1. Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam và yêu cầu đối với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng thuộc phương pháp cách mạng. Phương thức lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, uy tín, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng không chỉ liên quan đến Đảng, mà có ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến tổ chức, hoạt động của cả hệ thống chính trị; đến mối liên hệ Đảng với nhân dân. Phương thức lãnh đạo của Đảng còn phản ánh trình độ lãnh đạo của Đảng. Khi tình hình, nhiệm vụ cách mạng thay đổi, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo cho phù hợp. Thực tiễn cho thấy, đường lối, chủ trương của Đảng đúng, nhưng phương thức lãnh đạo không phù hợp, có sai lầm, thì việc thực hiện đường lối, chủ trương đó khó thành công, thậm chí trở thành sai lầm.
Là một đảng duy nhất cầm quyền, đang lãnh đạo Nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là đang lãnh đạo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo – một nhiệm vụ mới mẻ, chưa có tiền lệ, nên Đảng ta coi đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền là một nhiệm vụ quan trọng cấp thiết.
Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chủ trương về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, như: Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 30/7/2007 Hội nghị lần thứ năm BCH TW khóa X về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị được Đại hội XIII xác định là một trọng tâm lớn trong công tác xây dựng Đảng. Nhờ đó, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Việc việc ban hành và triển khai thực hiện nghị quyết đã có nhiều đổi mới; việc đổi mới, kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp ủy, tổ chức đảng được tăng cường, từng bước khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Chất lượng đội ngũ cán bộ được nâng lên, việc phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ của Đảng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ngày càng chặt chẽ. Công tác kiểm tra, giám sát được đẩy mạnh, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng.
Trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã có một số bước tiến quan trọng, như: Từ phương thức chủ yếu Đảng lãnh đạo trực tiếp bằng nghị quyết, chỉ thị của Đảng sang phương thức Đảng ra quyết, Nhà nước thể chế hóa nghị quyết, chỉ thị của Đảng thành hệ thống luật pháp của Nhà nước để lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội; từ cơ chế phổ biến là Đảng vừa lãnh đạo, vừa trực tiếp quản lý điều hành hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội sang cơ chế phổ biến là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; từ cơ chế Đảng phân công, chỉ định người đứng đầu các cơ quan nhà nước sang cơ chế Đảng kết hợp giữa phân công và giới thiệu người đứng đầu các cơ quan nhà nước, các cơ quan nhà nước được chủ động xem xét, kiến nghị và thực hiện thông qua một cơ chế pháp luật; từ chế độ, mối quan hệ, lề lối làm việc mang nặng tính sự vụ, thiếu quy chế và chương trình cụ thể sang chế độ làm việc có nền nếp hơn, khoa học hơn với quy chế và chương trình tương đối nhịp nhàng, thống nhất giữa Đảng và Nhà nước. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị vẫn còn những hạn chế: Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. Chậm khắc phục tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Vẫn còn tình trạng trên một số vấn đề, cơ quan đảng còn can thiệp quá sâu vào cơ quan nhà nước; cấp uỷ bao biện, làm thay, lẫn lộn công việc của Đảng và công việc của Nhà nước. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chú trọng công tác kiểm tra, giám sát; chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc. Công tác tuyên truyền, giáo dục chưa tác động đến một số đối tượng, địa bàn. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; tình trạng họp hành nhiều, nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu gương mẫu còn diễn ra ở nhiều nơi.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Điểm hội tụ chiến lược sau 40 năm đổi mới đất nước đang đem đến cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Trước yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới, Đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ: “Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách”[1].
2. Giải pháp tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền là làm thay đổi các hình thức, phương pháp lãnh đạo, cầm quyền, làm cho phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phù hợp hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nội dung cầm quyền và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng, góp phần bảo đảm Đảng lãnh đạo thành công đưa đất nước đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Để thực hiện đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết và định hướng chủ trương, chính sách lớn
Với vị trí, vai trò là phương thức lãnh đạo, cầm quyền cơ bản của Đảng và thực trạng ban hành, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, để đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay, việc hàng đầu là phải đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII yêu cầu: "Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết, hợp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi”[2].
Đồng thời với tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng phải đổi mới tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hoá, thể chế hoá, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng pháp luật.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng pháp luật đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, đảm bảo thể chế hóa nhanh, đầy đủ, chất lượng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc Nhà nước thể hóa các nghị quyết của Đảng. Nghiên cứu thành lập cơ quan giám sát triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, trong đó, trọng tâm là giám sát Nhà nước thể hóa cá nghị quyết của Đảng.
Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.
Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo với vai trò là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác tư tưởng.
Để đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, công tác tư tưởng của Đảng phải tiếp tục được đổi mới toàn diện trên các mặt công tác lý luận, tuyên truyền, cổ động nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, từ đó mà thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân.
Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đảm bảo sự thống trị xã hội những giá trị của nền tảng tư tưởng của Đảng; sự thấu suốt đường lối, chủ trương, chính sách của đảng cầm quyền.
Công tác tư tưởng phải nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội; nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội.
Phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để đảm bảo vai trò, sứ mệnh tiên phong về lý luận của đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, cơ chế quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, tạo môi trường tự do sáng tạo, phát huy tài năng của các văn nghệ sĩ, để thúc đẩy xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới tiên tiến, thật sự đậm đã bản sắc dân tộc.
Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng bằng công tác tổ chức.
Công tác tổ chức của Đảng phải thiết lập, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị đảm bảo sự lãnh đạo, cầm quyền chặt chẽ, thông suốt đối với hệ thống chính trị, các lĩnh vực và xã hội trong điều kiện mới; đồng thời hệ thống tổ chức bộ máy đó phải giúp tháo gỡ các ách tách, trì trệ, thúc đẩy phát triển. Khâu nào, chỗ nào tổ chức không hợp lý, không đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, kìm hãm sự phát triển, phải được rà soát, sửa chữa, kiện toàn, khắc phục. Những bất cập về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay không chỉ làm hạn chế việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng mà đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước, cản trở việc thúc đẩy đất nước bước vào kỷ nguyên mới, vì vậy, “cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”[3], để xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nhiệm vụ trong giai đoạn Cách mạng mới.
Công tác tổ chức phải đảm bảo thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Phương hướng, mục tiêu đổi mới công tác tổ chức là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hoá, xã hội, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cần quán triệt và thực hiện các chủ trương chiến lược: Một là, tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Hai là, cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. Hai là, sơ kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” trong toàn hệ thống chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII; làm cơ sở có những quyết sách mới đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức, cán bộ theo định hướng đã được Trung ương 10 thống nhất.
Năm là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác cán bộ
Công tác cán bộ của Đảng phải quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Đổi mới việc Đảng giới thiệu đảng viên vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị đảm bảo thật sự là đảng viên ưu tú, có đủ đức, đủ tài.
Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền.
Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài Đảng.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị đòi hỏi cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các đảng bộ, chi bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức đảng phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ.
Thực hiện chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp uỷ là chủ tịch Uỷ ban nhân dân, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở những nơi có điều kiện.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, phát huy vai trò những đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp. Coi trọng công tác phát triển đảng viên để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức không đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Bảy là, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Nội dung này yêu cầu phải đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi, trong đó tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có chế tài để phòng ngừa, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm kỷ luật đảng.
Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng.
Tám là, đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng..
Đẩy mạnh cải cách hành chính; tập trung rà soát hệ thống các văn bản của Đảng bảo đảm thống nhất, đồng bộ, liên thông trong hệ thống chính trị; sửa đổi, bổ sung các văn bản có quy định chồng chéo, mâu thuẫn và hủy bỏ những văn bản không còn phù hợp. Tập trung chuyển đổi số trong công tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
PGS,TS Nguyễn Văn Giang
Hội đồng Lý luận Trung ương
[1] Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới, TTXVN, 16/9/2024.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập1, Nxb.Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.84
[3] Tổng Bí thư: Tinh gọn bộ máy đòi hỏi sự hy sinh của cán bộ, đảng viên, Tổng Bí thư: Tinh gọn bộ máy đòi hỏi sự hy sinh của cán bộ, đảng viên; VnExpress, 12/11/2024.