Thứ Sáu, ngày 10 tháng 10 năm 2025

Một số kết quả nghiên cứu của đề tài "Quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo ở Việt Nam: Đặc điểm, xu hướng mới và định hướng chính sách"

Ngày phát hành: 05/10/2025 Lượt xem 116

Đề tài "Quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo ở Việt Nam: Đặc điểm, xu hướng mới và định hướng chính sách" (mã số KX.04.27/21-25) do PGS.TS Nguyễn Thanh Xuân, Giảng viên cao cấp Viện Tôn giáo và tín ngưỡng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm Chủ nhiệm đã bảo vệ thành công. Dưới đây là một số kết quả nghiên cứu của đề tài.

 

 

1. Về đặc điểm của mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo

 

+ Việt Nam là quốc gia đa dạng về dân tộc/tộc người và đa dạng về tôn giáo. Việt Nam có 53 DTTS với 14.118.232 người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Nhìn chung, các dân tộc/ tộc người thiểu số (DTTS) cư trú trên địa bàn rộng là: các tỉnh miền núi phía Bắc gọi chung là Tây Bắc, các tỉnh Tây Nguyên và vùng cao các tỉnh duyên hải miền trung, gọi chung là Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Đây là những địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái.  

 

Việt Nam có khoảng hơn 90% dân số tin theo tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng 26,50 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 27,5% dân số. Các tôn giáo ở Việt nam rất đa dạng, cả tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội sinh, như: như Phật giáo, Công giáo, đạo Tin lành, đạo Bàlamôn, Hồi giáo, đạo Cao Đài, Phật giáo Hoà Hảo, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Bửu sơn Kỳ hương, Tứ ân Hiếu nghĩa,...

 

Ở Việt Nam có bộ phận đông đảo đồng bào DTTS theo tôn giáo. Cụ thể: Tây Bắc chủ yếu là Công giáo với khoảng 25.000 tín đồ, Tin lành trong cộng đồng người Hmông và người Dao với khoảng gần 300.000 tín đồ; Tây Nguyên chủ yếu là Công giáo với hơn 500.000 tín đồ, đạo Tin lành với khoảng trên dưới 700.000 tín đồ; Tây Nam Bộ chủ yếu là Phật giáo Nam tông gắn với dân tộc Khmer với khoảng 1.250.000 tín đồ; ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ là đạo Bàlamôn và Hồi giáo trong cộng đồng người Chăm với khoảng 156.000 tín đồ. Ngoài ra, có một số người Mường và dân tộc khác ở Tây Bắc theo Phật giáo; một số đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên theo Phật giáo và đạo Cao Đài; một số người Chăm, người Khmer theo Công giáo và đạo Tin lành,... Tổng cộng ở Việt Nam có trên dưới 3,2 triệu tín đồ các tôn giáo là đồng bào dân tộc thiểu số.

 

+ Đặc điểm của mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số với tôn giáo liên quan đến hoạt động truyền giáo. Đó là việc truyền Phật giáo Nam tông trong người Khmer ở Nam Bộ gắn với Phật giáo Nam tông ở vương quốc Chân Lạp xưa (nay là Cămpuchia) từ thế kỷ VII-SCN. Đó là việc truyền bá đạo Bàlamôn trong người Chăm gắn với quá trình hình thành và phát triển của vương quốc Chămpa xưa từ thế kỷ II-SCN. Đó là người Chăm theo Hồi giáo gắn với sự hình thành hai cộng đồng Hồi giáo khác nhau, quen gọi là Hồi giáo Bàni ở Nam Trung Bộ và Hồi giáo Islam ở Nam Bộ. Đó là Công giáo truyền đến các DTTS ở Tây Nguyên giữa thế kỷ XIX, phát triển nhanh khi người Kinh theo Công giáo lên cư trú ở Tây Nguyên sau năm 1954 và nhất là sau năm 1975. Đó là đạo Tin lành truyền lên Tây Nguyên từ những năm 1930 nhưng không mấy kết quả. Việc truyền đạo Tin lành lên vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thật sự sôi nổi trong khoảng từ 1954 đến 1975 khi Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Đặc biệt là đạo Tin lành phát triển với tốc độ nhanh sau năm 1975, từ 55.000 tín đồ tăng lên trên dưới 500.000 tín đồ năm 2005 trong khi đạo Tin lành không được phép hoạt động vì có những quan hệ với tổ chức phản động FULRO.

 

+ Đặc điểm về mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số với tôn giáo liên quan đến văn hoá, xã hội. Đó là Phật giáo Nam tông của dân tộc Khmer thể hiện nét đặc sắc về văn hóa tạo ra sự khác biệt giữa dân tộc Khmer với các dân tộc khác ở Việt Nam. Sự khác biệt này được thể hiện ở các yếu tố liên quan đến cơ sở thờ tự - chùa tháp, sư sãi (hay tăng sĩ) và vai trò của sư sãi đối với cộng đồng, các lễ hội truyền thống dung hợp giữa tôn giáo và tín ngưỡng. Đó là đạo Bàlamôn tạo ra nét đặc trưng văn hoá của người Chăm ở Nam Trung Bộ với vai trò của chức sắc và các đẳng cấp dấu ấn của văn hoá Ấn Độ. Cùng với đó là hệ thống đền tháp đặc sắc về kiến trúc gắn với vương quốc Chămpa. Riêng người Chăm có cộng đồng theo Hồi giáo chính thống, vừa có cộng đồng Hồi giáo dung hợp với đạo Bàlamôn và văn hoá truyền thống. Đó là Công giáo và đạo Tin lành có sự va chạm với văn hoá và tín ngưỡng truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Tây Bắc ở thời kỳ đầu truyền đạo và theo đạo. Sau khi đã xác lập được vị trí ở khu vực Tây Nguyên và Tây Bắc, dưới nhiều tác động làm cho mối quan hệ giữa Công giáo và đạo Tin lành với văn hóa, tín ngưỡng truyền thống chuyển biến theo hướng tích cực.   

 

+ Đặc điểm về mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số với tôn giáo liên quan đến các mối quan hệ quốc tế. Đó là mối quan hệ với Trung Quốc chủ yếu liên quan đến vấn đề dân tộc xuyên biên giới ở các tỉnh mền núi phía Bắc. Riêng vấn đề tôn giáo, vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc chỉ có một bộ phận người Hmông ở cả hai quốc gia theo tôn giáo, chủ yếu là Tin lành. Tuy nhiên, người Hmông ở Việt Nam theo đạo Tin lành đã chuyển biến tích cực theo hướng ổn định nên hầu như không có quan hệ và chịu sự tác động của người Hmông theo đạo Tin lành ở Trung Quốc. Việt Nam và Lào là hai nước láng giếng có mối quan hệ hữu nghị, gắn bó với nhau về kinh té, văn hoá, xã hội. Do vậy, cả hai vấn đề dân tộc và tôn giáo, tôn giáo trong vùng dân tộc thiểu số giữa Việt Nam với Lào ổn định và tích cực. Riêng người Khmer theo Phật giáo Nam tông cần quan tâm cụ thể: một là người Khmer ở Việt Nam có mối quan hệ lâu đời về tộc người và Phật giáo Nam tông ở Cămpuchia; hai là vùng đất Nam Bộ hiện nay về địa chính trị có 10 thế kỷ từ VII đến XVII thuộc Chân Lạp (Cămpuchia); ba là Phật giáo Nam tông của người Khmer ở Việt Nam mặc dù là hệ phái gốc nhưng chỉ là thiểu số trong gia đình Giáo hội Phật giáo Việt Nam chủ yếu là Phật giáo Bắc tông.

 

Bên cạnh những vấn đề liên quan đến các nước láng giềng, mối quan hệ dân tộc với tôn giáo ở Việt Nam cần được quan tâm đến các tôn giáo và tổ chức tôn giáo quốc tế. Cụ thể Công giáo trong mối quan hệ về tổ chức với Vatican; đạo Tin lành quan hệ với đạo Tin lành Mỹ, châu Âu và Hàn Quốc,… Phật giáo quan hệ với Phật giáo châu Á, nhất là Phật giáo ở Trung Quốc, Lào, Cămpuchia; Hồi giáo quan hệ với Hồi giáo thế giới, nhất là Hồi giáo khu vực Đông Nam Á,...

 

+ Đặc điểm về mối quan hệ giữa dân tộc thiểu số với tôn giáo liên quan đến dân tộc - quốc gia. Nét đặc trưng của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam khi được công nhận tư cách pháp nhân đều xác định đường hướng hành đạo tiến bộ, gắn bó với dân tộc, đồng hành cùng chế độ và tuân thủ quy định pháp luật. Chính những định hướng đã được xác đinh, cùng với vai trò quản trị của tổ chức tôn giáo đã giảm thiểu những tư tưởng và hoạt động tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

 

Tuy nhiên, mối quan hệ dân tộc/tộc người theo tôn giáo với dân tộc (quốc gia) có chiều hướng tiêu cực theo tư tưởng dân tộc hẹp hòi và những hoạt động ly khai, hoặc liên quan đến dân tộc, hoặc liên quan đến tôn giáo, hoặc hiên quan đến cả dân tộc và tôn giáo; hoặc liên quan đến những vấn đề lịch sử, hoặc liên quan đến việc thực hiện không đầy đủ và đúng đắn chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo,… Tất cả đều bị những phần tử xấu và thế lực thù địch lợi dụng để chống phá. Cụ thể là tư tưởng dân tộc hẹp hòi và những hoạt động ly khai đã từng xảy ra ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ trước và sau năm 1975.

 

2. Những tác động và thực trạng giải quyết môi quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo 

 

+ Những tác động của mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo. Đó là góp phần mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị, đảm bảo trật tự xã hội, an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Đó là góp phần hình thành những cộng đồng dân cư ổn định, tập trung, thay đổi cách thức sản xuất của một số cộng đồng DTTS theo chiều hướng tiến bộ vào quá trình phát triển kinh tế của địa phương, tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào DTTS theo tôn giáo, nhất là phong trào xây dựng nông thôn mới, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Chỉ tính riêng lĩnh vực xã hội là việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016-2018, có trên 800 nghìn người, trong đó có nhiều người theo tôn giáo được đào tạo nghề nghiệp các cấp trình độ, trong đó khoảng 412 nghìn lao động nông thôn là người DTTS được hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp. Đó là góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các DTTS, như nhạc cụ cồng chiêng, những làn điệu dân ca, những điệu múa,… được sử dụng trong sinh hoạt tôn giáo; là các công trình kiến trúc tôn giáo, các lễ hội tôn giáo có những yếu tố văn hoá dân tộc. Đó là các chương trình truyền thông ở các cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trong đó có cộng đồng DTTS theo tôn giáo. Cùng với đó là những hỗ trợ của chức sắc, chức việc các tôn giáo đã tạo cơ hội cho đồng bào các DTTS, đồng bào theo tôn giáo tiếp cận với các dịch vụ bưu chính, viễn thông và internet, công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình,...  

 

Tuy nhiên, mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo còn có những hạn chế và tiêu cực nhất định cần được quan tâm. Đó là những những xung đột văn hoá gây mất đoàn kết và rạn nứt sự đoàn kết dân tộc ở một số khu vực trong những thời gian nhất định. Đó là một số cộng đồng DTTS theo tôn giáo, do phụ thuộc và chịu sự chi phối nhiều bởi các quy định của tôn giáo đã ít nhiều gây cản trở cho quá trình phát triển kinh tế. Đó là một số trường hợp quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo làm phai nhạt, đứt gãy, phai nhạt bản sắc văn hóa. Đó là những tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định an ninh trật tự xã hội, đe dọa an ninh chủ quyền quốc gia, đặc biệt khi mối quan hệ này bị lợi dụng của những âm mưu ly khai, tự trị trong một số cộng đồng dân tộc thiểu số.  

 

+ Thực trạng giải quyết và những vấn đề đặt ra của mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo và giải quyết những vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo cụ thể trong mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo. Cụ thể: Nghị quyết số 24-NQ/TW (2003) Về công tác dân tộc, Chỉ thị 65-KL/TW (2019) của Bộ Chính trị Tiếp tục thực hiện  Nghị quyết số 24-NQ/TW Về công tác dân tộc, Nghị định 05/NĐ-CP (2011) Về công tác dân tộc,... Nghị quyết 25-NQ/TW (2003) Về công tác tôn giáo, Chỉ thị 18-CT/TW (2018) của Bộ Chính trị Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW Về công tác tôn giáo, Nghị định 69/NĐ-CP (1991) của Chính phủ Quy định về các hoạt động tôn giáo, sau đó là Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004), Chỉ thị 01/CT-TTg (2005) của Thủ tướng Chính phủ Về một số công tác đối với dạo Tin lành, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016),... Cùng với đó là các văn bản chỉ đạo công tác đối với một số dân tộc cụ thể trong thời kỳ đổi mới, như: Chỉ thị số 68-CT/TW (1991) của Ban Bí thư Trung ương Về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer; Thông báo 122/TB-CP (2004) của Thủ tướng Về công tác đối với Phật giáo Nam tông Khmer, Thông báo 119-TB/TW (2003) của  Ban Bí thư Trung ương Về chủ trương công tác đối với Hồi giáo trong tình hình mới; Chỉ thị 19-CT/TW (2018) của Ban Bí thư Trung ương Về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tình hình mới. Thông tri 03-TT/TW (1991) của Ban Bí thư Trung ương Về công tác đối với đồng bào Chăm, Chỉ thị 45-CT/TW (1994) của Bộ Chính trị Về công tác đối với dân tộc Mông,...

 

Thực hiện chủ trương, chính sách đối với dân tộc và tôn giáo như nói trên đã đạt được những kết quả rất quan trọng đối với tôn giáo trong vùng DTTS. Cụ thể là sau Chỉ thị 01/CT-TTg (2005) đã bình thương hoá toàn bộ sinh hoạt tôn giáo và hoạt động về tổ chức của đạo Tin lành ở Tây Nguyên - đến năm 2020 đã có 311 chi hội được công nhạn và 1.400 điểm nhóm đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung; đồng thời từng bước bình thường hoá sinh hoạt của tín đồ và hoạt động về tổ chức của cộng đồng người Mông theo đạo Tin lành ở Tây Bắc - đến năm 2014 có 1.208/1.824 điểm nhóm đã đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung. Thực hiện Thông báo 122/TB-CP (2004) Về công tác đối với Phật giáo Nam tông Khmer đã hỗ trợ thành lập Học viện Phật giáo Nam tông Khmer (2006), thành lập các trương Trung cấp Pali ở Sóc Trăng, Trà Vinh,... đã in 208.300 bản kinh sách phục vụ sinh hoạt tôn giáo, trùng tu sửa chữa, tôn tạo hầu hết các chùa tháp. Thực hiện Thông báo 119-TB/TW (2003) và Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004) đã công nhận pháp nhân các tổ chức tôn giáo của người Chăm, như: Ban Đại diện Cộng đồng Hồi giáo An Giang (2004), Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Ninh Thuận (2007), Hội đồng Chức sắc Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận (2012), Hội đồng chức sắc Bàlamôn tỉnh Bình Thuận (2012), Hội đồng Sư cả Hồi giáo Bàni tỉnh Bình Thuận (2012),... Chính sách và thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo đã làm thay đổi căn bản đời sống tôn giáo vùng DTTS ở Việt Nam.

 

Bên cạnh những kết quả tích cực như nói trên là những vấn đề đặt ta. Đó là việc triển khai thực hiện giải quyết vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào DTTS còn chậm, hiệu quả thấp chưa đáp ứng được nhu cầu của đồng bào DTTS theo tôn giáo. Đó là yêu cầu nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác dân tộc, công tác tôn giáo, công tác tôn giáo trong vùng dân tộc. Đó là nguồn lực tôn giáo đã được huy động phục vụ cho sự phát triển của các dân tộc/tộc người nhưng còn chưa đồng đều ở các tôn giáo, ở các địa phương.

 

3. Những xu hướng mới hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo

 

Cả chủ quan và khách quan, từ bối cảnh quốc tế, khu vực, từ tình hình dân tộc, tôn giáo, từ chính sách và thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo,... sẽ tác động đến mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo trong thời gian tới theo xu hướng ổn định. Đồng thời, các tổ chức tôn giáo được công nhận pháp nhân đã xác đinh đường hướng tích cực, là Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội của Phật giáo, là Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc của Công giáo, Sống Phúc âm Phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và Dân tộc của đạo Tin lành, là Nước vinh, Đạo sáng của đạo Cao Đài, là Vì Đạo pháp, vì Dân tộc của Phật giáo Hoà Hảo,... sẽ tiếp tục tác động tích cực đến cộng đồng DTTS theo tôn giáo. Cụ thể:

 

Các tôn giáo truyền thống vẫn là nét đặc trưng về văn hoá, xã hội của một số dân tộc thiểu số. Đó là cộng đồng dân tộc Khmer gắn liền với Phật giáo Nam tông; cộng đồng dân tộc Chăm (khu vực Nam Trung Bộ) gắn liền với đạo Bàlamôn và đạo Bàni (Hồi giáo không chính thống). Phật giáo Nam tông là tôn giáo của dân tộc Khmer thể hiện nét đặc sắc về văn hóa được thể hiện ở các yếu tố thể hiện niềm tin tôn giáo, cơ sở thờ tự - chùa tháp mang dấu ấn kiến trúc Ấn Độ, các chức sắc - nhà tu hành - sư sãi khác với Phật giáo Bắc tông, các lễ hội truyền thống dung hợp theo cách riêng giữa Phật giáo Nam tông với tín ngưỡng của người Khmer. Tương tự như người Khmer theo Phật giáo Nam tông, người Chăm theo đạo Bàlamôn, Hồi giáo Bàni, Hồi giáo Islam với những cách riêng về sinh hoạt tôn giáo, về chức sắc nhà tu hành, mối quan hệ giữa tín đồ với chức sắc, về nơi thờ tự,… Điều đáng quan tâm những đặc trưng riêng về tôn giáo truyền thống của dân tộc Khmer, dân tộc Chăm sẽ được lưu giữ, không thay đổi theo thời gian vẫn là nét đặc trưng về văn hoá, xã hội cần được quan tâm trong chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo.

 

Các tôn giáo ngoại nhập tiếp tục có những điều chỉnh để thích ứng với văn hoá, tín ngưỡng DTTS. Ở Việt Nam, Công giáo và Tin lành là hai tôn giáo tiêu biểu từ phương Tây du nhập vào vùng DTTS. Công giáo truyền vào vùng DTTS ở Tây Nguyên và Tây Bắc từ sớm, phát triển từ từ theo thời gian nên chỉ xảy ra những va chạm nhất định với văn hoá, tín ngưỡng truyền thống của đồng bào DTTS. Riêng với Tin lành tôn giáo cải cách từ Công giáo với lối sống đạo đề cao đức tin, vai trò cá nhân, nhất là chỉ tin Thiên chúa, phủ nhận các thần, thánh của các tôn giáo, tín ngưỡng khác nên truyền vào vùng DTTS ở Việt Nam đã xảy ra xung đột văn hoá, nhất là giai đoạn đầu truyền đạo và theo đạo. Điều đáng quan tâm, Công giáo và Tin lành sau khi ổn định đã từng bước hội nhập văn hóa, dung hợp với tín ngưỡng truyền thống ở một mức độ khác nhau.

 

Thời gian tới đây, Công giáo và Tin lành sẽ tiếp tục truyền giáo vùng DTTS nhưng không tạo ra “đột biến” về gia tăng số lượng tín đồ như trước. Cùng với việc truyền giáo, cả Công giáo và Tin lành tiếp tục tạo ra những lối sống mới, góp phần khắc phục những yếu tố lạc hậu trong cuộc sống của cộng đồng DTTS. Không những thế, Công giáo và Tin lành cũng sẽ tiếp tục mở ra sự giao lưu kinh tế giữa các vùng, bỏ lối sống khép kín, tự cung, tự cấp. Cùng với đó là những thay đổi mối quan hệ giữa các dân tộc theo hướng bác ái và khoan dung.

 

Các tôn giáo vùng dân tộc thiểu số sẽ tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Khi các tôn giáo từng vùng dân tộc thiểu số được Đảng và Nhà nước quan tâm với những chủ trương, giải pháp cụ thể, đời sống tôn giáo chuyển biến rõ rệt theo hướng tích cực. Đồng thời, sau khi các tổ chức tôn giáo được công nhận pháp nhân đã nỗ lực hướng dẫn hoạt động tôn giáo vùng DTTS tạo sự ổn định và nề nếp. Không những thế, đường hướng tích cực của các tổ chức tôn giáo đã tác động đến cộng đồng DTTS theo tôn giáo. Cùng với đó là định hướng phát huy giá trị đạo đức, văn hoá và nguồn lực các tôn giáo của Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021). Do vậy, xu hướng tới, các tôn giáo vùng DTTS sẽ tích cực tham gia hoạt động an sinh xã hội và các đoàn thể xã hội, tương đồng như những vùng dân tộc Kinh theo tôn giáo.

 

Mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo trở nên đồng thuận và chia sẻ. Sự đồng thuận và chia sẻ giữa cộng đồng dân tộc với cộng đồng tôn giáo thể hiện ở việc các cộng đồng các dân tộc hiểu được tôn giáo, nhu cầu tôn giáo của người dân về đời sống tâm linh tôn giáo, hiểu được mặt tích cực của tôn giáo. Cộng đồng tôn giáo cũng hiểu được những giá trị về văn hoá lối sống, tín ngưỡng, tập quán của các dân tộc cần được ghi nhận và trân trọng. Bên cạnh đó cộng đồng các dân tộc và cộng đồng các tôn giáo cũng nhận ra những hạn chế, thiếu sót về nhận thức và ứng xử với nhau để khắc phục. Tất cả là vì một nước Việt Nam hoà bình, ổn định và phát triển.

 

Ngoài những xu hướng tích cực như trên, cần chú ý một của mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo trong thời gian tới đây. Đó là các tôn giáo, nhất là Công giáo và đạo Tin lành vẫn tiếp tục truyền giáo vùng DTTS; là việc một bộ phận người Chăm, người Khmer chuyển sang theo Công giáo, Tin lành, đạo Cao Đài,... và hiện tượng tôn giáo mới vẫn xuất hiện vùng dân tộc thiểu số. Mặc dù không tạo ra những biến động phức tạp như trước nhưng vẫn là những vấn đề cần quan tâm đến ổn định xã hội. Đó là tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai - giải lãnh thổ liên quan đến dân tộc và tôn giáo, trong đó liên quan đến người Khmer ở Nam Bộ theo Phật giáo Nam tông, liên quan đến hoạt động của tổ chức phản động FULRO ở Tây Nguyên, liên quan đến tư tưởng xưng vua, lập vương quốc Mông ở Tây Bắc,... vẫn có thể xảy ra trong những hoàn cảnh nhất định. Ngoài ra, trong bối cảnh mới, sự liên kết giữa các quốc gia, nhất là các quốc gia trong khu vực ngày càng được mở rộng nên các mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo không chỉ dừng lại trong phạm vi một quốc gia mà ngày càng mở rộng xuyên quốc gia, liên khu vực.

 

Như vậy, những xu hướng tiêu cực trong mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo đã giảm nhiều so với trước đây nhưng vẫn còn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp cần được quan tâm đến trật tự an toàn xã hội và an ninh chính trị. Những diễn biến phức tạp liên quan đến mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo có cả yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó cần quan tâm đến nhận thức và ứng xử đối với hai vấn đề vân tộc và tôn giáo, đến việc thực hiện đầy đủ và đúng đắn chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo.  

 

4. Một số đề xuất kiến nghị về công tác dân tộc, tôn giáo trong vùng DTTS

 

(1) Đại hội Đảng lần thứ XIV là dịp tổng kết 40 năm đổi mới chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo. Có nhiều nội dung cụ thể cần thể hiện nhưng trong đó cần khẳng đinh những nguyên tắc căn bản của chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo thời kỳ đổi mới.

 

Về chính sách dân tộc: “Các dân tộc bình dẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; phát triển kinh tế, xã hội nhằm nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số góp phần tạo ra sự đa dạng và đặc sắc của văn hóa Việt Nam, nhất là trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế”.

 

Về chính sách tôn giáo: “Tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài, là nhu cầu tinh thần của đông đảo nhân dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mọi người; thực hiện bình đẳng các tôn giáo trước pháp luật. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết dân tộc”.

 

(2) Đối với việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Việc xây dựng chính sách dân tộc cần chú ý tính đặc thù riêng khác đối với các nhóm dân tộc, cần tách thành các lĩnh vực, các vùng miền một cách phù hợp, tránh cào bằng, dàn trải hoặc chung chung. Cần thực hiện phương châm: “vừa cho cá, vừa cho cần”, cả trước mắt và lâu dài. Việc tổ chức thực hiện các chương trình, dự án về kinh tế, văn hóa, xã hội cần tăng cường công tác quản lý và giám sát chặt chẽ việc thực hiện, tránh thất thoát, “rơi vãi” hoặc lãng phí. Chú ý khai thác lực lượng tại chỗ trong quá trình tổ chức thực hiện. Bộ máy làm công tác trong vùng DTTS cần giữ ổn định. Cán bộ đảng viên khi thực hiện nhiệm vụ trong vùng đồng bào DTTS, cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc, phải: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, phải: “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.

 

Chú trọng các DTTS có tính đặc thù, chứa đựng những yếu tố phức tạp cần quan tâm giải quyết. Điển hình là mối quan hệ dân tộc Chăm - Kinh do lịch sử để lại, dân tộc Khmer liên quan đến ba yếu tố: vùng đất - dân tộc - tôn giáo, dân tộc Mông với tâm lý “xưng vua, đón vua” và “vương quốc Mông”,… Đồng thời cần chú ý mối quan hệ dân tộc/ tộc người xuyên biên giới với Trung Quốc, Lào và Cămpuchia.

 

(3) Đối với việc xây dựng và thực hiện chính sách tôn giáo. Trước hết, cần quán triệt quan điểm, nhận thức mới đối với tôn giáo của Đảng trong việc xác định tôn giáo là vấn đề tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; nhìn nhận và phát huy những giá trị tích cực đạo đức và văn hóa của tôn giáo, đồng thời phát huy nguồn lực xã hội của tôn giáo. Thực hiện đầy đủ và đúng đắn chính sách và quy định pháp luật của Nhà nước về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để tạo niền tin của chức sắc, tín đồ tôn giáo.

 

Giải quyết một vấn đề tôn giáo cụ thể cần chú ý đến các yếu tố: nhu cầu nguyện vọng của tín đồ, chức sắc; chính sách pháp luật đã ban hành; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bình đẳng tôn giáo trước pháp luật; dư luận quốc tế. Khi thực hiện chính sách tôn giáo, cũng như giải quyết các vấn đề tôn giáo nếu có sự khác biệt, nhất là những “điểm nóng tôn giáo”, cần bình tĩnh, không để các phần tử cực đoan kích động tâm lý đám đông qua đức tin tôn giáo. Chú ý việc trao đổi, đối thoại theo phương châm “cầu đồng, tôn dị”, thượng tôn pháp luật nhưng chú ý đến đặc trưng riêng khác của từng tôn giáo.

 

Đối với vấn đề tôn giáo, cần chú ý không nên ban hành văn bản riêng về xử phạt hành chính vì lý do tôn giáo mà thực hiện xử phạt tương tự như công dân, tổ chức xã hội đối với pháp luật. Chính phủ cần cụ thể hoá bằng quy định pháp luật để phát huy nguồn lực tôn giáo đối với từng lĩnh vực, nhất là y tế - chăm sóc sức khoẻ và giáo dục. Nên xây dựng và duy trì cơ chế phù hợp của mối quan hệ giữa Nhà nước với các tôn giáo dưới hình thức hiệp hội tôn giáo như đa số quốc gia đang thực hiện.

 

(4) Đối với mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người và tôn giáo phải thực hiện đúng đắn và đầy đủ chủ trương, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đó là thực hiện các chính sách kinh tế liên quan đến mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo, trong đó chú ý đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế trên cơ sở có sự hợp tác, ứng dụng khoa học công nghệ ở vùng đồng bào DTTS nói chung, vùng đồng bào DTTS theo tôn giáo nói riêng. Đó là tổ chức thực hiện các chính sách xã hội nhằm giải quyết mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo, trong đó cần triển khai hiệu quả các dự án phát triển giáo dục, y tế tại các vùng DTTS tập trung đông đồng bào tôn giáo, đồng thời hoàn thiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội (bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội).

 

Đối với hai vấn đề dân tộc/tộc người và tôn giáo, cần thận trọng, không được khinh xuất hoặc bất cẩn, nếu không thì việc nhỏ trở thành việc lớn, việc đơn giản trở thành phức tạp. Tiếp cận, giải quyết vấn đề dân tộc thiểu số, tôn giáo, mối quan hệ giữa dân tộc/tộc người với tôn giáo phải xác định đúng bản chất, nguyên nhân, tác động, không được quá cường điệu hoá, chính trị hoá, không lấy lý do chính trị để giải quyết vấn đề văn hoá hoặc tình cảm dân tộc, nhất là đối với một số nơi mới có người theo tôn giáo dẫn đến đề xuất và xử lý không hiệu quả, thậm chí để hậu quả nghiêm trọng, lâu dài. Chú ý đến bình đẳng trong việc thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo đối với các cộng đồng DTTS theo tôn giáo, nhất là bình đẳng giữa người Kinh theo tôn giáo với DTTS theo tôn giáo.

 

Chú trọng công tác tuyên truyền tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân, tuyên tuyền về dân tộc - quốc gia và trách nhiệm của các dân tộc, các tôn giáo. Chú ý công tác tranh thủ chức sắc tôn giáo và người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng DTTS, nhất là DTTS theo tôn giáo. Ngoài ra, để hiểu về dân tộc, hiểu về tôn giáo nên đưa vào chương trình giáo dục phổ thông những kiến thức về dân tộc, về tôn giáo một cách phù hợp. Chính điều này để tạo sự hiểu biết rộng rãi trong xã hội về dân tộc và tôn giáo, hỗ trợ cho công tác dân tộc, công tác tôn giáo và giải quyết tốt mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo.

 

Chú trọng đời sống tôn giáo của cộng đồng DTTS qua việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, công nhận tổ chức tôn giáo, thành lập, chia tách, sát nhập, phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, thành lập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc,… theo đúng quy định của pháp luật. Dồng thời, chú trọng giải quyết mối quan hệ dân tộc/tộc người với tôn giáo theo từng khu vực đặc thù. Cụ thể: Đối với người Khmer theo Phật giáo Nam tông cần chú ý hai phương diện dân tộc và tôn giáo liên quan đến lịch sử và hiện tại, liên quan đến trong nước và quốc tế. Cần chú ý những đặc trưng riêng về thực hành tôn giáo, vai trò của tổ chức đối với tín đồ và chức sắc để có một cơ chế tổ chức và ứng xử phù hợp trong gia đình Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

 

Cần chú ý mối quan hệ của Phật giáo Nam tông Khmer, Giáo hội Phật giáo Việt Nam với Phật giáo Nam tông trong khu vực, như: Cămpuchia, Thái Lan, Lào, Myanmar,... Đối với mối quan hệ giữa các DTTS ở Tây Nguyên theo Công giáo và đạo Tin lành chú ý đến những yếu tố xã hội tác động tiêu cực đến mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc ở Tây Nguyên - điều mà tổ chức phản động FULRO khai thác, lợi dụng. Cụ thể: việc sử dụng đất và thực hiện chính sách đất đai; việc số lượng người Kinh gia tăng nhanh ảnh hưởng đến tâm lý sợ “Kinh hoá” người DTTS; sự bình đẳng giữa người DTTS theo tôn giáo với người Kinh theo tôn giáo,...

 

Đối với vấn đề người Mông theo đạo Tin lành cần tiếp tục bình thường hoá hoạt động của đạo Tin lành trong bằng việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung theo Chỉ thị số 01/CT-TTg (2004) và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016). Mở rộng cho các tổ chức Tin lành có tư cách pháp nhân đến quản trị các cộng đồng người Mông theo Tin lành theo cơ chế chi hội - Hội thánh cơ sở tạo sự quản lý về tổ chức góp phần ổn định của đạo Tin lành trong người Mông. Đối với vấn đề người Chăm theo đạo Bàlamôn và Hồi giáo có thể hướng tới một tổ chức chung cho mỗi cộng đồng Chăm theo từng tôn giáo, thay cho Ban Đại diện cấp tỉnh của mỗi tôn giáo (Bàlamôn, Hồi giáo Bàni, Hồi giáo Islam). Đồng thời, chú ý sự khác biệt giữa Hồi giáo Bàni với Hồi giáo Islam trong cộng đồng người Chăm trong nhận thức và ứng xử. Chú ý mối quan hệ giữa Hồi giáo Islam với Hồi giáo thế giới và Hồi giáo khu vực Đông Nam Á - một trong những trung tâm Hồi giáo thế giới.

 

Đồng bào DTTS theo tôn giáo đặt ra cùng một lúc thực hiên cả hai chính sách: chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo.

Do vậy, để thực hiện tốt cần thấy rằng chính sách tôn giáo và chính sách dân tộc có những sự khác biệt nhất định.

 

Chính sách dân tộc là phát triển kinh tế văn hoá, xã hội nâng cao đời sống dân sinh, trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc, là gìn giữ bản sắc văn hoá,...

 

Chính sách tôn giáo là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo cho mọi người, nhìn nhận và phát huy giá trị đạo đức, văn hoá và nguồn lực của tôn giáo;

 

Đối tượng của công tác dân tộc là đồng bào các dân tộc thiểu số, những già làng trưởng bản và người có uy tín trong cộng đồng, còn đối tượng công tác tôn giáo, ngoài cộng đồng tín đồ là các chức sắc, chức việc tôn giáo lực lượng đông đảo được đào tạo, có trí thức và vai trò rất lớn đối với tín đồ,... Tránh việc vì lý do theo tôn giáo mà không thực hiện đầy đủ và đúng đắn chính sách dân tộc, và cũng không vì lý do dân tộc mà không thực hiện đầy đủ và đúng đắn chính sách tôn giáo.

 

PV (Nguồn: Theo Báo cáo chắt lọc kết quả nghiên cứu của Đề tài KX.04.27/21-25)

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết