, đóng góp của ngành dầu khí vào tăng trưởng kinh tế và ngân sách nhà nước giảm sút; nhiều dự án đầu tư không hiệu quả, thất thoát lớn vốn, tài sản nhà nước. Quy hoạch và đầu tư phát triển kinh tế hàng hải (cảng biển, đóng tàu, vận tải biển, logistic) dàn trải, hiệu quả thấp, thất thoát, lãng phí lớn; nhiều đơn vị trong ngành thua lỗ, phá sản, để lại hậu quả nặng nề. Khai thác nguồn lợi thủy sản trên biển kém hiệu quả, thiếu bền vững. Chương trình hỗ trợ đóng tàu đánh bắt hải sản xa bờ có nhiều sai phạm. Tàu đánh cá chủ yếu là tàu nhỏ, trang thiết bị lạc hậu, đánh bắt và bảo quản sản phẩm theo lối truyền thống, ở vùng biển gần bờ; năng lực đánh bắt xa bờ hạn chế. Tiến độ xây dựng cảng, cơ sở hậu cần nghề cá, tránh trú ẩn cho ngư dân trên biển còn chậm. Tiềm năng du lịch biển khai thác chưa có hiệu quả; quan tâm nhiều tới khai thác, ít quan tâm tới bảo vệ môi trường sinh thái, văn hóa, giữ gìn an ninh, trật tự, phát triển bền vững. Việc thành lập một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển còn mang tính cục bộ, vì lợi ích cục bộ. Hiệu quả sử dụng đất đai trong nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp còn thấp; có nơi có sai phạm nghiêm trọng. Việc xây dựng các tuyến đường ven biển còn chậm.

Thứ ba, sự kết hợp giữa phát triển kinh tế, xã hội vùng biển, đảo và vùng ven biển với củng cố quốc phòng, an ninh còn có những hạn chế, sơ hở. Để xảy ra tình trạng một số dự án, hoạt động của người nước ngoài ở khu vực ven biển ảnh hưởng đến yêu cầu quốc phòng, an ninh. Việc ứng phó những diễn biến phức tạp trên Biển Đông; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, huy động sự tham gia của nhân dân vào đấu tranh bảo vệ chủ quyền, giữ gìn an ninh, trật tự trên biển, đảo, vùng ven biển còn hạn chế; tình hình an ninh, trật tự ở một số địa bàn còn phức tạp. Tiến độ thực hiện dân sự hóa các hoạt động trên biển, đảo; xây dựng các cảng, khu neo đậu, cơ sở hạ tầng nghề cá, các công trình phòng thủ biển, đảo thực hiện chậm. Cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang bị phương tiện của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển, đảo, vùng ven biển (biên phòng, cảnh sát biển, kiểm ngư) còn thấp so với yêu cầu, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động.

Thứ tư, công tác điều tra, khảo sát và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển; phát triển khoa học công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực biển, kết quả đạt được thấp, còn gặp nhiều khó khăn. Hệ thống cơ sở nghiên cứu, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ biển, lực lượng lao động biển vừa thiếu, vừa yếu; chất lượng nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ hạn chế. Công tác bảo vệ môi trường biển chưa chủ động, thiếu hiệu quả. Ô nhiễm môi trường biển có xu hướng ngày càng cao. Chất thải từ các sông, các khu công nghiệp, khu kinh tế, các đô thị ven biển không qua xử lý đổ ra biển ngày càng nhiều; để xảy ra ô nhiễm môi trường trên diện rộng, gây hậu quả nghiêm trọng ở vùng biển các tỉnh miền Trung. Các hệ sinh thái biển quan trọng như rặng san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển bị suy thoái, diện tích bị thu hẹp; đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản trên biển giảm sút. Năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu còn chưa đáp ứng được yêu cầu; sạt lở đất ven biển, xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp; thiên tai còn gây thiệt hại lớn về người, tài sản ở nhiều vùng.

Thứ năm, cơ chế chính sách để thực hiện Chiến lược Biển còn chưa đồng bộ, kịp thời, vẫn là điểm nghẽn; hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về biển còn hạn chế. Việc thể chế hóa, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, xây dựng, hoàn thiện thể chế để thực hiện Nghị quyết là vấn đề thiết yếu nhưng chưa được chú trọng đúng mức, triển khai còn chậm, nhiều vướng mắc về thể chế chậm được tháo gỡ. Nhiều chương trình, kế hoạch, đề án để thực hiện nghị quyết đã được xây dựng, nhưng thiếu nguồn lực (vốn) để thực hiện. Tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài, chất lượng, hiệu quả thấp, lãng phí, thất thoát lớn chậm được khắc phục. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến biển ở các cấp, các ngành, các đơn vị thiếu chặt chẽ. Thông tin cơ bản về biển thiếu, phân tán lại không được chia sẻ.

 

II. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Chiến lược Biển Việt Nam được Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa X thông qua, xác định thời hạn thực hiện là đến năm 2020. Đến nay, có thể thấy rõ là đến năm 2020 nhiều nhiệm vụ, mục tiêu Chiến lược đề ra còn chưa thực hiện được. Đại hội XII của Đảng xác định: “Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các ngành khai thác, chế biến dầu khí; cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển; khai thác và chế biến hải sản, các dịch vụ hậu cần nghề cá; du lịch biển, đảo. Xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất và đời sống vùng biển, đảo”[1] và “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; đồng thời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Giải quyết những bất đồng, tranh chấp bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế”[2].

Để thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và đáp ứng yêu cầu cấp bách của đất nước trong bối cảnh mới, xin đề xuất Trung ương, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược biển đến năm 2020, ban hành Nghị quyết mới về Tiếp tục thực hiện Chiến lược Biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên cơ sở kế thừa quan điểm của Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 và bổ sung thêm một số nội dung sau:

 Một là, thống nhất nhận thức về vai trò đặc biệt quan trọng của biển và Chiến lược biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là vấn đề có ý nghĩa sống còn để nước ta phát triển bền vững cho hôm nay và các thế hệ mai sau. 

Hai là, phát huy, kết hợp sức mạnh của đất nước và sức mạnh quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước góp phần bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải quốc tế. Giải quyết các tranh chấp trên biển bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; góp phần bảo đảm tự do hàng hải, hàng không, an ninh, an toàn trên Biển Đông, hòa bình, ổn định trong khu vực.

Ba là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển. Phát triển toàn diện các ngành kinh tế biển theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả, bền vững các tài nguyên biển trên cơ sở phát triển khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phát triển kinh tế phải gắn chặt chẽ với bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh các vùng biển, đảo và ven biển.

Bốn là, thực hiện Chiến lược Biển là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, đề cao vai trò, trách nhiệm của ngư dân, các nhà khoa học và cộng đồng doanh nghiệp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy nội lực, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước và thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài để thực hiện có kết quả chiến lược./.


HDLL


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.288 - 289.

[2] Sđd, trang 148.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết