Chủ Nhật, ngày 05 tháng 01 năm 2025

Tăng cường xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam

Ngày phát hành: 02/01/2025 Lượt xem 205

 

1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (Đại hội XIII) xác định mục tiêu phát triển tổng quát của Việt Nam, thể hiện khát vọng phát triển của dân tộc đến giữa thế kỷ XXI: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

 

 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng và nghị quyết các Đại hội Đảng luôn xác định hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng luôn luôn quan tâm, chăm lo xây dựng, phát triển, hiện đại hóa lực lượng vũ trang nhân dân đủ sức mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của bối cảnh tình hình, đặc biệt là trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc từ Đại hội XIV.

 

Đại hội XIII quyết nghị: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”.[3] Trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng ban hành 02 nghị quyết quan trọng liên quan đến lực lượng Công an nhân dân (LLCAND): Nghị quyết 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về “Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới” và Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

 

Khẳng định mục tiêu, khát vọng phát triển của dân tộc, phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10 và trong nhiều bài viết, phát biểu quan trọng vừa qua, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”. Theo đồng chí Tổng Bí thư: Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là: Kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.

 

Mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới chính là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Thời điểm bắt đầu Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là Đại họi XIV của Đảng (2026-2030)

 

2. Việc tăng cường xây dựng Công an nhân dân nói riêng và lực lượng vũ trang nhân dân nói chung cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là phù hợp với thế và lực của đất nước sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng và bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực và trong nước.

 

Ở trong nước, từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã tiến hành chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vươn mình phát triển, với cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng to lớn. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công; là mô hình đáng học tập trong số các quốc gia đang phát triển. Năm 2023, quy mô nền kinh tế quốc gia đã tăng hơn 10 lần so với năm 2000; GDP đạt 430 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 4.284 USD. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, từ trên 60% (năm 1990) xuống còn 5,71% (năm 2023) theo chuẩn nghèo đa chiều. Tình hình chính trị ổn định, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; an sinh và phúc lợi xã hội được đảm bảo tốt hơn. Chỉ số phát triển con người của Việt Nam ở mức trung bình cao của thế giới…

 

Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 194 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc). Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài…Đối ngoại quốc phòng cùng với đối ngoại an ninh cũng ngày càng mở rộng, là bộ phận quan trọng của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại của đất nước; đóng góp quan trọng vào duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với 65 nước trong đó có các cường quốc trên thế giới; đã thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại 31 nước và đã có 42 nước thiết lập tuỳ viên quốc phòng tại Việt Nam; đã có quan hệ với 162 cơ quan thực thi pháp luật của 64 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã thiết lập quan hệ nhiều mặt với cơ quan thực thi pháp luật của các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ); tham gia hoạt động trong 52 tổ chức, diễn đàn hợp tác quốc tế đa phương, trong đó có INTERPOL và ASEANAPOL; đàm phán, ký kết trên 150 văn bản hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh, trật tự và đấu tranh phòng, chống tội phạm.

 

Quy mô hợp tác trên tất cả lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ ANTT được nâng lên tầm chiến lược; hình thức, cấp độ hợp tác có nhiều đổi mới, ngày càng đa dạng, phong phú; biện pháp hợp tác được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm nhằm thực hiện chủ trương hợp tác để “tăng cường đối thoại, giảm đối đầu”, nhấn mạnh “điểm tương đồng”, giải tỏa “điểm bất đồng”. Thông qua công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế, lực lượng CAND đã tạo được thế trận mới, vững chắc, có tiếng nói quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, nâng cao tiềm lực, vị thế của Công an Việt Nam, góp phần bảo đảm tốt an ninh trật tự và thúc đẩy quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới…

 

Đặc biệt nổi bật là việc LLCAND Việt Nam đã cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình LHQ và cứu hộ, cứu nạn ở nước ngoài. Trong số 13 cán bộ công an đã triển khai có 04 cán bộ nữ (tỷ lệ trung bình cán bộ nữ của các nước là gần 10%) và 01 cán bộ công tác tại Bộ phận Cảnh sát, Cục hoạt động hòa bình, Ban Thư ký Liên hợp quốc tại New York.[4] Bộ Công an đã cử lực lượng tham gia cứu nạn, cứu hộ tại Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 02/2023. Đây là lần đầu tiên Bộ Công an Việt Nam cử một lực lượng lớn gồm 24 đồng chí trong tổng số 100 đồng chí (gồm cả Bộ Quốc phòng) tham gia hỗ trợ công tác tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ ở một nơi xa bên ngoài lãnh thổ. Việc đưa lực lượng Công an tham gia cứu trợ thảm họa và hỗ trợ nhân đạo nạn nhân động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, thể hiện khả năng làm việc trong môi trường quốc tế của LLCAND, tầm vóc, vị thế của đất nước, truyền tải thông điệp khẳng định Việt Nam thực sự là thành viên tích cực, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.

 

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, đất nước ta cũng phải ứng phó với không ít nguy cơ, thách thức ở bên ngoài và trong nước tác động trực tiếp đến nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, cấp thiết đối với công tác Công an. Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhận định, đánh giá: “bốn nguy cơ [Hội nghị Đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (20 - 25/1/1994) chỉ ra] vẫn còn tồn tại, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có mặt gay gắt hơn. Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hoá, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường; chưa bảo đảm phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và thích ứng với biến đổi khí hậu là yêu cầu cấp thiết, đồng thời là những thách thức rất lớn đối với nước ta trong thời gian tới”[5].

 

Xuất hiện các nguy cơ, thách thức mới: (1) Tranh chấp Biển Đông diễn biến ngày càng phức tạp, là mối thách thức lớn nhất đối với chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. (2) Chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng ngày càng được các thế lực thù địch, phản động sử dụng rộng rãi để xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia; chi phối, tác động lớn đến Việt Nam. (3) An ninh truyền thống và phi truyền thống còn diễn biến phức tạp; âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt; tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự diễn biến phức tạp, khó dự báo và kiểm soát; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, truyền thông... tác động sâu sắc, đa chiều đến môi trường an ninh, trật tự của đất nước ta. (4) Trên một số vùng chiến lược, địa bàn trọng điểm ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ: còn tiềm ẩn các yếu tố gây mất ổn định, không loại trừ khả năng xẩy ra bạo loạn chính trị. Qua khảo sát thực tế ở một số tỉnh biên giới Tây Nam Bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc gần đây cho thấy, kẻ địch đang tăng cường thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" đối với địa bàn các tỉnh miền núi, đồng bào vùng dân tộc, chúng tập trung vào cơ sở, làm mục rỗng bộ máy cơ sở chính trị ở địa phương, đầu độc, mê hoặc quần chúng để thực hiện ý đồ phản cách mạng của chúng.

 

Bên ngoài, tình hình thế giới và khu vực thời gian qua và trong thời gian tới diễn biến ngày càng nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đặt ra nhiều thách thức đối với công tác bảo đảm an ninh quốc gia và quản trị quốc gia của Việt Nam. Một số xu hướng và vấn đề lớn là:

 

Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, nguy cơ xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang ngày càng rõ nét. Cạnh tranh Mỹ - Trung là nhân tố chính chi phối cục diện thế giới. Làn sóng dân túy và chủ nghĩa bảo hộ kết hợp với chủ nghĩa dân tộc vị kỷ đã và đang ảnh hưởng mạnh đến tiến trình phục hồi, tăng trưởng và hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. 

 

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tiếp tục có nhiều diễn biến căng thẳng, phức tạp, chứa đựng nhiều mâu thuẫn và nhân tố bất ổn có thể bùng phát thành xung đột, đáng lưu ý là: (1) Các tranh chấp biên giới, lãnh thổ tại khu vực, nhất là tranh chấp biển, đảo trên Biển Đông và Vùng biển Hoa Đông phức tạp hơn, trở thành nguy cơ gây mất ổn định khu vực, ảnh hưởng tới việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải, đe dọa lợi ích chung của các nước trong và ngoài khu vực; (2) Tình hình nội trị nhiều nước diễn biến phức tạp, nhân tố chủ nghĩa dân tộc nổi lên tác động đến quyết sách đối nội và đối ngoại của nhiều quốc gia; (3) Các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt hơn trong khi vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu để đối phó với các nguy cơ này.

 

ASEAN ngày càng hội nhập, tiếp tục phát huy vai trò trung tâm hợp tác, thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương, được nhiều nước lớn coi trọng, tăng cường hợp tác. Tuy nhiên, ASEAN cũng đứng trước nguy cơ ngày càng tăng bị nước lớn gây sức ép lôi kéo, lợi dụng dẫn đến làm suy giảm vai trò trung tâm trong cấu trúc an ninh khu vực của mình. Việt Nam - Lào - Campuchia tuy vẫn giữ được quan hệ truyền thống, hữu nghị đặc biệt, nhưng đã bị tác động chia rẽ từ nhiều phía. Lào, Campuchia tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định về kinh tế, xã hội...

 

Kinh tế thế giới đối mặt nhiều yếu tố bất lợi do tác động kép của đại dịch COVID-19, xung đột Nga - Ukraine, xung đột Israel - Hamas, bất ổn gia tăng tại Trung Đông…. Đại dịch COVID-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu, gia tăng xu hướng bảo hộ, "co cụm" ở hầu hết các quốc gia trên thế giới; đồng thời là yếu tố chính khiến các hoạt động giao lưu, trao đổi bị gián đoạn, tạo cơ hội phát triển cho chủ nghĩa dân tộc, dân túy ở nhiều nơi trên thế giới. Cuộc xung đột Nga - Ukraine càng làm chậm lại quá trình phục hồi nền kinh tế thế giới sau đại dịch. Kinh tế thế giới vẫn đứng trước các thách thức lớn từ xu hướng bảo hộ, đứt gãy chuỗi cung ứng, lạm phát toàn cầu, an ninh năng lượng và lương thực... Trong đó, lạm phát toàn cầu đạt mức cao trong những năm gần đây khiến các quốc gia phải đặt nhiệm vụ kiểm soát lạm phát lên hàng đầu. Các nước lớn đã sử dụng vai trò, ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế để gây sức ép đối với các nước trong khu vực, nhất là trong các tổ chức quốc tế và khu vực mà họ đóng vai trò chủ đạo. Bên cạnh sự cạnh tranh gay gắt, đã có sự thỏa hiệp giữa các nước lớn với nhau, ảnh hưởng đến lợi ích của các nước vừa và nhỏ, trong đó có Việt Nam.

Các thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động nhiều mặt đến sự phát triển của các quốc gia. Các thách thức an ninh phi truyền thống nổi lên như: biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, thiên tai dịch bệnh, tình trạng thiếu hụt tài nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm trên không gian mạng, khủng bố quốc tế... gia tăng. Những thách thức này vừa là mối đe dọa chung đối với loài người và khuyến khích nỗ lực hợp tác tập thể, vừa là phương tiện nhiều quốc gia lợi dụng để làm suy yếu lẫn nhau.

 

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), Điểm “đòn bẩy” là: trí tuệ nhân tạo (AI); công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, robot, internet kết nối vạn vật (IoT) và Internet các dịch vụ (IoS). Đặc trưng của CMCN 4.0 là các hệ thống sản xuất thực-ảo (Cyber-Physical Systems-CPS), lần đầu tiên được TS. James J. Truchard, Giám đốc điều hành của Công ty National Instruments, trong đó thiết bị thông minh làm việc với nhau qua mạng không dây hoặc qua “đám mây”. Quy mô, tốc độ phát triển của CMCN 4.0 chưa từng có trong lịch sử, phát triển cấp số nhân, tác động to lớn về kinh tế và môi trường sinh thái. Tiêu chí tốc độ lan truyền của công nghệ ngày càng nhanh; ví dụ điện thoại cần 75 năm, điện cần 46 năm, tivi cần 22 năm, Internet chỉ cần 7 năm, Facebook cần 4 năm, WeChat cần 1 năm, Pokemon Go cần có 19 ngày… để đạt ngưỡng 50 triệu người sử dụng (Xem hình 1). Cần có 9 tháng để TikTok và 02 tháng để ChatGPT đạt ngưỡng 100 triệu người dùng.[6] Về kinh tế, CMCN 4.0 tác động đến tiêu dùng, sản xuất, năng xuất và giá cả. Bản đồ kinh tế thế giới, bản đồ sức mạnh của các doanh nghiệp cũng đang được vẽ lại. Ví dụ, quy mô thị trường của công nghệ in 3D (một trong những thành tố cơ bản của CMCN 4.0) đã tăng nhanh chóng từ mức chỉ khoảng 3 tỷ USD năm 2012, đạt mức 20,67 tỷ USD năm 2023; dự kiến đạt 98,31 tỷ USD vào năm 2032.[7]


Hình 1: Thời gian để đạt được 50 triệu người sử dụng

 

 

 Tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, tạo ra cả thời cơ, thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (bigdata), điện toán đám mây (cloud computing), trí tuệ nhân tạo (AI)… tiếp tục đưa đến những biến đổi sâu sắc đối với đời sống xã hội, kết cấu giai cấp, năng suất lao động, cơ cấu nghề nghiệp, sự chuyển đổi của hệ thống sản xuất, kinh doanh... Không gian mạng đã trở thành môi trường thứ Năm, với sự ra đời của chiến tranh mạng, tác động sâu sắc đến QP, AN của mọi quốc gia[8]. CMCN 4.0, nhất là công nghệ thông tin cũng tạo ra những thách thức lớn đối với bảo đảm an ninh quốc gia, đặc biệt là vấn đề tội phạm công nghệ cao, an ninh thông tin, an ninh mạng, trong khi Việt Nam chưa tự chủ hoàn toàn về công nghệ, gây nguy cơ mất chủ quyền an ninh thông tin, ở một góc độ nào đó có thể tạo ra hệ lụy rất nguy hiểm.

 

Như GS. Klaus Schwab, Nhà sáng lập và Chủ tịch điều hành Diễn đàn Kinh tế thế giới từng nhận định, CMCN 4.0 thay đổi căn bản cách con người sống, làm việc và tương tác với nhau. Tiến bộ khoa học công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần này hợp nhất thế giới thực, thế giới ảo và thế giới sinh học, vừa tạo ra những hứa hẹn, tiềm năng phát triển to lớn và nguy cơ tiềm tàng. Trí tuệ nhân tạo phát triển nhanh chóng thời gian qua, đem lại những thay đổi to lớn đối với đời sống kinh tế, xã hội, chính trị trên thế giới trong một vài năm vừa qua. Tuy nhiên, AI cũng đặt ra nhiều thách thức như: sự gia tăng của các cuộc tấn công mạng thông qua AI (gây thiệt hại kinh tế thế giới khoảng 8.000 tỷ USD năm 2023, ảnh hưởng đến 353 triệu người; dự kiến con số thiệt hại kinh tế sẽ là 9.500 tỷ USD năm 2024)[9]; nguy cơ các đối tượng khủng bố lợi dụng AI để thực hiện các mục đích xấu như gửi email độc hại, phát tán thông tin sai lệch, thu hút người ủng hộ, lên kế hoạch tấn công khủng bố; hay việc các đối tượng lợi dụng công nghệ deepfake để tạo ra ảnh khỏa thân giả nhằm vào phụ nữ và trẻ em tại Mỹ, Hàn Quốc…[10] Thực tế trên minh chứng cho tác động nhiều mặt của CMCN 4.0. Các quốc gia đều phải tư duy lại cách thức quản trị, phát triển theo hướng tận dụng mặt tích cực của khoa học công nghệ để phát triển, tăng tính cạnh tranh quốc gia, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực mà CMCN 4.0 có thể mang lại.

 

Tác động đối với con người (tồn tại con người): Sự phát triển của khoa học công nghệ và áp dụng vào sản xuất và đời sống xã hội nguy cơ gia tăng nạn thất nghiệp, chênh lệch trình độ phát triển, chênh lệch giàu nghèo, xuất hiện mâu thuẫn xã hội trong thời đại Internet… đặt ra nhiều thách thức mới về đời sống và an ninh, an toàn xã hội và con người. về sinh học, xã hội, và tinh thần đặt ra những yêu cầu mới. Theo dòng chảy của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo (AI) ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cuộc sống. Trí tuệ nhân tạo (AI) có khả năng tự thích nghi, tự học và tự phát triển, tự đưa ra các lập luận để giải quyết vấn đề, có thể giao tiếp như người… Trong khuôn khổ khóa họp lần thứ 48 Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) kéo dài 4 tuần (13/9 - 8/10/2021), Cao ủy Nhân quyền LHQ Michelle Bachelet nhấn mạnh nhu cầu khẩn cấp về việc cấm mua bán và sử dụng các hệ thống trí tuệ nhân tạo (AI) có nguy cơ nghiêm trọng đối với nhân quyền cho đến khi các biện pháp bảo vệ thích hợp được thực thi. Bà Bachelet cũng kêu gọi cấm các ứng dụng AI không được sử dụng nếu không tuân thủ luật nhân quyền quốc tế.

 

Dưới tác động của CMCN 4.0, các quốc gia trên thế giới đang đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ số. Công nghệ số (digital technology) đã biến đổi gần như mọi khía cạnh của cuộc sống hiện đại. Theo một định nghĩa, công nghệ số là các công cụ, thiết bị, hệ thống và tài nguyên điện tử tạo ra, lưu trữ hoặc xử lý dữ liệu. Các công cụ kỹ thuật số bao gồm phương tiện truyền thông xã hội, điện thoại di động, trò chơi trực tuyến và đa phương tiện. Công nghệ số đem lại nhiều lợi ích cho xã hội như: Kết nối xã hội, tăng tốc độ liên lạc, cơ hội làm việc linh hoạt từ xa, cơ hội học tập, tự động hóa, đa dạng hóa và tăng khả năng lưu trữ thông tin, dễ dàng chỉnh sửa thông tin, sao chép chính xác, dịch vụ GPS và bản đồ, hỗ trợ giao thông vận tải, chi phí thấp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu giải trí, tăng khả năng tiếp cận tin tức, giao dịch ngân hàng và tài chính thuận tiện hơn, thiết bị cỡ nhỏ hơn, và khả năng ứng dụng trong chiến tranh[11] (Xem hình 2: 15 lợi ích của công nghệ số).

 

Việt Nam nằm trong top 20 quốc gia có số người sử dụng Internet cao trên thế giới. Theo số liệu của Bộ Thông tin và truyền thông, kể từ khi Internet vào Việt Nam năm 1997 đến cuối năm 2022, hiện có khoảng 72 triệu người sử dụng Internet (chiếm khoảng 73% dân số, đứng thứ 13 trên thế giới), cao hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới (khoảng 51,4%) và các nước châu Á - Thái Bình Dương (khoảng 44,5%).

 

Hơn 72% hộ gia đình (19,79 triệu hộ gia đình) có cáp quang. Về mạng di động, số thuê bao băng rộng là 82,2 triệu, tương đương hơn 74% dân số. Hệ thống cáp quang đã triển khai tới 100% các xã, phường, thị trấn, 91% thôn bản. Số thuê bao điện thoại di động sử dụng smartphone là 94,2 triệu; số thuê bao băng rộng di động là 82,2 triệu đạt tỉ lệ 74,3% dân số...[12] Theo lãnh đạo Trung tâm Internet Việt Nam, Việt Nam hiện có hơn 564.000 tên miền “.vn”, đứng thứ 2 ASEAN, top 10 khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Mức độ sử dụng địa chỉ IP (IPv4, IPv6) của Việt Nam thuộc top 20-30 quốc gia trên toàn cầu. Tỉ lệ ứng dụng IPv6 Việt Nam đạt 53% với hơn 50 triệu người dùng, lọt top 10 nước dẫn đầu thế giới về chuyển đổi IPv6.[13]

 

Đến tháng 01/2023, Việt Nam có khoảng hơn 70 triệu người sử dụng mạng xã hội và 161,6 triệu thiết bị di động kết nối Internet (chiếm 164% tổng dân số).[14] Việt Nam sẽ là quốc gia đứng thứ 10 thế giới về tỷ lệ tăng trưởng người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất trong giai đoạn 2022-2027.[15] Ước tính sẽ có khoảng 82,92 triệu người dùng mạng xã hội tại Việt Nam vào năm 2028.[16] Theo tổ chức We are Social, mỗi người dân Việt Nam dành trung bình khoảng 6 giờ 24 phút mỗi ngày để truy cập Internet, trong đó, dành khoảng 2,5 giờ để vào mạng xã hội. Tỷ lệ người dân lên mạng Internet hàng ngày là 94%.

 

Tuy nhiên, cùng với những lợi ích to lớn về công nghệ thông tin thì chúng ta cũng đang phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ và thách thức với 7 tác hại của Internet: (1) Gia tăng bạo lực mạng; (2) Giảm kết nối, tương tác trực tiếp; (3) Dễ mắc các bệnh tâm thần; (4) Suy giảm sự sáng tạo; (5) Dễ bị đánh cắp thông tin cá nhân; (6) Hình thành thói quen thích được chú ý; (7) não bộ bị “kiệt sức”. Các thế lực thù địch, phản động triệt để sử dụng mạng viễn thông, Internet để tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động biểu tình, gây rối, bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền, thay đổi thể chế chính trị ở nước ta. Xuất hiện hàng nghìn trang thông tin điện tử, blog có nội dung xấu, đăng tải ấn phẩm đồi truỵ, bạo lực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc ta. Tình báo mạng, tội phạm mạng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, gây hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Xác định bảo đảm an toàn, an ninh mạng và thông tin mạng quốc gia, chủ động các vấn đề liên quan, phòng chống chiến tranh mạng đang là yêu cầu bức thiết của đất nước.

 

Theo một thống kê của Bộ Công an, trong gần 10 năm qua, các thế lực thù địch, phần tử xấu đã, đang sử dụng 8.784 web, blog có tên miền nước ngoài; 381 web, blog có tên miền trong nước thường xuyên đăng tải thông tin xấu, độc chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam; đã phát hiện 279 vụ sử dụng Internet xâm phạm an ninh quốc gia, đấu tranh với hơn 200 đối tượng; xử lý 140 đối tượng. Đáng chú ý, trong đó có 219 vụ kích động biểu tình trên không gian mạng; 138 hội, nhóm trá hình hoạt động trên không gian mạng; 45.498 lượt cổng thông tin, trang tin điện tử có tên miền ".vn" bị tấn công, trong đó có 2.113 lượt tấn công các cổng thông tin, trang tin điện tử của cơ quan Đảng, Nhà nước, gây ra những hậu quả nghiêm trọng.[17]

 

3. Bối cảnh thế giới và trong nước đã đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác Công an, nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

 

 Như Tổng thư ký Tổ chức Cảnh sát hình sự thế giới (INTERPOL) Jurgen Stock nhận định trong cuộc họp Đại hội đồng Interpol lần thứ 91 (tháng 11/2023) nhân kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Interpol, thế giới thay đổi ngày càng nhanh chóng, tội phạm cũng có nhiều thay đổi về phương thức, thủ đoạn hoạt động; bối cảnh chính trị thế giới phức tạp hơn (gia tăng căng thẳng địa chính trị, thế giới chia rẽ về nhiều vấn đề…),… đòi hỏi lực lượng thực thi pháp luật cũng phải thay đổi, điều chỉnh để thích ứng, mục tiêu phục vụ tốt hơn nhiệm vụ bảo vụ lợi ích hợp pháp của người dân.

 

Cộng đồng quốc tế đã đạt được nhiều bước tiến trong nỗ lực phối hợp quốc tế đấu tranh phòng, chống tội phạm như xây dựng hệ thống chia sẻ dữ liệu toàn cầu (I-24/7, hệ thống Biometric Hub, chương trình I-CORE Programme, ứng dụng ID ART app…), ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào công tác cảnh sát (thông qua chương trình Interpol Responsible AI Lab), nâng cao năng lực cảnh sát… Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm thời gian qua khẳng định sự cần thiết tăng cường hợp tác toàn cầu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ; hợp tác song phương và khu vực là không đủ. Tổng Thư ký Interpol nhắc lại lời kêu gọi của Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres: “Chúng ta cần một liên minh của thế giới” để ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng.[18]

 

Bên cạnh đó, tình trạng bất bình đẳng ngày càng gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt gia tăng, không gian tài chính bị thu hẹp, tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ngày càng trầm trọng… Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và xung đột có mối quan hệ tương hỗ; tội phạm là chất xúc tác cho xung đột, xung đột xảy ra thì tội phạm có mảnh đất màu mỡ để phát triển.

4. Một số khuyến nghị đề xuất yêu cầu xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 

Một là, Chủ động nâng cao nhận thức về yêu cầu xây dựng lực lượng công an nhân dân trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phải thực sự làthanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn thép” vững chắc bảo vệ Đảng, nhà nước, và nhân dân “chỉ biết còn đảng là còn minh”. Trong gần 80 năm qua, lực lượng CAND dân luôn tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; Đảng ủy CAND, Bộ Công an đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về nêu gương và trách nhiệm nêu gương, đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, lãnh đạo chỉ huy các cấp trong Công an Nhân dân, gắn với tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên, chủ động phòng, ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, chiến sĩ.

 

Nghị quyết 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 tiếp tục khẳng định Công an nhân dân là "lá chắn" và "thanh bảo kiếm" bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Xây dựng LLCAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại là yêu cầu cấp thiết, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đưa nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Nghị quyết xác định: đến năm 2025, LLCAND cơ bản phải tinh, gọn, mạnh; đến năm 2030, LLCAND chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; … Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

 

Tuy nhiên, trong lực lượng CAND, vẫn còn một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ tác động và mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ cơ quan, đơn vị mình;.  Trong lực lượng thuộc CAND có cán bộ lãnh đạo, chỉ huy mắc những sai phạm nghiêm trọng, buông lỏng quản lý, “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, phải xử lý bằng hình thức cách chức, giáng cấp bậc. Có trường hợp bị khởi tố bắt, bắt giam ảnh hưởng xấu đến uy tín, lòng tin của nhân dân đối với lực lượng CAND.

 

Hai là, trong bối cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và thế giới có nhiều thay đổi nhanh chóng, khó lường, cần quán triệt sâu sắc trong Đảng ủy Công an Trung ương và toàn LLCAND về yêu cầu của công tác bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh, tình hình mới góp phần đắc lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Công tác cán bộ đóng vai trò rất quan trọng, cần chú trọng một số yêu cầu về phẩm chất, năng lực cán bộ như sau:

 

Về phẩm chất chính trị: tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, chỉ biết “còn Đảng, còn mình”; tuyệt đối kiên định mục tiêu, lý tưởng, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì con đường xã hội chủ nghĩa; mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc;

 

Về phẩm chất đạo đức, lối sống: thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; luôn rèn luyện đạo đức, lối sống, giữ vững kỷ cương, kỷ luật sĩ CAND.

 

Về phẩm chất năng lực chuyên môn: giỏi về chuyên môn nghiệp vụ công tác, có tinh thần hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế và môi trường xã hội công nghệ số (có khả năng sử dụng thành thạo ít nhất một ngoại ngữ, tiếng dân tộc, tin học, ứng dụng thành tựu của cuộc CMCN 4.0…) để tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm, thực tiễn quốc tế tốt nhất phù hợp với thực tiễn Việt Nam; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện năng lực công tác ngang tầm nhiệm vụ. 

 

Ba là, lực lượng CAND tận dụng tối đa những thành quả của cuộc CMCN 4.0 trong triển khai sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an, bố trí cán bộ tinh gọn, hiệu quả; trong bố trí nhân lực, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Phát huy tối đa lợi thế của mạng Internet, tăng cường cung cấp, cập nhật thường xuyên các thông tin, quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước trên các website, cổng thông tin điện tử nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chính trị, đấu tranh chống lại các quan điểm, luận điệu sai trái. Tiếp tục phát triển công nghiệp an ninh lưỡng dụng, hiện đại, cung cấp trang thiết bị hỗ trợ nội địa đáp ứng yêu cầu công tác, chiến đấu của LLCAND; trong điều kiện cho phép, tăng cường mua sắm trang thiết bị hiện đại của thế giới.

 

Bốn là, kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trong CAND; xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ cao về lý luận, khoa học nghiệp vụ Công an, khoa học - công nghệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia và CMCN 4.0. Đổi mới cơ chế, tạo thuận lợi để các cơ sở đào tạo trong CAND, nhất là các cơ sở giáo dục đại học mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, liên kết đào tạo, liên kết xuất bản các tạp chí khoa học nhằm tạo diễn đàn trao đổi học thuật giữa các bên và cập nhật những công nghệ mới vào giảng dạy. Đổi mới phương thức tuyển dụng và đào tạo cán bộ CAND theo hướng cân bằng việc tuyển học sinh phổ thông vào học trường công an ở một số lĩnh vực công an truyền thống và tuyển cán bộ đã tốt nghiệp đại học bên ngoài vào học thêm bằng thứ hai tại trường công an để bổ sung cho các lực lượng công an sử dụng nhiều kiến thức khoa học công nghệ như an ninh mạng và phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hình sự, cảnh sát môi trường…

Trong thời đại CMCN 4.0, kỷ nguyên đổi mới sáng tạo, xã hội công nghệ số hết sức đề cao vai trò của các kỹ năng mềm. Thế giới đang hình thành một cuộc cách mạng về tư duy đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất, kỹ năng cần có cho người làm việc trong thế kỷ 21. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2016 đã đưa ra 16 kỹ năng cần được đào tạo cho nguồn nhân lực trong thế kỷ 21, trong đó có: 6 kỹ năng nền tảng: Kiến thức về ngôn ngữ, số và toán, kiến thức khoa học, kiến thức công nghệ thông tin, truyền thông, kiến thức tài chính, văn hoá, dân sự; 4 kỹ năng giải quyết các vấn đề phức tạp (như tư duy phản biện, sáng tạo, giao tiếp, hợp tác, liên kết); 6 tính cách:  (như tìm kiếm phá hiện, sáng kiến, kiên trì, thích ứng hoàn cảnh, năng lực lãnh đạo, khả năng nhận thức năng lực xã hội và văn hoá).[19]

 

Năm là, Thực hiện chủ trương đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại về an ninh quốc phòng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới có trình độ phát triển cao về khoa học, công nghệ; nghiên cứu tiếp thu, công nghệ mới chủ động đầu tư trang bị một số trang thiết bị hiện đại để nâng cao năng lực, sức chiến đấu của của LLCAND. Thông qua các chương trình hợp tác nghiên cứu đào tạo ở nước ngoài…để đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, tiếp thu khoa học, công nghệ mới; đặc biệt là công nghệ mới nổi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (bigdata), điện toán đám mây (cloud computing),… tác động và tạo sự đột phá trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Không gian mạng đã trở thành môi trường thứ Năm, với sự ra đời của chiến tranh mạng, tác động sâu sắc đến QP, AN của mọi quốc gia[20].

 

Việt Nam đã có quan hệ với 162 cơ quan thực thi pháp luật của 64 quốc gia và vùng lãnh thổ; đã thiết lập quan hệ nhiều mặt với cơ quan thực thi pháp luật của các nước Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ); tham gia hoạt động trong 52 tổ chức, diễn đàn hợp tác quốc tế đa phương, trong đó có INTERPOL và ASEANAPOL; đàm phán, ký kết trên 150 văn bản hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh, trật tự và đấu tranh Để tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ, tháng 11/2013, Việt Nam đã sửa đổi Điều 89 của Hiến Pháp cho phép các lực lượng vũ trang được triển khai ra nước ngoài.

Bộ Công an xác định cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần thực hiện hóa các cam kết của Đảng và Nhà nước Việt Nam và phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại khi Việt Nam đã là một đất nước hòa bình, độc lập; đóng góp rất hiệu quả cho việc giải quyết các thách thức an ninh của nhân loại. Đặc biệt nổi bật là việc LLCAND Việt Nam thời gian qua đã cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình LHQ và cứu hộ, cứu nạn ở nước ngoài. Trong số 07 cán bộ công an đã triển khai có 02 cán bộ nữ (tỷ lệ trung bình cán bộ nữ của các nước là gần 10%) và 01 cán bộ công tác tại Bộ phận Cảnh sát, Cục hoạt động hòa bình, Ban Thư ký Liên hợp quốc tại New York.[21]

 

Thượng tướng, PGS. TS. Nguyễn Văn Thành[1]

Trung tá, TS. Lục Anh Tuấn[2]

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận: Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011), NXB Sự thật, Hà Nội, 2011.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

8. Nguyễn Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

9. Nguyễn Phú Trọng (2023), Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN thời kỳ mới, Nxb CTQGST, Hà Nội.

10. Nguyễn Phú Trọng (2023), Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản cây tre Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

 



[1] Phó Chủ tịch chuyên trách, Hội đồng Lý luận Trung ương

[2] Thư ký khoa học, Hội đồng Lý luận Trung ương

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157 - 158.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.108. Hội nghị Đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khoá VII (20 - 25/1/1994) xác định 4 nguy cơ thách thức lớn là: (1) Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm xuất phát thấp. (2) Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. (3) Nguy cơ về sự suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí. (4) Nguy cơ “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

[6] Dan Milmo and agency, “ChatGPT reaches 100 million users two months after launch”, ngày 02/02/2023, https://www.theguardian.com/technology/2023/feb/02/chatgpt-100-million-users-open-ai-fastest-growing-app

[8] Xem Adib Farhadi, Ronald P. Sanders, and Anthony Masys, eds. The Great Power Competition Volume 3: Cyberspace: The Fifth Domain. Springer Nature, 2022.

[10] Phan Anh, “Giới chuyên gia lo ngại khủng bố lợi dụng trí tuệ nhân tạo”, ngày 01/09/2024, https://baotintuc.vn/khoa-hoc-cong-nghe/gioi-chuyen-gia-lo-ngai-khung-bo-loi-dung-tri-tue-nhan-tao-ai-20240901203018287.htm; xem Trí Đạt, “Hàn Quốc bùng nổ khủng hoảng ảnh khỏa thân giả bằng AI”, ngày 03/9/2024, https://trithucvn.co/khoa-hoc/tin-kh-cn/han-quoc-bung-no-khung-hoang-anh-khoa-than-gia-bang-ai-quy-mo-lon.html 

[11] Xem Paul Goodman, “16 advantages of digital technology”, cập nhật ngày 24/10/2023, https://turbofuture.com/computers/Advantages-of-Digital-Technology

[12] Xem Hùng Quân, “Việt Nam xếp thứ 13 thế giới về số lượng người dùng Internet”, ngày 07/12/2022, https://cand.com.vn/Cong-nghe/viet-nam-xep-thu-13-the-gioi-ve-so-luong-nguoi-dung-internet-i676888/

[13] Xem Hoàng Nam, “Hơn 73% dân số Việt Nam sử dụng mạng Internet”, ngày 07/12/2022, https://zingnews.vn/hon-73-dan-so-viet-nam-su-dung-internet-post1382700.html

[14] Xem DATAREPORTAL, Digital 2023: Vietnam, ngày 13/02/2023, https://datareportal.com/reports/digital-2023-vietnam

[15] Xem STATISTA, Number of social internet users in selected countries in 2022 and 2027, https://www.statista.com/statistics/278341/number-of-social-network-users-in-selected-countries/

[16] Xem STATISTA, Forcast of the number of social media users in Vietnam from 2019 to 2028, https://www.statista.com/forecasts/1147065/social-media-users-in-vietnam

[17] Xem Hàm Đan, “Tự chủ công nghệ và phát huy trách nhiệm của nhân dân”, ngày 11/12/2021, https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/tu-chu-cong-nghe-va-phat-huy-trach-nhiem-cua-nhan-dan-680198

[18] Directional statement by Interpol Secretary General Jurgen Stock at the 91st General Assembly, organized on 29 November 2023 in Vienna, Austria.

[19] Xem Jenny Soffel, “Ten 21st-century skills every student need”, ngày 10/3/2016, https://www.weforum.org/agenda/2016/03/21st-century-skills-future-jobs-students/ (truy cập ngày 15/3/2022).

[20] Xem Adib Farhadi, Ronald P. Sanders, and Anthony Masys, eds. The Great Power Competition Volume 3: Cyberspace: The Fifth Domain. Springer Nature, 2022.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết