Thứ Hai, ngày 15 tháng 09 năm 2025

Chủ nghĩa tư bản hiện đại và vấn đề đặt ra đối với bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân

Ngày phát hành: 15/09/2025 Lượt xem 26

1. Chủ nghĩa tư bản hiện đại: Vai trò và hạn chế

 

Trải qua quá trình 400 năm tồn tại và phát triển, chủ nghĩa tư bản (CNTB) thể hiện không chỉ là một hệ thống kinh tế có sức mạnh to lớn, mà còn có khả năng điều chỉnh, thích nghi để phát triển. Từ CNTB tự do cạnh tranh khai sơ, CNTB đã phát triển thành CNTB độc quyền, CNTB độc quyền nhà nước và ngày nay là CNTB hiện đại trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hóa. Theo nhiều nhà nghiên cứu, CNTB hiện đại ra đời từ sau chiến tranh thế giới thứ hai với những đặc trưng cơ bản như: độc quyền nhà nước, có sức sản xuất cao, lực lượng lao động có những chuyển biến quan trọng về cơ cấu, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, hệ thống mang tính thế giới và ngày càng mang tính toàn cầu hóa. Trong điều kiện toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0, CNTB hiện đại ngày nay gắn liền với công nghệ số, nên cũng có thể gọi là CNTB kỹ thuật số, hay CNTB công nghệ số. Các công nghệ cốt lõi như Trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa, dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), và công nghệ chuỗi khối (Blockchain) đang làm thay đổi căn bản mô hình sản xuất và kinh doanh. Nổi bật nhất là sự phát triển của kinh tế nền tảng (Platform Economy), nơi các nền tảng số khổng lồ như Uber, Grab (vận chuyển), Foodpanda, ShopeeFood (giao hàng), Shopee, Lazada (thương mại điện tử) đóng vai trò trung gian kết nối người cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng. Điều này không chỉ tạo ra các ngành nghề mới mà còn định hình lại quan hệ lao động, từ mô hình truyền thống sang các hình thức linh hoạt hơn.

 

 

Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Đúng như C. Mác và Ph.Ăng ghen đã khẳng định: Chủ nghĩa tư bản, với tư cách là phương thức sản xuất được hình thành và thay thế phương thức sản xuất phong kiến trong lịch sử, là chế độ kinh tế - xã hội tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó. Đặc biệt, nhờ vận dụng hiệu quả quy luật của kinh tế thị trường, giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sồ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước gộp lại”[1]. Đặc biệt, CNTB hiện đại với việc đẩy mạnh phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ và những điều chỉnh trong quan hệ sản xuất, không chỉ thúc đẩy sức sản xuất xã hội phát triển vượt bậc mà còn tạo ra khả năng giải quyết tạm thời các mâu thuẫn xã hội. Vai trò của CNTB hiện đại thể hiện trên một số phương diện chủ yếu:

 

Một là: Tiến bộ và những đột phá khoa học, kỹ thuật, công nghệ đã mở ra không gian rộng lớn, nâng cao năng suất sản xuất lao động, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa lớn khổng lồ và đặc biệt là thúc đẩy nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất tập trung quy mô lớn, hiện đại.

 

Hai là: Quá trình phát triển của CNTB đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: chuyển từ kỹ thuật lao động thủ công lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động hóa, tin học hóa, số hóa…. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục tự nhiên của con người. CNTB có công lớn trong phát triển các cuộc cách mạng công nghiệp và hiện nay là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 xuất hiện vào đầu thế kỷ XXI, chuyển nền kinh tế của nhân loại bước vào một thời đại mới - thời đại của kinh tế tri thức. Hiện nay, CNTB vẫn đang chiếm ưu thể tuyệt đối về khoa học công nghệ, thích ứng nhanh với thời đại số, phương thức sản xuất số mới, và thực tế đang dẫn dắt công nghệ trong đa số các lĩnh vực của đời sống nhân loại.

 

Ba là: CNTB hiện đại đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xã hội; chuyên môn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc; mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực, giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ… làm cho các quá trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, một quá trình sản xuất xã hội thống nhất. Đây cũng là một trong những điều kiện về kinh tế thuận lợi thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển ngày càng cao hơn.

 

Bốn là: CNTB hiện đại điều chỉnh quan hệ sản xuất theo hướng gia tăng vai trò của chủ sở hữu của Nhà nước, mở rộng sở hữu nhất định cho công nhân, cải tiến tổ chức quản lý và phân phối, đã tạo động lực cho sự phát triển của sức sản xuất xã hội. Đặc biệt, Nhà nước tư sản, thông qua tăng cường chức năng xã hội của nhà nước và bằng các công cụ thuế để phân phối lại, thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, định hướng cho các doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội, đã làm giảm bớt sự phân hóa và các mâu thuẫn, xung đột xã hội.

 

Mặc dù có vai trò rất lớn và đã có sự điều chỉnh nhiều mặt để thích nghi và phát triển, nhưng CNTB hiện đại không thay đổi bản chất của nó là chạy theo lợi nhuận, bóc lột giá trị thặng dư và do đó gây ra rất nhiều hệ lụy cho nhân loại. Những hạn chế nổi bật của CNTB, kể cả CNTB hiện đại hiện nay là:

 

(i) Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết tập trung chủ yếu vì lợi ích của giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân lao động. Mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải vì lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, mà chủ yếu là vì lợi ích thiểu số giai cấp tư sản, của tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính. Cở sở kinh tế của CNTB là dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, trong đó giai cấp công nhân là những người lao động không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị bóc lột giá trị thặng dư. Trong CNTB hiện đại, tư liệu sản xuất vẫn tập trung trong tay các nhà tư bản, đặc biệt là nằm trong tay các tập đoàn tư bản độc quyền, do đó họ là người chi phối việc phân phối sản phẩm xã hội sản xuất ra vì lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, của một nhóm nhỏ tư bản độc quyền. Theo đuổi lợi nhuận là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các nhà tư bản, đúng như C.Mác đã khẳng định “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”[2]. Vì mục đích lợi nhuận độc quyền, các tập đoàn độc quyền không giảm giá cả hàng hóa sản xuất ra, mà họ luôn áp đặt giá bán cao và giá mua thấp, hạn chế sản lượng hàng hóa; các hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng chế chỉ được thực hiện khi vị thế độc quyền của họ được đảm bảo, không có nguy cơ bị lung lay. Do vậy, tư bản độc quyền cũng đã ít nhiều làm kìm hãm cơ hội có thể phát triển tốt hơn cho nhân loại.

 

(ii) Sự phân hóa giàu nghèo ở chính ngay trong lòng các nước tư bản và có xu hướng ngày càng sâu sắc. Sự phân hóa, chênh lệch giàu nghèo trong các nước tư bản đã tồn tại ngay từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời bằng quá trình tích lũy nguyên thủy của tư bản - giai cấp tư sản dùng “bạo lực” để tước đoạt tư liệu sản xuất của những người sản xuất nhỏ, đặc biệt là những người nông dân cá thể. CNTB càng phát triển, tích lũy, tích tụ và tập trung tư bản càng cao, giá trị thặng dư mà các tập đoàn tư bản độc quyền thu được càng lớn, điều đó cũng đồng nghĩa với việc đông đảo giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị “bần cùng hóa”, làm cho thu nhập của giai cấp công nhân ngày càng giảm cả tương đối và tuyệt đối, còn thu nhập của giai cấp tư sản thì ngược lại.

 

(iii) CNTB hiện đại dù đã có điều chỉnh nhưng vẫn là chế độ bất bình đẳng xã hội.

Sự bất bình đẳng xã hội có gốc rễ từ bất bình đẳng trong sở hữu tư liệu sản xuất và dẫn theo đó là bất bình đẳng trong sở hữu tài sản. Sự phân hóa giàu nghèo vừa là biểu hiện của bất bình đẳng xã hội vừa là tác nhân tạo ra các bất bình đẳng trong các phương diện khác của đời sống xã hội, như bất bình đẳng về cơ hội, về bảo đảm quyền. Đặc biệt, sự bất bình đẳng trong CNTB hiện đại nhất là các nước tư bản phương Tây thể hiện ở sự phân biệt đối xử giữa các giai tầng, nạn phân biệt chủng tộc. Trên phạm vi thế giới, sự bất bình đẳng thể hiện ở mối quan hệ giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang và kém phát triển. Các nước tư bản phát triển chi phối hầu như các vấn đề quan trọng trên thế giới, buộc các nước đang và kém phát triển phụ thuộc vào mình theo nhiều cách khác nhau.

 

(iv) CNTB là một trong những nguyên nhân châm ngòi của hầu hết các cuộc chiến tranh trên thế giới. Vì sự tồn tại, phát triển, các cường quốc tư bản ra sức chiếm lĩnh thuộc địa, chiếm lĩnh thị trường, các cường quốc tư bản đã tiến hành phân chia lãnh thổ, thị trường thế giới. Nhưng do sự phân chia lãnh thổ và thị trường thế giới dựa vào sức mạnh của các cường quốc tư bản, hơn nữa do sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị của các nước tư bản, tất yếu dẫn đến các cuộc chiến tranh đòi phân chia lại thị trường thế giới sau khi đã chia xong. Đó chính là nguyên nhân chính dẫn đến hàng trăm các cuộc chiến tranh trên thế giới và là nguyên nhân của các cuộc chạy đua vũ trang. Sang đầu thế kỷ XXI, chiến tranh lạnh đã tạm thời kết thúc, nhưng cũng có thể quay lại bất cứ lúc nào; nguy cơ chiến tranh thế giới cũng đã bị đẩy lùi, nhưng điều đó không có nghĩa là chiến tranh đã bị loại trừ hoàn toàn và hàng chục các cuộc chiến tranh cục bộ, chiến tranh khu vực, chiến tranh sắc tộc và chiến tranh thương mại vẫn liên tiếp xảy ra, trong đó hoặc đứng bên trong hay đằng sau, hoặc trực tiếp hay gián tiếp, hoặc ngấm ngầm hay công khai đều có “bàn tay” của các cường quốc tư bản.

 

Ngày nay chủ nghĩa tư bản đang có nhiều biểu hiện mới về sự dịch chuyển sở hữu, dịch chuyển cách thức sản xuất mới, thích ứng với xã hội số, kinh tế số, sản xuất xanh, tuần hoàn, phát triển mạnh khoa học công nghệ, song từ trong bản chất, những biểu hiện mới này chưa làm thay đổi bản chất của chủ nghĩa tư bản.

 

2. Những vấn đề đặt ra đối với quyền lợi giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản hiện đại

 

Như đã nêu, CNTB hiện đại đang phát triển sang một hình thái mới, đó là CNTB kỹ thuật số, với biểu hiện rõ nét nhất là thay đổi cả lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cả kiến trúc thượng tầng xã hội.

 

Về lực lượng sản xuất, CNTB đã chiếm lĩnh khoa học và công nghệ, dẫn dắt Cuộc cách mạng lần thứ tư mà cốt lõi là công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây, vv… CNTB kỹ thuật số tạo ra tài nguyên mới là dữ liệu, là tư liệu sản xuất vô hạn và càng sử dụng nhanh càng có giá trị. Trong nền kinh tế số hóa, công cụ sản xuất mới chủ yếu là công nghệ số, và với sự trợ giúp của AI, tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo ra các mô hình kinh tế mới như kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh. Điều đó tạo điều kiện cho lao động tiếp cận tri thức, kỹ năng mới để thay đổi chính mình, trở thành lực lượng lao động có trình độ cao.

 

Về quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu không chỉ giới hạn ở tư liệu sản xuất truyền thống, mà đã có sự thay đổi khi sở hữu là sở hữu tư liệu dữ liệu, một dạng tài nguyên vô hạn, khai thác không làm cạn kiệt và có thể nhân giá trị qua các bản sao. Quan hệ tổ chức, quản lý, phân phối cũng có sự thay đổi khi nền sản xuất đi vào phi tập trung hóa, phi trung gian hóa và phân phối theo đóng góp tri thức, bí quyết công nghệ ngày càng được khẳng định.

 

Về kiến trúc thượng tầng xã hội, Nhà nước tư sản đã tận dụng sự phát triển của lực lượng sản suất để điều chỉnh theo hướng chú trọng thực hiện chức năng xã hội, quan tâm đến các vấn đề xã hội, nhất là tìm cách cải thiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ quyền con người, cải thiện môi trường,… Đồng thời, nhà nước tư sản cũng tận dụng các thành tựu của công nghệ để cải tiến thể chế, phương thức vận hành, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của quần chúng nhân dân.

Những biểu hiện mới của CNTB hiện đại trong thời đại số hóa làm cho nhiều người nghĩ rằng, CNTB hiện đại trong thời đại số hóa đã thay đổi bản chất, nhưng thực chất, CNTB không hề thay đổi bản chất của nó. Điều đó thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa tư sản và công nhân cũng như đại bộ phận nhân dân lao động. Riêng với giai ấp công nhân, trong CNTB hiện đại, đặt ra rất nhiều vấn đề về bảo vệ quyền. Cụ thể:

 

Thứ nhất: Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế nền tảng.

 

 CNTB hiện đại thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vì mục tiêu lợi nhuận mang đến nguy cơ thất nghiệp công nghệ và làm phân hóa lao động. Máy móc, robot và trí tuệ nhân tạo đang dần thay thế lao động giản đơn, lặp đi lặp lại trong nhiều ngành nghề, từ sản xuất, dịch vụ khách hàng đến kế toán, lái xe.

 

Sự phát triển này cũng gây ra phân hóa lao động sâu sắc. Khoảng cách ngày càng lớn giữa lao động có kỹ năng cao (những người làm việc với công nghệ, có khả năng phân tích, sáng tạo) được trả lương cao và lao động giản đơn (dễ bị thay thế, lương thấp) đang gia tăng. Điều này tạo ra một thị trường lao động phân cực, nơi một số người hưởng lợi lớn từ công nghệ trong khi những người khác bị bỏ lại phía sau.

 

Kinh tế gig (Gig Economy), với sự gia tăng của lao động hợp đồng ngắn hạn, lao động tự do (freelancer) và lao động nền tảng (shipper, tài xế công nghệ), đang làm xói mòn các quyền lợi an sinh xã hội truyền thống. Những người lao động này thường không được hưởng các quyền lợi cơ bản như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, nghỉ phép có lương, hoặc lương tối thiểu. Mối quan hệ lao động không rõ ràng (người làm công hay đối tác độc lập?) khiến việc bảo vệ quyền lợi của họ trở nên khó khăn.

 

Thêm vào đó, giám sát và kiểm soát lao động bằng công nghệ đang trở thành một vấn đề đáng lo ngại. Các thuật toán và hệ thống giám sát có thể theo dõi hiệu suất làm việc, vị trí, và thậm chí cả cảm xúc của người lao động. Điều này không chỉ gây áp lực lớn mà còn có thể xâm phạm quyền riêng tư và làm suy yếu quyền tự chủ của người lao động.

 

Thứ hai: Phân hóa hóa xã hội làm cho khoảng cách giữa giới tư bản và công nhân ngày càng gia tăng

 

Như đã nêu trên, một trong những hệ quả rõ rệt nhất của CNTB hiện đại ngày nay là sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo. Tài sản và thu nhập ngày càng tập trung vào một nhóm nhỏ siêu giàu, trong khi phần lớn giai cấp công nhân và người lao động gặp khó khăn trong việc duy trì mức sống và tích lũy tài sản. Về tổng thể, giai cấp công nhân trên phạm vi toàn thể hệ thống chủ nghĩa tư bản vẫn là giai cấp phụ thuộc vào nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô sở hữu của giai cấp công nhân trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm tỷ trọng không đáng kể so với quy mô sở hữu cũng như giá trị tài sản của toàn bộ giai cấp tư sản.

 

 

Trong CNTB kỹ thuật số, một bộ phận nhỏ người lao động đã chiếm lĩnh vị trí chi phối quá trình sản xuất số, một số ít người lao động là các kỹ sư phần mềm, người nắm tài sản trí tuệ, bộ phần này chi phối quá trình tổ chức công nghệ sản xuất nên có vai trò ảnh hưởng nhất định đối với giới chủ sở hữu tư bản. Tuy nhiên, thiểu số người như vậy vẫn chưa thay đổi địa vị giai cấp công nhân trong quan hệ với toàn bộ giai cấp tư sản trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.

 

Sự bất bình đẳng này còn thể hiện ở việc giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như giáo dục chất lượng cao và y tế. Các dịch vụ này ngày càng trở nên đắt đỏ, làm giảm cơ hội thăng tiến xã hội của con em công nhân và củng cố vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Hơn nữa, sự bất ổn trong cuộc sống của người lao động gia tăng do áp lực về nhà ở, chi phí sinh hoạt leo thang, và thiếu an toàn việc làm trong bối cảnh thị trường lao động biến động.

 

Thứ ba: Thách thức từ toàn cầu hóa TBCN

 

Toàn cầu hóa đã làm tăng cạnh tranh lao động toàn cầu. Các công ty có thể dễ dàng dịch chuyển sản xuất đến các quốc gia có chi phí lao động thấp hơn, tạo áp lực giảm lương, cắt giảm phúc lợi và nới lỏng các tiêu chuẩn lao động ở các nước phát triển để duy trì năng lực cạnh tranh. Hiện tượng này được gọi là "cuộc đua xuống đáy" (Race to the bottom). Điều này dẫn đến tình trạng mất việc làm ở các nước phát triển và gây áp lực lên mức lương, điều kiện làm việc của người lao động ở các nước đang phát triển.

 

Suy yếu quyền lực của chính phủ quốc gia: Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các tập đoàn đa quốc gia có thể gây áp lực lên chính phủ các nước để nới lỏng quy định lao động hoặc giảm thuế nhằm thu hút đầu tư, làm suy yếu khả năng bảo vệ người lao động của chính phủ.

 

 Bên cạnh đó, vấn đề lao động di cư cũng trở nên phức tạp. Hàng triệu người lao động di chuyển qua biên giới để tìm kiếm cơ hội việc làm, nhưng họ thường phải đối mặt với điều kiện làm việc khắc nghiệt, lương thấp, thiếu bảo hộ pháp lý, và nguy cơ bị bóc lột, đặc biệt trong các ngành như xây dựng, nông nghiệp, hoặc giúp việc gia đình.

 

Thứ tư: Sự suy yếu của các tổ chức công đoàn và quyền thương lượng tập thể

 

Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay, Áp lực từ doanh nghiệp và chính phủ thông qua các chính sách chống công đoàn, hoặc việc tạo ra các rào cản pháp lý, khiến việc tổ chức và hoạt động của công đoàn trở nên khó khăn…dẫn đến sự suy yếu của quyền thương lượng tập thể.

 

 Đặc biệt, khó khăn trong việc tổ chức lao động mới là một vấn đề lớn. Các hình thức lao động phi chính thức, lao động trong kinh tế gig, và lao động trong các ngành công nghệ cao thường phân tán, không có địa điểm làm việc cố định, gây khó khăn cho việc tập hợp và tổ chức công đoàn.

 Cuối cùng, pháp luật lao động chậm thích nghi với các hình thức lao động mới trong khi nhiều quy định pháp luật hiện hành không còn phù hợp với thực tế của lao động nền tảng hay lao động tự do, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền lợi của họ.

 

3. Định hướng bảo vệ quyền lợi chính đáng của giai cấp công nhân trong CNTB hiên đại ngày nay

 

Để đối phó với những thách thức trên, cần có những giải pháp đồng bộ và sáng tạo ở nhiều cấp độ, từ quốc tế đến quốc gia và cá nhân.

 

Ở cấp độ quốc tế, trước hết cần thúc đẩy và thực thi các tiêu chuẩn lao động quốc tế, làm cơ sở để đấu tranh với các tập đoàn tư bản độc quyền trong bảo đảm các tiêu chuẩn điều kiện lao động quốc tế. Các đảng cộng sản cần phối hợp hành động chung để bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Đồng thời, cần đẩy mạnh hợp tác công đoàn để có tiếng nói chung. Cùng với đó, cần thúc đẩy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp toàn cầu, bảo đảm các doanh nghiệp thực hiện các trách nhiệm góp phần thực hiện an sinh xã hội, bảo vệ môi trường. Một giải pháp quan trọng khác là thúc đẩy việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp lao động quốc tế.

 

Ở cấp độ quốc gia, cần chú trọng hoàn thiện và thực thi pháp luật lao động; xây dựng chính sách an sinh xã hội toàn diện và linh hoạt; đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục và đào tạo lại; kiểm soát quyền lực tập đoàn và thúc đẩy cạnh tranh công bằng; thúc đẩy đối thoại xã hội ba bên (Nhà nước, người sử dụng lao động và đại diện người lao động (công đoàn).

 

Với Việt Nam, đường lối phát triển đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ là độc lập dân tộc dân tộc gắn liền với CNXH, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc với những tám đặc trưng cơ bản: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Giai cấp công nhân, thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo đất nước, đồng thời là hạt nhân trong liên minh Công nhân - Nông dân - Trí thức, tạo nền tảng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

 

Trong kỷ nguyên công nghệ số và toàn cầu hóa hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển cả số lượng và chất lượng, thực sự là lực lượng tiên phong trong xây dựng và phát triển đất nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đền vấn đề phát triển bao trùm, lấy con người làm trung tâm, nên đặc biệt chú trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của giai cấp công nhân và mọi giai tầng trong xã hội. Với phương châm kiên định và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ, văn hóa và thành tựu phát triển của nhân loại, Việt Nam nghiên cứu tiếp thu những thành tựu mà CNTB hiện đại đạt được, đồng thời kiên quyết đi theo con đường XHCN, tuyệt đối không đi theo con đường TBCN. Bởi lẽ, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”[3]. Rõ ràng, mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một gợi mở về sự phát triển của nhân văn, trong đó giai cấp công nhân và nhân dân lao động không chỉ được bảo đảm quyền lợi mà thực sự là chủ thể, động lực và mục tiêu của phát triển đất nước.

 

Tóm lại, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay, đặc biệt trong  điều kiện toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp 4.0, đã mang lại những thành tựu vượt bậc nhưng cũng tạo ra những thách thức sâu sắc đối với quyền lợi chính đáng của giai cấp công nhân. Chính vì vậy, hướng đến một sự phát triển văn minh, hiện đại thì việc bảo vệ quyền lợi công nhân không chỉ là vấn đề đạo đức hay công bằng xã hội, mà còn là yếu tố then chốt cho sự phát triển bền vững của mỗi Chính phủ, mỗi quốc gia và thế giới. Việt Nam với đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế theo định hướng XHCN đang cho thấy một con đường mới trong phát triển bao trùm, nhân văn, vì hạnh phúc con người./.


GS.TS Lê Văn Lợi*

 


* Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

[1] C.Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, trang 603

[2] C.Mác và Ph. Ăng ghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 23, trang 879

[3] Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2022, trang 21

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết