Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế và những vấn đề đặt ra trong thực hiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid – 19

Ngày phát hành: 19/01/2022 Lượt xem 23826


                                                    

1. Nguồn lực và phân bổ nguồn lực

Khái niệm nguồn lực là một dạng khái niệm mở, được bổ sung, làm giàu thêm nội hàm gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người trong đó cốt lõi là sự phát triển của khoa học công nghệ. Nếu như Adam Smith xem nguồn lực bao gồm đất đai, vốn và lao động thì các nhà kinh tế học sau này quan niệm nguồn lực không chỉ bao gồm ba yếu tố như vậy mà còn cả các yếu tố như địa lý, thể chế…, thậm chí là cả các nguồn lực hiện có và nguồn lực hình thành trong tương lai.

Theo Từ điển Oxford Advanced Learner`s Dictionary, từ nguồn lực được giải nghĩa là những thứ cung cấp cho một quốc gia, một tổ chức hoặc một cá nhân có thể sử dụng, đặc biệt nhằm mục đích tăng sự thịnh vượng. Từ điển Tiếng Việt, nguồn lực là một từ ghép có nghĩa là nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi cung cấp sức mạnh.

Theo tác giả Lê Du Phong (2006) “nguồn lực là tổng hợp các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo nên nền kinh tế của một đất nước và thúc đẩy nó phát triển”. Theo các tác giả Ngô Doãn Vịnh, Bùi Tất Thắng, Nguyễn Hoàng Hà (2011) nguồn lực phát triển là tất cả “các yếu tố đầu vào” đang sử dụng hoặc ở dạng dự trữ, dự phòng sẵn sàng sử dụng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của xã hội. Tác giải Phùng Quốc Hiển (2020), quan niệm nguồn lực của một quốc gia phải là sức mạnh tổng hợp được tích lũy từ điều kiện địa lý, lịch sử văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn lực lao động, các tài sản hiện có khác và tiềm năng, thế năng của những tài sản hình thành trong tương lai của một quốc gia, bao gồm cả nội lực bên trong và ngoại lực từ bên ngoài mà quốc gia đó có thể huy động. Trong khi đó Nguyễn Hồng Sơn và cộng sự (2020) xem nguồn lực là các yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của xã hội theo những cách thức khác nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia.

Như vậy, nguồn lực phát triển của quốc gia là các yếu tố đầu vào, ở dạng vật thể hoặc phi vật thể, đang và sẽ được sử dụng trong hoạt động sinh tồn và phát triển của quốc gia đó. Các yếu tố này có thể thuộc về thành tựu của nhân loại, có thể là sở hữu công (trong phạm vi từng quốc gia), hoặc sở hữu tư.

Các quốc gia, các chủ thể trong nền kinh tế đều muốn gia tăng nguồn lực. Một quốc gia, một chủ thể (các nhân, tổ chức) có nguồn lực lớn cũng là quốc gia, chủ thể giàu có. Tuy nhiên để duy trì, gia tăng sự giàu có cần có sự phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực phát triển.

Phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế là sự phân bổ nhân tố sản xuất cho các mục đích sử dụng khác nhau dựa trên nhu cầu của người tiêu dùng. Nguồn lực được phân bổ tối ưu khi tỷ lệ các nhân tố đầu vào được sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ phản ánh đúng chi phí tương đối của chúng, sao cho tối thiểu hóa được chi phí sản xuất, và khi sản lượng hàng hóa và dịch vụ phản ánh chính xác thị hiếu của người tiêu dùng về các loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau.

Trong lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới, nguồn lực của một quốc gia có thể được phân bổ theo cơ chế thị trường hoặc cơ chế kế hoạch hóa tập trung với vai trò quyết định của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh tự do, cơ chế giá cả sẽ hướng sự phân bổ nguồn lực vào những hàng hóa và dịch vụ có nhu cầu tiêu dùng. Nếu nhu cầu tiêu dùng hàng hóa ở một lĩnh vực hay ngành nào đó tăng thì giá sẽ tăng. Giá tăng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp vận dụng nguồn lực để sản xuất nhiều hơn mặt hàng đang có nhu cầu tăng và khi đó thường xuất hiện thêm các nhà sản xuất tham gia thị trường. Trong một môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp có động lực cao để chọn lựa công nghệ và nguồn lực nhằm sản xuất với chi phí thấp. Nếu nhu cầu tiêu dùng một mặt hàng giảm, giá sẽ giảm, khi đó nguồn lực dùng để sản xuất mặt hàng này được giải phóng và chuyển sang lĩnh vực khác có nhu cầu tiêu dùng cao. Với cơ chế này, khi thị trường hoạt động lành mạnh thì các nguồn lực sẽ được phân bổ theo nhu cầu thực về các hàng hóa và dịch vụ, sẽ không có lãng phi, đầu cơ trục lợi…Tuy nhiên trên thực tế, cơ chế thị trường luôn có những hạn chế như tình trạng độc quyền, thông tin bất đối xứng, các ngoại ứng…Chính điều này dẫn đến có những lĩnh vực hàng hóa thiếu, có những lĩnh vực và thời kỳ hàng hóa dư thừa so với nhu cầu thị trường. Biểu hiện ra bên ngoài là các cuộc khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa, hoặc là sự khan hiếm hàng hóa, giá cả tăng vọt (khủng hoàng năng lượng), nền kinh tế mất ổn định vĩ mô. Thực tế là nguồn lực đã không được phân bổ hợp lý vào những ngành, lĩnh vực cần thiết. Khi khủng hoảng nổ ra, cũng là thời kỳ tái cơ cấu các nguồn lực trên phạm vi và quy mô rộng lớn.

 

Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước phân bổ nguồn lực theo quy hoạch và kế hoạch. Quy hoạch và kế hoạch phát triển quốc gia nói chung và trong từng lĩnh vực cụ thể được xác định theo lộ trình thời gian và với các mục tiêu định sẵn, sản xuất cái gì, bao nhiêu, cho ai đều được quyết định bởi Nhà nước thông qua các kế hoạch. Kế hoạch mang tính pháp lệnh, bắt buộc. Về mặt lý thuyết, dường như nhu cầu luôn được bảo đảm theo kế hoạch, tuy nhiên thực tế không như vậy, do bản thân Nhà nước có những hạn chế, làm cho việc xây dựng các kế hoạch không phản ảnh đúng nhu cầu thị trường. Nhà nước thường thiếu thông tin trước biến chuyển khó lường của thị trường. Thông tin về tình hình thị trường, tương tác trên thị trường và diễn biến thị trường rất khó lường để Nhà nước ra quyết định. Hơn nữa Nhà nước, với tư cách chủ sở hữu (đại diện) và nắm quá nhiều quyền hành phân bổ nguồn lực thì đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng thường xảy ra. Tham nhũng thường đi liền với “nhóm trục lợi”, tức là sự bắt tay giữa một bộ phận công chức nhà nước và doanh nghiệp để hướng lái chính sách, lũng đoạn thị trường, tổn hại lợi ích chung của xã hội và của người tiêu dùng. Tham nhũng làm cho nguồn lực không đến đúng chỗ cần kinh doanh hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí, gia tăng bất công phi pháp trong xã hội. Hơn nữa, bản thân nguồn lực của Nhà nước cũng hạn chế không thể đủ đáp ứng mọi nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Trong nền kinh tế này, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu; các công cụ như giá cả, lãi suất, tiền lương chỉ áp dụng để tính toán một cách hình thức và vì vậy giá cả không phản ánh chính xác quan hệ cung cầu. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chủ yếu tập trung hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh được giao, do vậy tính hiệu quả kinh doanh và động lực sản xuất bị xem nhẹ, thậm chí bị triệt tiêu. Thực tế lịch sử phát triển của nền kinh tế thế giới đã minh chứng tính không hiệu quả của cơ chế phân bổ nguồn lực theo mô hình kế hoạch hóa tập trung.

 

Như vậy tuyệt đối hóa cơ chế thị trường, bỏ qua vai trò Nhà nước hay tuyệt đối hóa cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bỏ qua quan hệ hàng hóa - tiền tệ, bỏ qua thị trường trong phân bổ nguồn lực đều không thành công. Các quốc gia theo mô hình kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, sau những thất bại, đã phải điều chỉnh, chuyển sang thực hiện cơ chế hỗn hợp, trong đó chú ý cả vai trò Nhà nước và thị trường. Đồng thời các quốc gia thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung cũng đã cải cách, đổi mới phát triển nền kinh tế thị trường với các sắc thái khác nhau, trong đó đồng thời chú ý cả vai trò thị trường và vai trò Nhà nước[1].

 

 

2. Đổi mới tư duy về cơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Sau khi thống nhất đất nước (1976), Việt Nam tiếp tục phát triển nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Với những hạn chế vốn có của nền kinh tế dân tộc, cùng với những khó khăn trong môi trường phát triển đã đẩy nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm chủ quan, duy ý trí, đồng thời khẳng định: “kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ chế mới lấy kế hoạch hóa làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu”[2]. Có thể nói đây là sự đổi mới có ý nghĩa bước ngoặt tại Đại hội lần thứ VI trong nhận thức của Đảng về vai trò của hàng hóa, tiện tệ, mặc dù vẫn yêu cầu quản lý nền kinh tế theo kế hoạch. Đến Đại hội VII, đã khẳng định: “ Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”, trong đó: “Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường”[3]. Như vậy, bên cạnh Nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô, cơ chế thị trường đã được thừa nhận là một trong những cơ chế phân bổ nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội.

 

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) tiếp tục khẳng định một bước tiến mới trong nhận thức của Đảng về cơ chế phân bổ nguồn lực dựa vào thị trường: “Thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch. Kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh,.. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bảy kinh tế và bằng nguồn lực kinh tế của khu vực kinh tế nhà nước”[4]. Tuy nhiên, kinh tế thị trường đòi hỏi phải hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp, văn minh, vì lợi ích phát triển đất nước, chứ không phải làm phá sản hàng loạt, lãng phí các nguồn lực. Để bảo đảm điều đó: “Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh nhằm phát huy tác động tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của thị trường”[5].

 

Đại hội IX của Đảng lần đầu tiên xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội tiếp tục khẳng định thực hiện: “quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất”[6], “Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ”[7]. “Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập”[8].

 

Đại hội X xác định rõ hơn các chức năng cơ bản của Nhà nước là: “Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường… Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển… Hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường”[9] và “phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh”[10].

 

Báo cáo Chính trị trình Đại hội XI chỉ rõ:Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực”[11].

 

Đại hội XII, Đảng ta khẳng định rõ ràng trong Nghị quyết về cơ chế phân bổ nguồn lực phát triển: “thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”[12].

Đại hội XIII tiếp tục khẳng định: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực”[13], “Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trướng”[14], “Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực”[15]. Đáng chú ý, tại Đại hội XIII, vai trò của thành tố xã hội cũng được khẳng định trong mối quan hệ với nhà nước và thị trường, ngoài việc tạo liên kết, cung cấp dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ lợi ích các thành viên, còn thực hiện vai trò phản biện và giám sát các cơ chế chính sách.

 

Như vậy trong tiến trình đổi mới, nhận thức về cơ chế phân bổ nguồn lực của Đảng và Nhà nước ta ngày càng đầy đủ, hoàn thiện. Từ nền kinh tế kế hoạch tập trung, Việt Nam chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ở đó các thành phần kinh tế bình đẳng, các hoạt động kinh tế bị chi phối bởi các quy luật kinh tế thị trường và đồng thời được dẫn dắt bởi nguyên tắc, bản chất chủ nghĩa xã hội. Do vậy, việc phân bổ các nguồn lực do thị trường quyết định, Nhà nước căn cứ quy hoạch, kế hoạch để phân bổ các nguồn lực nhà nước phù hợp với cơ chế thị trường. Việc phân bổ và sử dụng được sự giám sát, kiểm tra của cộng đồng nhằm bảo đảm mọi người đều được thụ hưởng thành quả tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy phân bổ nguồn lực chịu sự tương tác ràng buộc của mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội (cộng đồng).

 

3. Thực tiễn phân bổ nguồn lực trong quá trình phòng, chống đại dịch và khôi phục, phát triển kinh tế thời gian qua

Trong thực tiễn phòng chống dịch Covid-19, khôi phục sản xuất thời gian qua đã có sự vào cuộc của cả Nhà nước, doanh nghiệp và cộng động. Vai trò của các thành tố này nhìn từ góc độ huy động và phân bổ nguồn lực thời gian qua thể hiện cụ thể như sau:

Vai trò của cộng đồng trong huy động, phân bổ nguồn lực chống dịch và phục hồi sản xuất thời gian qua thể hiện khá đa dạng. Điều này trước hết là phương thức tham gia của cộng đồng, thông qua các hình thức vận động và tự nguyện, người dân đã đóng góp nguồn lực cho phòng dịch ngay từ những ngày đầu bùng phát dịch, chẳng hạn các hoạt động ủng hộ nông, lâm, thủy, hải sản hỗ trợ nhân dân vùng phong tỏa, cách ly, giãn cách xã hội, cơ sở cách ly, điều trị bệnh nhân Covid-19; các phong trào “Triệu phần quà đại đoàn kết tiếp sức đồng bào miền Nam vượt qua đại dịch Covid-19”, Chương trình “Triệu túi an sinh”, Chương trình “Triệu phần quà san sẻ yêu thương”, …

Các nguồn vận động từ cộng đồng, đối với địa phương thực hiện giãn cách được giữ lại phục vụ hoạt động chống dịch, đối với địa phương chưa thực hiện giãn cách, được sử dụng 50% và 50% còn lại chuyển quỹ chung hỗ trợ các tỉnh, thành khác để mua vắc xin; chi hỗ trợ mua vật tư, thiết bị y tế phòng.  Đối với các bộ, ngành, lực lượng tuyến đầu như Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, kinh phí vận động một ngày lương được để lại 100% để hỗ trợ, giúp đỡ lực lượng trong ngành làm nhiệm vụ hoặc chi viện cho TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phía Nam phòng, chống dịch.

Theo số liệu thống kê, từ ngày 1-5-2021 đến nay, trên phạm vi cả nước Quỹ Vắc xin phòng Covid-19 đã vận động được 21.248 tỷ đồng. Số kinh phí và hiện vật tiếp nhận được, đã phân bổ, hỗ trợ công tác phòng, chống dịch và chi mua vắc xin phòng Covid-19 là 18.003,9 tỷ đồng, chiếm 84,7% so với tổng nguồn lực tiếp nhận[16].

Cùng với nguồn lực vật chất, cộng đồng đã hình thành các tổ chức tự nguyện hỗ trợ giúp đỡ người mắc Covid-19 và tham gia trực tiếp các các hoạt động hướng dẫn, bảo đảm an toàn trong quá trình phòng chống dịch.

 

Vai trò của thị trường, doanh nghiệp: Trong phòng chống dịch và duy trì phát triển sản xuất, các doanh nghiệp đã có những hình thức vượt khó để bảo đảm hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn thành trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trước hết, cùng cả nước chống dịch, các doanh nghiệp đều nghiêm chỉnh thực hiện chỉ đạo của Chính phủ hướng dẫn người lao động tuân thủ các quy trình về sức khỏe và các quy định khác của Bộ Y tế như tổ chức kiểm tra sức khỏe của nhân viên, xét nghiệm vi-rút… Nhiều doanh nghiệp đã thực hiện phương thức “3 tại chỗ” để vừa bảo đảm sản xuất, vừa bảo đảm an toàn cho người lao động. Bên cạnh đó, các cơ chế khác nhau được áp dụng như làm việc tại nhà, thực hiện giãn cách xã hội, hạn chế đi lại, áp dụng nghỉ phép có lương, chế độ ốm đau cho người lao động cùng với các quyền lợi chăm sóc sức khỏe và các chương trình cứu trợ khác...Thứ hai, các doanh nghiệp chủ động khắc phục khó khăn, cố gắng duy trì sản xuất có thể để bảo đảm cung ứng hàng hóa, vật tư cho thị trường, nhất là cung cấp những thứ cơ bản thiết yếu cho cuộc sống như thực phẩm, thuốc men và hàng hóa khác. Bên cạnh đó phối hợp với Nhà nước thực hiện các chính sách giảm giá và phí dịch vụ, đóng góp nguồn lực vào quỹ chung phòng chống dịch bệnh, thực hiện các nghĩa vụ trong vận chuyển hành khách nội địa và quốc tế đưa người Việt Nam về từ vùng dịch…Thứ ba, với cộng đồng, nhiều doanh nghiệp tự nguyện hiến đất, cơ sở nhà xưởng để xây dựng bệnh viện dã chiến, đóng góp bằng sức người, sức của, bằng chính những sản phẩm của mình, từ xe cứu thương, đến các sản phẩm thiết yếu như thuốc men, thực phẩm, … với tinh thần hết lòng vì tuyến đầu chống dịch, vì sức khoẻ của cộng đồng. Theo số liệu tính tới 24/6/2021 được Tạp chí Forbes Việt Nam công bố danh sách Top đầu các doanh nghiệp đóng góp tích cực trong các hoạt động ủng hộ Chính phủ và các địa phương chống dịch có Vingroup với 2.287 tỉ đồng, tiếp đó là Vạn Thịnh Phát (2.000 tỷ đồng) và thứ 3 là Sun Group (510 tỷ đồng).

 

Vai trò nguồn lực nhà nước: Có thể nói trong thời gian qua, nguồn lực nhà nước đóng vai trò chủ công trong hoạt động phòng chống dịch và khôi phục, duy trì, phát triển sản xuất. Trước hết, nguồn lực nhà nước thể hiện ở sự chủ động, tích cực tham gia của đội ngũ y tế, quân đội, những lực lượng tuyến đầu chống dịch. Hàng trăm cán bộ Ytế và hàng nghìn chiến sĩ đã tham gia hỗ trợ các tỉnh thành có mức độ dịch bùng phát cao. Điều này đã góp phần rất quan trọng trong giảm bớt mất mát về sinh mạng người dân trong dịch. Thứ hai, đó là sự kịp thời của Nhà nước trong ban hành các chính sách chủ trương, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong chống dịch và huy động nguồn lực, động viên toàn dân, doanh nghiệp cùng phối hợp tham gia. Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong phòng, chống dịch bảo đảm kết nối, liên thông, thuận lợi khi sử dụng và an ninh, an toàn thông tin trong phòng, chống dịch Covid-19 và mạng lưới thông tin kinh tế - xã hội nói chung. Thứ tư, đầu tư, cung cấp các nguồn lực nhằm điều trị, mua sắm thiết bị, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua đại dịch, khôi phục sản xuất. Có thể dẫn một vài con số như: Nhà nước đã thực hiện miễn, giảm, giãn thời hạn nộp thuế và các khoản thu NSNN với tổng số tiền hỗ trợ năm 2020 khoảng 129.000 tỷ đồng, năm 2021 khoảng 140.000 tỷ đồng để các doanh nghiệp, cá nhân có thêm nguồn lực tài chính duy trì và khôi phục sản xuất - kinh doanh[17]…. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã quyết nghị sử dụng 14.620 tỷ đồng kinh phí cắt giảm, tiết kiệm chi của ngân sách Trung ương năm 2021 để bổ sung chi cho công tác phòng, chống dịch COVID-19[18] và gần đây nhất, Quốc hội thông qua gói hỗ trợ phục hồi kinh tế-xã hội gần 350 nghìn tỉ đồng.

 

 

4. Vấn đề đặt ra trong thực hiện mục tiêu kép nhìn từ góc độ phân bổ nguồn lực

Tác động của dịch Covid-19 vừa qua trên thế giới và ở nước ta đã cho thấy nhiều bài học hữu ích không chỉ cho riêng Việt Nam mà còn cho nhiều quốc gia khác. Mặc dù chúng ta đã cố gắng vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế nhưng vẫn bộc lộ một số hạn chế như: sự phối hợp chưa thực sự tốt giữa các địa phương, bộ và các cơ quan; việc tổ chức thực hiện một số giải pháp của Chính phủ chưa đầy đủ và kịp thời. Việc cải cách thể chế vẫn còn thiếu năng lực dự báo, hiệu quả phối hợp, tính nhanh chóng và kịp thời, tính thích ứng và ứng phó hiệu quả với biến động khó lường,..Yêu cầu vừa phòng chống dịch bệnh theo hướng thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19 và thúc đẩy tăng trưởng đặt ra không ít thách thức nhìn từ góc độ phân bổ nguồn lực:

 

Thứ nhất, thách thức trong phối kết hợp hài hòa giữa phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường và sự tham gia tích cực chủ động của Nhà nước thông qua quy hoạch, kế hoạch và điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.

Đại dịch vừa qua là một phép thử cho năng lực điều hành và hiệu quả trong vận dụng các cơ chế phân bổ nguồn lực quốc gia. Trong đại dịch nhiều hoạt động kinh tế bị ngừng trệ, các chuỗi cung ứng bị đứt gãy, các dòng chảy của nguồn lực bị ứ đọng. Hàng hóa khó lưu chuyển, trong khi giá cả tăng vọt, thị trường lao động khủng hoảng, thu nhập giảm sút, đời sống người dân vô cùng khó khăn. Nhà nước thông qua các nguồn lực phải căng mình chống đỡ, nguy cơ cạn kiệt nguồn lực nếu như không có giải pháp phát triển sản xuất đề tăng nguồn thu. Trong khi đó thiếu vắng các cơ chế để huy động nguồn lực tư nhân vào phòng chống dịch bệnh. Nhiều công ty tư nhân cạnh tranh đổ dồn vào các hoạt động sản xuất các thiết bị và hàng hóa liên quan chống dịch làm khó khăn cho quản lý thị trường, phát sinh các hàng hóa kém chất lượng, các hoạt động thổi giá, trục lợi, càng gây thêm phức tạp cho nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần tạo lập khuôn khổ pháp lý ổn định, vững chắc để huy động, thu hút nguồn lực khu vực tư nhân cùng phối hợp góp phần bổ sung nguồn lực Nhà nước còn hạn hẹp.

 

Thứ hai, thách thức trước yêu cầu về gia tăng phân bổ nguồn lực cho hỗ trợ thúc đẩy khôi phục kinh tế và đầu tư phòng chống dịch trong điều kiện nguồn lực quốc gia còn hạn chế.

Đây có thể là vấn đề bao trùm cần phải cân nhắc, tính toán cho các nhiệm vụ với lộ trình khoa học phù hợp với các nguồn lực hiện có. Với một quốc gia đang phát triển, các nguồn lực, cả vật lực và tài lực đều còn hạn chế, trong khi nhu cầu cho đầu tư phát triển rất lớn và nhu cầu cho chống dịch, cấp bách cũng không phải là nhỏ. Cùng một lúc đều phải gia tăng đầu tư để thực hiện mục tiêu kép là một bài toán không hề đơn giản. Trong khi đó do tác động nghiêm trọng của dịch Covid-19 và việc thực hiện các giải pháp miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, cùng với phải tăng chi đột xuất và quy mô lớn gây ra áp lực rất lớn với việc cân đối các nguồn lực. Mặc dù Chính phủ đã có quan điểm rất rõ ràng phải song hành giữa hai mặt trận, “kinh tế là cơ sở, là nền tảng”, và “bảo vệ sức khỏe, tính mạng người dân là trên hết, trước hết”, song trong xử lý cụ thể luôn là quyết định đòi hỏi linh hoạt, với trách nhiệm cao và thực hiện quyết liệt. Để giải quyết bài toán này, vấn đề đặt ra là, cùng với phân bổ hợp lý, phải chú trong khai thác các nguồn lực, cả trong nước và ngoài nước, cả Nhà nước và tư nhân, đồng thời nâng cao trách nhiệm, chống thất thoát và sử dụng hiệu quả, tiết kiện các nguồn lực.

 

Thứ ba, thách thức từ yêu cầu về tính linh hoạt, cấp bách trong phòng chống đại dịch với cơ chế phân bổ và sử dụng chưa tương hợp trong tình hình đặc biệt, dẫn đến phân bổ chậm nguồn lực hoặc những lợi dụng sai phạm trục lợi.

Thời gian qua trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh, nhà nước đã phân bổ nguồn lực không nhỏ so với khả năng nền kinh tế cho phòng, chống dịch bệnh, đồng thời với hỗ trợ khôi phục sản xuất. Tuy nhiên, trên thực tế việc triển khai phân bổ gặp nhiều khó khăn, thậm chí không ít đối tượng cần hỗ trợ không nhận được các nguồn lực. Bên cạnh đó tình trạng thổi giá, trục lợi làm thất thoát nguồn lực, hiện đang được các cơ quan chức năng tham gia điều tra, xử lý.

Tình hình dịch bệnh bùng phát, tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống rất cần có cơ chế linh hoạt trong phân bổ nguồn lực. Thực tế vừa qua bộc lộ những hạn chế, yếu kém, bất cập trong cơ chế phân bổ nguồn lực, có những tình huống không có căn cứ pháp lý để xử lý dẫn đến áp dụng tùy tiện, thiếu thống nhất. Việc triển khai chính sách thiếu hiệu quả, do điều kiện và quy định trong giải ngân nguồn lực quy định quá cao, không phù hợp thực tế, bên cạnh đó các thủ tục rườm rà, thông tin hướng dẫn không kịp thời làm cho các chủ thể trên thị trường không tiếp cận được các nguồn lực. Rõ ràng là, trong các điều kiện đặc biệt, rất cần có cơ chế, giải pháp chính sách đặc biệt.

 

Thứ tư, yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng và phân bổ nguồn lực với cơ chế phân bổ và sử dụng vẫn còn mang tính chất xin – cho – chia.

Thực tế cơ chế phân bổ nguồn lực nói chung và nhất là cơ chế phân bổ nguồn lực nhà nước vẫn chưa thực sự phù hợp. Việc phân bổ nguồn lực nhà nước chưa theo nguyên tắc thị trường, còn mang nặng tính bao cấp, xin-cho-chia. Chẳng hạn đối với nguồn lực tài nguyên khoáng sản tình trạng cấp phép còn tùy tiện, tràn lan, thiếu quy hoạch tổng thể. Đối với nguồn lực đất đai, cho đến nay vẫn chưa có khung khổ pháp lý cho hình thành và vận hành thị trường quyền sử dụng đất, nhất là đất nông nghiệp. Trong phân bổ ngân sách cũng chưa thực sự áp dụng các nguyên tắc của thị trường, chưa tạo động lực khuyến khích với các địa phương tạo được nguồn thu nhiều với các địa phương còn có đóng góp hạn chế cho ngân sách Trung ương, quyền lực phân bổ vẫn tập trung ở Trung ương mà chưa có sự phân quyền cần thiết cho cấp ngân sách địa phương. Tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn thấp. Chính vì vậy, các nguồn lực phân bổ chưa tối ưu, hiệu quả chưa cao, thậm chí còn lãng phí, ảnh hưởng đến môi trường tăng trưởng. Để phân bổ nguồn lực hiệu quả, vấn đề đặt ra phải tuân thủ theo cơ chế thị trường, muốn vậy cần hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tạo sự tập trung, thống nhất, tranh chồng chéo trong phân bổ nguồn lực, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả điều hành của bộ máy quản lý.

 

Thứ năm, phòng chống dịch và thúc đẩy sản xuất đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp đồng tâm hiệp lực của các cấp các ngành các địa phương, trong khi vẫn còn tình trạng cát cứ các địa phương, thiếu thống nhất và thiếu phối hợp đồng bộ, thậm chí tạo rào cản trong phòng chống dịch và thúc đẩy tăng trưởng.

Đây là vấn đề đặt ra trong quá trình phối hợp chống dịch vừa qua. Tình trạng cát cứ còn tồn tại là do chưa chuyển đổi kịp trong nhận thức về phòng chống dịch theo phương châm thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả. Điều này đã hạn chế lưu thông các nguồn lực, gây khó khăn cho khôi phục các chuỗi cung ứng cả vật tư, thiết bị và nguồn nhân lực. Không ít các địa phương, ngành đưa ra những quy định riêng, vô hình chung tạo rào cản cho hoạt động kinh doanh, thậm chí cho cả lưu thông các hàng hóa, vật tư phòng chống dịch. Vấn đề đặt ra là, cần rà soát, ban hành những quy định mang tính thống nhất về thẩm quyền ban hành các biện pháp chống dịch để kịp thời hạn chế tình trạng thiếu thống nhất trong xử lý giữa các địa phương như thời gian qua.

 

5. Một số đề xuất, kiến nghị

Chính phủ đã ban hành Quy định tạm thời ‘Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” và xây dựng Chiến lược tổng thể phòng, chống dịch và Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội với hệ thống giải pháp đồng bộ. Dưới góc độ phân bổ nguồn lực và từ thực tiễn vấn đề đặt ra trong phân bổ, sử dụng nguồn lực thời gian qua, xin đề xuất một số khuyến nghị như sau:

 

Thứ nhất, cần thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận và cộng đồng trách nhiệm trong phòng chống dịch bệnh và khôi phục sản xuất. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi ngay trong quá trình chống dịch đã xuất hiện hiện tượng chủ quan, hành vi không tuân thủ các quy định gây hậu quả lây lan dịch bệnh. Cần xem chống dịch và khôi phục sản xuất là trách nhiệm của mọi người dân, của tất cả các thành phần kinh tế và của toàn hệ thống chính trị xã hội. Thông qua các kênh thông tin, hệ thống báo chí và mạng xã hội tạo nhận thức thống nhất trong các biện pháp phòng chống dịch để người dân, doanh nghiệp tự nguyện tham gia với trách nhiệm chung, không vì lợi ích riêng, trước mắt, cục bộ mà gây hậu quả cho xã hội.

 

Thứ hai, có thể thấy bối cảnh phát triển hiện nay chưa từng có trong quá trình phát triển từ khi thành lập nước đến nay, nói cách khác đây là bối cảnh đặc biệt. Trong bối cảnh đặc biệt cần có các giải pháp đặc biệt. Quá trình chống dịch và duy trì sản xuất vừa qua cho thấy chúng ta thiếu cơ chế đặc biệt trong các điều kiện đặc biệt, nên không tránh khỏi lúng túng và nảy sinh không ít hiện tượng tiêu cực, trục lợi. Do vậy cùng với việc hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường nói chung cho phân bổ nguồn lực, cần có những quy định đặc thù trong những tình huống đặc biệt như hiện nay để huy động và phân bổ kịp thời, hiệu quả các nguồn lực vừa bảo đảm yêu cầu lợi ích chung, vừa bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể. Có như vậy mới kịp thời huy động mức cao nhất các nguồn lực cho các mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách đặt ra. Kinh nghiệm thực tiễn ở nhiều nước đã đưa ra các quy định pháp luật mới, các chính sách đặc biệt với thời hạn nhiều năm để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn, khôi phục hoạt động sản xuất. Đối với Việt Nam có thể nghiên cứu xây dựng luật tình trạng khẩn cấp và thành lập cơ quan chuyên trách về tình trạng khẩn cấp nhằm tập trung đầu mối, nguồn lực cho các nhiệm vụ trong bối cảnh đặc biệt.

 

Thứ ba, cần triệt để tuân thủ nguyên tắc có tính tiên quyết là phân bổ và sử dụng nguồn lực phải trên nguyên tắc thị trường và chỉ có nguyên tắc thị trường mới là cơ chế căn bản, quyết định để huy động và phân bổ nguồn lực có hiệu quả. Kiên quyết, triệt để xóa bỏ cơ chế xin-cho-chia trong phân bổ nguồn lực nhà nước, nhất là trong bối cảnh như hiện nay. Đối với nguồn ngân sách, từ kinh nghiệm của một số quốc gia khu vực cho thấy, có thể phân bổ tỷ lệ giữ lại theo sắc thuế, thay vì phân bổ theo từng địa phương xin tăng tỷ lệ giữ lại, xin các cơ chế đặc thù… vừa làm mất động lực gia tăng nguồn thu, làm giảm sức sống hệ thống thuế, vừa dẫn đến phân bổ thiếu công bằng. Đồng thời cần thông qua nguồn lực nhà nước phân bổ cho các chương trình, nhiệm vụ để dẫn dắt, kích hoạt, thu hút các nguồn lực khác, phục vụ hiệu quả cho phòng chống dịch và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chủ thể nào có năng lực sử dụng nguồn lực hiệu quả nhất thì phải có cơ hội để tiếp cận nhanh nhất, kịp thời và đầy đủ với nguồn lực.

Trong việc phối hợp vai trò Nhà nước, thị trường và xã hội trong phân bổ nguồn lực, cần chú ý các hình thức hợp tác công-tư. Hợp tác công - tư là điều kiện then chốt để tập hợp sức mạnh, nguồn lực cho việc thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, cần được thực thi nghiêm túc ở mọi cấp, ngành.

 

Thứ tư, trong bối cảnh hiện nay cần đặc biệt chú ý nguồn lực văn hóa-tinh thần, ý chí con người Việt Nam với khát vọng phát triển. Các nguồn lực đều có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, tuy nhiên trong những điều kiện đặc biệt, khó khăn thì nguồn lực văn hóa - tinh thần luôn là bệ đỡ, nền tảng cho phát huy các nguồn lực khác. Thực tiễn trong hơn 2 năm qua càng chứng tỏ sức mạnh, tinh thần và sự đoàn kết muôn người như một của cộng đồng người Việt Nam trên các vị trí, ngành nghề khác nhau, cả ở trong nước và ngoài nước. Những tấm gương khắc phục khó khăn, quên mình vì nhiệm vụ, tự nguyện tham gia các hoạt động thiện nguyện …không chỉ là nét đẹp trong đức hy sinh cống hiến, mà đó chính là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc đã, đang được khơi dậy và rất cần tiếp tục phát huy.

 

Thứ năm, xây dựng chế tài kiểm tra, giám sát xử phạt đủ mạnh để răn đe và nâng cao ý thức, trách nhiệm trong phân bổ, sử dụng nguồn lực; phân bổ hợp lý cần đi liền với quản trị tốt, bảo đảm tiết kiệm nguồn lực. Thực tiễn trong quản trị nguồn lực thời gian qua cho thấy, bên cạnh cố gắng đáp ứng các nhu cầu sản xuất và đời sống trong điều kiện nguồn lực hạn chế, vẫn còn không ít tình trạng triển khai thực hiện các chủ trương thiếu quyết liệt, chậm so với yêu cầu, thậm chí còn hành vi lợi dụng, trục lợi. Bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao ý thức trách nhiệm, rất cần các hoạt động giám sát, kiểm tra, xử lý kịp thời các hiện tượng sai phạm. Các vụ việc vừa qua được các cơ quan có thẩm quyền xét xử đều liên quan đến việc buổng lỏng quản lý ở các cấp. Để khắc phục thì việc triển khai phân bổ nguồn lực cần đi liền với quản trị tốt. Quản trị tốt sẽ nâng cao hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực, tiết kiệm nguồn lực, hạn chế lãng phí.

 

PGS,TS. Vũ Văn Hà, Hội đồng Lý luận TW

                                                      Th,S. Vũ Thị Phương Dung, Tạp chí Cộng sản

 

Tài liệu tham khảo chính

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2005, t 47, 51, 55

2. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XIII, NXB Chính trị quốc gia, H.2001, 2006, 2011, 2021

3. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW, H.2016

4. PGS.TS. Vũ Văn Hà và PGS.TS. Đoàn Minh Huấn (đồng chủ biên), Mối quan hệ nhà nước và thị trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa- thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách, NXB Chính trị quốc gia sự thật, H.2020.

5. Vũ Văn Hà: Quan hệ Nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Tạp chí Cộng sản, 7/2018

6. PGS, TS Vũ Thanh Sơn: Nhà nước và thị trường trong phân phối hợp lý các nguồn lực phát triển, Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2017

7. Nguyễn Hồng Sơn: Cơ chế và phân bổ các nguồn lực nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Báo cáo chuyên đề số 7, HĐLLTƯ, H.2018

 



[1] Xem thêm: PGS.TS. Vũ Văn Hà và PGS.TS. Đoàn Minh Huấn (đồng chủ biên), Mối quan hệ Nhà nước và thị trường trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa- thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách, NXB Chính trị quốc gia sự thật, H.2020.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2005, t 47, tr.544

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, sdd, t 51, tr.95

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2005 t.55, tr.380;

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H.2005 t.55, tr.380

[6] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H.2001, tr.87-88

[7] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H.2001, tr.100

[8] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, H.2001, tr.102

[9] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H.2006, tr78-79

[10] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, H.2006, tr 80

[11] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, H.2011, tr34

[12] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng TW, H.2016, tr 103

[13] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, t1, H.2021, tr.131

[14] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, t1, H.2021, tr.129

[15] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia sự thật, t1, H.2021, tr.135

[17] Huy Thắng: Cải cách hệ thống tài chính phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phân bổ nguồn lực tối ưu, http://baochinhphu.vn/Tai-chinh/Cai-cach-he-thong-tai-chinh.. ngày 16/11/2021

[18] Tuệ Anh: Bổ sung dự phòng ngân sách Trung ương 14.620 tỷ đồng để chi cho phòng, chống dịch Covid-19, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/btcvn/pages_, ngày 30/9/2021

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết