Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
55 năm trước, từ các ngày 1 đến 15/5/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lại và viết lại bản Di chúc của Người vẫn với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật". Trong đó, ngày 11/5, đúng 9h sáng, Người tiếp tục viết Di chúc phần nói về công tác chỉnh đốn Đảng: Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân…” (1). Không chỉ là người sáng lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một Đảng kiên cường, trong sạch, vững mạnh. Vấn đề xây dựng Đảng là một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đầu tiên trong bản Di chúc.
Vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên vị trí hàng đầu
Vấn đề xây dựng Đảng là một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đầu tiên trong bản Di chúc. Dù Người đã nhiều lần sửa lại Di chúc nhưng vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được Người đặt lên vị trí hàng đầu.
Trong lần sửa Di chúc vào tháng 5/1968, khi đề cập đến công việc phải làm ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân thắng lợi, Người viết: “Theo ý tôi, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Trong bản Di chúc được công bố năm 1969, Người cũng dành phần đầu tiên (sau lời giới thiệu về Di chúc) để “nói về Đảng”. Đầu tiên Người khẳng định vị trí, vai trò của Đảng: Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” (2). Đây là sự tổng kết mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc về vị trí, vai trò của Đảng. Thực tế cho thấy, từ khi được thành lập, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, lập nên nhà nước công nông đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Tiếp đó, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Và, cho đến thời điểm Người viết Di chúc, Đảng đang lãnh đạo nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, yếu tố cốt lõi mang đến sự thành công trong việc tổ chức, lãnh đạo của Đảng đó là “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc” (3). Đây chính là yếu tố quan trọng giúp cho Đảng có khả năng tổ chức, lãnh đạo, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Do đó, Người nhấn mạnh: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” (4). Là người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết thống nhất trong Đảng chính là cơ sở của đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế, là sức mạnh của Đảng và là nguồn gốc của mọi thắng lợi. Do đó, trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết đã được Bác đặt lên hàng đầu.
Không chỉ chỉ ra vai trò to lớn của sự đoàn kết, Người còn chỉ ra cách thức, phương pháp để thực hiện đoàn kết nhất trí trong Đảng. Đó là “thực hành dân chủ rộng rãi”, “thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” và “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” (5). Đây không chỉ là sự đúc kết, khái quát mang tầm lý luận sâu sắc mà còn là biểu hiện tầm cao trí tuệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để tạo nên một tập thể đoàn kết và vững mạnh cần có sự nỗ lực của mỗi cá nhân. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” (6). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy, đạo đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ. Bởi có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước; có đạo đức cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt...
Cuối cùng Người căn dặn: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (7). Để Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” (8). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhắc nhở rằng, trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó thì đó chính là “kẻ thù nội xâm” nguy hiểm khôn lường.
Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi hơn nửa thế kỷ, nhưng những điều Người dặn về xây dựng, chỉnh đốn Đảng vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 5 thập kỷ qua, Đảng ta đã không ngừng chăm lo tự xây dựng, chỉnh đốn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Nghị quyết Trung ương 23, khóa III (tháng 12/1974) về xây dựng Đảng đã tạo sức mạnh, sự thống nhất ý chí, hành động của Đảng, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) là sự tự phê bình, phê bình nghiêm túc, một cuộc chỉnh đốn lớn để đi đến hoạch định đường lối đổi mới. Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6/1992) về đổi mới, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng cho công cuộc đổi mới phát triển mạnh mẽ vượt qua thách thức của sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô…
Bên cạnh những kết quả, thành tích đã đạt được, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng cũng còn những hạn chế, khuyết điểm: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước; công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hạn chế. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch nhiều lần tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam, bằng nhiều âm mưu, thủ đoạn nhằm kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội; hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.
Nhận thấy rõ nhiều nguy cơ, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ban hành Nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; tiếp đến Hội nghị Trung ương 4, khóa XII tiếp tục ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, thể hiện rõ quyết tâm chính trị, nhằm lập lại kỷ cương trong Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Và đến Hội Nghị Trung ương 4 khóa XIII, Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; và Quy định mới Về những điều đảng viên không được làm.
Đứng trước tình hình thế giới và trong nước đang tạo ra cả thuận lợi và thách thức đan xen, toàn Đảng ta tiếp tục kiên định lập trường, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá. Đồng thời, tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế./.
Theo TTXVN
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616
(2), (3), (4), (5), (6), (7): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.15, tr.621, 622
(8): Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, t.6, tr.16