Trong hai ngày 14 và 15-11-2018, tại thủ đô La Ha-ba-na của Cộng hòa Cu-ba đã diễn ra hội thảo trao đổi lý luận - thực tiễn lần thứ 4 giữa Ðảng Cộng sản Việt Nam và Ðảng Cộng sản Cu-ba với chủ đề "Phát triển kinh tế - xã hội và công tác chính trị, tư tưởng: Nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Ðảng Cộng sản Cu-ba". Trân trọng giới thiệu phát biểu đề dẫn của đồng chí NGUYỄN XUÂN THẮNG, Bí thư Trung ương Ðảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trưởng Đoàn đại biểu Ðảng Cộng sản Việt Nam tại hội thảo.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng phát biểu trong phiên khai mạc hội thảo
Thưa các đồng chí Cu-ba và Việt Nam,
Kiên định giương cao ngọn cờ "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" - một cách tiếp cận hoàn toàn mới, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngọn cờ đó trở thành giá trị cốt lõi của nền tảng lý luận, tư tưởng của Ðảng Cộng sản Việt Nam; là phương châm lãnh đạo sáng tạo của Ðảng nhằm đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và sự nghiệp phát triển đất nước đi đến thành công. Ðó cũng là biểu trưng cho mối quan hệ biện chứng, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa công tác lãnh đạo chính trị, tư tưởng với việc xác định đường lối, tổ chức hoạt động thực tiễn của Ðảng trong suốt các chặng đường của cách mạng Việt Nam.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khát vọng về một đất nước Việt Nam "độc lập - tự do - hạnh phúc" do Ðảng Cộng sản Việt Nam hiệu triệu đã khơi dậy lòng yêu nước cho lớp lớp người Việt Nam vùng lên lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân; chiến đấu, lao động và học tập quên mình, không quản ngại gian khổ, hy sinh, giành thắng lợi vẻ vang trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong cuộc chiến đấu kiên cường bảo vệ Tổ quốc và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng, vận dụng hợp lý phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, không máy móc, giáo điều, duy ý chí, đề xuất đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể trên mỗi chặng đường cách mạng, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tránh được những sai lầm mà các đảng cộng sản ở Liên Xô và Ðông Âu trước đây mắc phải.
Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Ðông Âu là do những sai lầm trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội, đường lối chính trị và sự buông lỏng công tác tư tưởng, cán bộ của các chính đảng cầm quyền trong quá trình cải tổ. Bài học từ sự thất bại của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu chỉ ra rằng, công tác chính trị, tư tưởng và phát triển kinh tế - xã hội là hai nhiệm vụ không thể tách rời nhau. Chính sách kinh tế mới của Lê-nin như một chỉ dẫn quan trọng cho đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với bối cảnh mới đã không được những người tiếp nối ông nhận thức rõ và thực hiện. Cùng với tệ quan liêu, xa dân, cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, công tác tư tưởng và công tác vận động nhân dân yếu kém,... mô hình chủ nghĩa xã hội Xô-viết đã bộc lộ nhiều hạn chế, từng bước suy yếu, rơi vào khủng hoảng và sụp đổ.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể và thực tiễn phát triển của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc Ðổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Công cuộc Ðổi mới trở thành sản phẩm sáng tạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, của nhân dân Việt Nam(1), mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Việt Nam, của Việt Nam và do người Việt Nam thực hiện.
Ðổi mới đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới, có những vấn đề thậm chí trước đây chưa từng có. Ðó là sự lựa chọn mang tính lịch sử, là một quá trình đổi mới sâu sắc cả về phương diện tư duy, nhận thức lý luận, cả về đường lối lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và công tác chính trị, tư tưởng của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Từ một nền kinh tế khép kín, tự cấp tự túc, bị bao vây, cô lập, cấm vận, Việt Nam đã tiến hành mở cửa, trở thành thành viên của ASEAN, APEC, WTO và nhiều tổ chức quốc tế khác, tham gia nhiều định chế thương mại tự do, trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Từ chủ trương "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế", Việt Nam đã nhấn mạnh phải "chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế" rồi "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế" với sự thống nhất nhận thức rằng: hội nhập quốc tế không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội,... Từ chỗ chỉ là thành viên tham gia các định chế quốc tế, Việt Nam đã chủ trương "chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương", trở thành "đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế" (2).
Từ chỗ phủ nhận cơ chế thị trường, đối lập kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã thống nhất nhận thức rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, có nhiều mô hình, có thể được phát triển và thích ứng với nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, dưới chủ nghĩa tư bản cũng như dưới chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam, do Ðảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng trong tiến trình lãnh đạo công cuộc Ðổi mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế (3). Ðịnh hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện nhất quán trên các phương diện của nền kinh tế - xã hội. Trong mục tiêu phát triển, đó là: lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trong phương thức phát triển, đó là phát triển bền vững, bao trùm và hội nhập. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Trong quản lý nền kinh tế, đó là phát huy đầy đủ vai trò chủ thể của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, mọi người dân được tham gia và mọi người dân được hưởng lợi; bảo đảm vai trò quản lý nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam (4).
Ðổi mới tư duy luôn là một quá trình cam go; phải táo bạo, quyết tâm và kiên trì đấu tranh trước mọi khó khăn để vượt qua tư duy cố hữu của chính bản thân mình. Chủ trương phát triển kinh tế tư nhân là một ví dụ điển hình. Từ chỗ bị hạn chế và phân biệt đối xử, thậm chí có ý kiến cực đoan muốn xóa bỏ khu vực kinh tế tư nhân, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định, kinh tế tư nhân có vị trí "quan trọng lâu dài", "bộ phận cấu thành quan trọng" trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không phát triển kinh tế tư nhân sẽ không thể phát huy được hết ưu thế của kinh tế thị trường, không thể khai thác và giải phóng được mọi nguồn lực phát triển to lớn của xã hội. Ðặc biệt, Văn kiện Ðại hội lần thứ XII của Ðảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát rằng, kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng của nền kinh tế". Ðây là bước đột phá về nhận thức so với giai đoạn trước, khi Việt Nam chỉ coi kinh tế tư nhân là "một trong những động lực của nền kinh tế". Những thay đổi nhận thức như vậy đã lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội và trong nền kinh tế. Từ tâm lý thụ động, chỉ trông chờ vào Nhà nước và tập thể, các tầng lớp nhân dân đã chuyển sang ý thức chủ động và tích cực trong phát triển sản xuất kinh doanh. Từ chỗ chỉ tồn tại manh mún, nhỏ lẻ, phi chính thức là chủ yếu, khu vực kinh tế tư nhân đã phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Từ chỗ xa lánh, coi nhẹ, xã hội đã ngày càng tôn trọng và vinh danh tầng lớp doanh nhân. Từ chỗ chỉ chú trọng chức năng quản lý, giám sát, kiểm tra, Chính phủ đã nhấn mạnh hơn vai trò phục vụ phát triển, đồng hành cùng doanh nghiệp, thúc đẩy làn sóng khởi nghiệp, tạo ra một sức sống mới cho nền kinh tế.
Việc cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân cũng là một bước tiến nhận thức quan trọng của Ðảng Cộng sản Việt Nam từ thực tiễn trực tiếp lãnh đạo công cuộc Ðổi mới. Ðiều này xuất phát từ quan niệm đúng đắn rằng: với xuất phát điểm còn thấp, Việt Nam ngay từ đầu phải coi phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm, nâng cao trình độ lực lượng sản xuất; chú trọng huy động mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm năng, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế. Hơn ai hết, đảng viên lại càng phải đi đầu thực hiện mục tiêu này, vừa làm giàu cho chính mình, vừa góp phần làm giàu cho xã hội trên cơ sở nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, gương mẫu chấp hành quy định và Ðiều lệ Ðảng. Với chủ trương đó, Ðảng đã vượt qua những rào cản của tư duy cũ để có nhận thức mới rằng, thay vì gắn khu vực kinh tế tư nhân với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cần tập trung lãnh đạo khu vực này phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn 30 năm qua, từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong những năm đầu Ðổi mới, Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng đói nghèo, chuyển sang thực hiện và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ðến năm 2018, quy mô nền kinh tế Việt Nam ước vượt ngưỡng 240 tỷ USD, đứng thứ 44 thế giới theo GDP danh nghĩa. GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD và khoảng cách thu nhập giữa Việt Nam với các nước đi trước đã được thu hẹp đáng kể. Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm xuống còn 14,8%; tỷ trọng các khu vực công nghiệp, dịch vụ tăng lên 85,2%. Ðặc biệt, tỷ lệ người nghèo đã giảm mạnh, từ mức trên 60% vào những năm đầu Ðổi mới xuống mức khoảng 7% hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá có triển vọng tốt, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Nếu duy trì được đà tăng trưởng như ba thập niên qua thì đến năm 2045 - kỷ niệm mốc lịch sử 100 năm Việt Nam độc lập (1945 - 2045), quy mô GDP của Việt Nam ước sẽ đạt khoảng 2.500 tỷ USD, còn thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 18.000 USD(5).
Có được những kết quả ấn tượng trên là nhờ Ðảng đã định hướng ngày càng rõ mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ chỗ tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên và lực lượng lao động có tiền công thấp, Ðảng đã chủ trương chuyển sang thực hiện phát triển kinh tế bền vững, bao trùm và hội nhập, tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, hoàn thiện mô hình tăng trưởng đồng bộ trên cả phương diện kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - xã hội và kinh tế - sinh thái, thúc đẩy phát triển trên nền tảng đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế (6).
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó tiếp tục khẳng định đường lối lãnh đạo sáng tạo, đúng đắn của Ðảng Cộng sản Việt Nam là: vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, thực hiện phát triển bao trùm, bền vững và hội nhập quốc tế vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", để đến giữa thế kỷ 21, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp tiên tiến theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thưa các đồng chí,
Càng đi sâu vào quá trình Ðổi mới, đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, Ðảng Cộng sản Việt Nam càng ý thức được rằng, cần phải chú trọng lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng ngay trong mỗi bước đi và trong từng chủ trương, chính sách. Ðảng phát huy dân chủ trong Ðảng và trong xã hội, mở rộng thảo luận để tạo ra sự đồng thuận về đường lối, về xây dựng, ban hành và thực thi chủ trương, về tuyên truyền, phổ biến, vận động, kiểm tra, giám sát để tạo ra sự thống nhất về hành động với quyết tâm cao trong toàn hệ thống chính trị. Ðồng thời, Ðảng cũng hiểu rằng, muốn lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng hiệu quả và thành công, không thể chỉ đưa ra những khẩu hiệu suông mà phải gắn chặt chẽ với tổ chức thực tiễn đời sống. Văn kiện Ðại hội lần thứ XII của Ðảng Cộng sản Việt Nam xác định: "phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt". Uy tín của Ðảng, niềm tin của nhân dân đối với Ðảng, đối với sự nghiệp cách mạng, sự bền vững, ổn định của chế độ chính trị, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa muốn thành công đều bắt nguồn từ kết quả của các công tác này.
Trước hết, sự lãnh đạo của Ðảng vững vàng bằng lý luận và trên nền tảng lý luận đúng đắn. Ðây là linh hồn của công tác lãnh đạo về chính trị, tư tưởng của Ðảng. Một đảng tiên phong cần có lý luận tiên phong dẫn đường. Ðảng đi tiên phong trong việc thiết kế, định hướng tầm nhìn và khát vọng phát triển cho dân tộc. Ðảng lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội để hiện thực hóa tầm nhìn và khát vọng đó. Sở dĩ một số chính đảng trên thế giới lâm vào khủng hoảng hoặc thoái trào vì không có một nền tảng tư tưởng vững chắc, không có lý luận tiên phong soi đường. Lý luận của Ðảng có vững, quyết tâm chính trị mới cao; việc xây dựng và ban hành đường lối, chủ trương mới chắc; công tác tuyên truyền, vận động trong nhân dân mới thông; việc bảo vệ nền tảng tư tưởng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc đường lối của Ðảng mới kiên định, kiên quyết và giành thắng lợi.
Ðảng lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội và công tác chính trị, tư tưởng dựa vào lý luận và bám sát thực tiễn. Trên nguyên tắc lấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, Ðảng coi trọng tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, tháo gỡ những vướng mắc trong nhận thức tư tưởng, phát hiện ra những kinh nghiệm hay, những mô hình tốt, mạnh dạn, chủ động kịp thời có chủ trương xử lý hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn; giải quyết tốt, đảm bảo hài hòa các mối quan hệ lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ, môi trường,... phản ánh quy luật đổi mới và phát triển ở Việt Nam.
Xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn sinh động luôn thay đổi không ngừng trong bối cảnh mới của thế giới, khu vực và đất nước, Ðảng lãnh đạo đổi mới tư duy phát triển Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, phát triển bao trùm và bền vững,...; khai thác có hiệu quả những thành tựu phát triển của thế giới, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ của nhân loại về phát triển toàn diện con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, do con người và giải phóng con người,... phù hợp với triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam và với bản chất nhân văn cao đẹp của chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, chủ trương, đường lối lãnh đạo của Ðảng thông qua Nhà nước phải được thể chế hóa; và trước hết, phải đổi mới có hiệu quả tổ chức bộ máy của Ðảng, Nhà nước và của cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Ðây là một trong những điểm mới, nổi bật và nằm trong số sáu nhiệm vụ trọng tâm mà Ðảng Cộng sản Việt Nam đã xác định trong nhiệm kỳ của Ðại hội lần thứ XII.
Ðảng Cộng sản Việt Nam đã và đang chuyển mạnh sang tư duy xây dựng bộ máy tổ chức Ðảng và hệ thống chính trị tinh gọn, khoa học, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng tăng cường thể chế hóa việc xây dựng và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết, nhất là công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá dựa trên hiệu quả công việc và sản phẩm đầu ra có định lượng để đưa nghị quyết của Ðảng thực sự đi vào cuộc sống. Ðảng tiến hành cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, suy thoái, tiêu cực, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, thể hiện quyết tâm làm cho Ðảng trong sạch, vững mạnh, cho cả hệ thống chính trị vận hành đồng bộ, có kỷ cương, kỷ luật nghiêm minh.
Ðóng vai trò hạt nhân của hệ thống chính trị, Ðảng không bao biện, làm thay mọi việc cho Nhà nước, mà thông qua sử dụng bộ máy chính quyền nhà nước để thể chế hóa các chủ trương, đường lối và thực hiện sự lãnh đạo của mình. Ðảng không đứng trên ra lệnh, cũng hoàn toàn không đứng bên cạnh để giám sát, mà Ðảng "hóa thân" vào Nhà nước. Ðây là đặc trưng nổi bật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, khoa học và hiệu quả trong phương thức lãnh đạo của Ðảng cầm quyền. Do vậy, xây dựng Ðảng vững mạnh gắn liền với xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vững mạnh của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, theo những chuẩn mực quản trị tốt, phục vụ phát triển và có khả năng xử lý, ứng phó linh hoạt với những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Ðồng thời, trong điều kiện Ðảng duy nhất cầm quyền thì việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội là yếu tố hết sức quan trọng.
Thứ ba, sự lãnh đạo của Ðảng trí tuệ, tinh thông bởi đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài, đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.
Tư duy, trí tuệ và bản lĩnh lãnh đạo của Ðảng nằm trong và thể hiện ở đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ðảng "hóa thân" vào Nhà nước, lãnh đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những người gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng trước hết phải là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức, tư tưởng của Ðảng trong nhân dân được thực hiện không gì tốt bằng sự gương mẫu của các cán bộ, đảng viên, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền"(7).
Do vậy, Ðảng luôn chú trọng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ - coi đây là "then chốt" của "nhiệm vụ then chốt". Trong thời gian qua, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ; lựa chọn đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội theo vị trí thích hợp, đúng quy trình, quy định, đúng năng lực sở trường. Ðảng bổ sung, hoàn thiện các cơ chế đánh giá, giám sát cán bộ, quan tâm hơn tới chính sách đãi ngộ và tiền lương; yêu cầu phát huy vai trò nêu gương của người cán bộ - đảng viên và cán bộ có chức vụ càng cao lại càng phải gương mẫu; đồng thời, chú ý phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng nhân tài.
Thứ tư, sự lãnh đạo của Ðảng luôn bền chặt, gắn bó mật thiết với nhân dân. Tư tưởng "dân là gốc" là truyền thống đạo lý muôn đời của dân tộc Việt Nam luôn được các bậc tiền nhân vận dụng trong quá trình dựng nước và giữ nước. Trong công việc của Ðảng, của Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong" (8). Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức được rằng: phải luôn vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc (9).
Ðảng lấy lợi ích của nhân dân để định hướng mục tiêu lãnh đạo; lấy niềm tin của nhân dân làm chỗ dựa cho hành động; và lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo kết quả. Người dân ở vị trí trung tâm ở mọi khâu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo mọi người dân tham gia, mọi người dân hưởng lợi từ quá trình phát triển, vừa là mục tiêu, vừa là thuộc tính của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc xây dựng đoàn kết, thống nhất trong Ðảng gắn liền với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, sự đồng thuận trong nhân dân. Ðảng vừa lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, nhất là những ý kiến giám sát, phản biện mang tính xây dựng; vừa tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, đồng thời quyết liệt đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc đường lối của Ðảng, xử phạt nghiêm minh các hành vi chống phá chế độ, vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thưa các đồng chí,
ỮNG vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phát triển bền vững, bao trùm và hội nhập dựa trên đổi mới sáng tạo; đổi mới đồng bộ, hài hòa thể chế kinh tế với thể chế chính trị và thể chế xã hội mà trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thể chế dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng Ðảng vững bằng lý luận, mạnh bằng thể chế, trí tuệ bằng cán bộ và bền chặt với nhân dân là những yêu cầu tiên quyết, điều kiện thành công cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tình hình mới.
Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí!
(1) Nguyễn Xuân Thắng, "Sức sống của học thuyết Mác, nền tảng lý luận của con đường phát triển Việt Nam", Báo Nhân Dân, ngày 18-10-2018.
(2) Ðảng Cộng sản Việt Nam, Các Văn kiện đại hội lần thứ IX, X, XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, 2006, 2011. Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hội lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Ðảng, Hà Nội, 2016.
(3) Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hội lần thứ XII, đã dẫn.
(4) Nguyễn Xuân Thắng, "Một số luận điểm mới về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2016.
(5) Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình bày tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, ngày 21-10-2018; phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Phiên giải trình và trả lời chất vấn kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, ngày 1-11-2018.
(6) Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hội lần thứ XII, đã dẫn.
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2002, tr.263.
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2002, tr.212.
(9) Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hội lần thứ XII, đã dẫn.