Thứ Ba, ngày 23 tháng 04 năm 2024

Đánh giá kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 để có cơ sở thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2021-2025

Ngày phát hành: 09/08/2021 Lượt xem 16913

 

1. Kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020

Sau 4 năm đầu thực hiện đạt và vượt nhiều chỉ tiêu kế hoạch, vào năm cuối giai đoạn kế hoạch, dịch bệnh Covid-19 chưa từng có trong nhiều thập kỷ bùng phát trên toàn cầu đã tác động nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Tuy nhiên, với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, nhất là trong năm 2020 vừa tập trung phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn 5 năm 2016-2020 đã thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra, về tổng thể đạt những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trên nhiều mặt của kinh tế - xã hội.

 

Công tác điều hành của Chính phủ tiếp tục có nhiều đổi mới, tập trung vào xử lý nhiều vấn đề kinh tế - xã hội khó khăn, thể hiện sự quyết liệt, năng động, nhất quán, sâu sát. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt; thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, danh mục sản phẩm, hàng hóa kiểm tra chuyên ngành được cắt giảm thực chất, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp[1]. Kết quả xếp hạng môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam có sự cải thiện rõ rệt, được các tổ chức quốc tế uy tín ghi nhận và đánh giá cao[2].

 

 

Kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; lạm phát được kiểm soát trong phạm vi mục tiêu đề ra[3]. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước GDP giai đoạn 2016-2019 đạt khá cao, bình quân 6,78%/năm; năm 2020 trong bối cảnh diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, nước ta là một trong số ít quốc gia có mức tăng trưởng dương. Xây dựng thể chế đạt nhiều kết quả tích cực, hệ thống pháp luật và cơ chế điều hành ngày càng đồng bộ, hoàn thiện và bao quát hơn, tạo nền tảng cần thiết để phát triển kinh tế số. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt kết quả tích cực, đúng hướng, thực chất hơn; mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, chất lượng tăng trưởng từng bước được nâng lên. Thực hiện 3 đột phá chiến lược đạt một số kết quả tích cực; năng suất lao động tăng bình quân 5,89%/năm, cao hơn giai đoạn 2011-2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%); đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đã có sự tiến bộ rõ rệt so với giai đoạn trước (45,72% so với mức bình quân 32,84% giai đoạn 2011-2015). Cơ cấu ngành công nghiệp chuyển dịch đúng hướng và tích cực, tỷ trọng của ngành khai khoáng giảm, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh, tiếp tục là động lực cho tăng trưởng[4]. Cơ cấu ngành nông nghiệp thay đổi tích cực, kim ngạch xuất khẩu thủy sản, rau, hoa quả, đồ gỗ trong tổng kim ngạch ngày càng tăng[5]; xây dựng nông thôn mới vượt mục tiêu đề ra trước thời hạn 02 năm[6]. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng bình quân tăng 9,4%/năm.

 

Thu ngân sách nhà nước (NSNN) vượt kế hoạch; thu nội địa tích cực hơn, bằng khoảng 81,6% tổng thu NSNN, chiếm tỷ trọng cao hơn giai đoạn trước[7]; việc cơ cấu lại NSNN cơ bản đạt được mục tiêu đề ra; bội chi ngân sách, các chỉ tiêu an toàn nợ được quản lý, kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn và giảm dần qua các năm[8]; nợ xấu được xử lý, kiểm soát tốt, tỷ lệ nợ xấu nội bảng duy trì ở mức dưới 3%; một số địa phương có tỷ lệ chi đầu tư trên tổng chi cân đối ngân sách địa phương giai đoạn 2016-2020 rất tích cực, cao hơn nhiều so với mức bình quân chung cả nước như của TP Hà Nội là 43,3%; tỉnh Quảng Ninh là 54,8%; tỉnh Vĩnh Phúc là 47,8%; TP Đà Nẵng là 44,2%; tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là 49%.... Phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa ngày càng chặt chẽ, có hiệu quả; cơ cấu tín dụng chuyển dịch tích cực, tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ[9]. Lần đầu triển khai Kế hoạch đầu tư công trung hạn với tổng mức vốn 2,2 triệu tỷ đồng, 11.100 dự án, giảm một nửa số dự án so với giai đoạn 2011-2015; thể chế pháp luật, giải ngân vốn và hiệu quả đầu tư công từng bước được cải thiện, đã đạt được kết quả khả quan[10]. Cơ cấu đầu tư chuyển dịch tích cực, tỷ trọng đầu tư của khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh (38,7% năm 2015 lên 44,9% năm 2020); vốn đăng ký và thực hiện từ nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) tăng mạnh so với trước[11].

 

 

Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt kỷ lục, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 1,7 lần[12], giảm xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến; xuất siêu 5 năm liên tiếp và đạt mức cao nhất từ trước đến nay[13]; thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng và đa dạng[14]. Thương mại trong nước ngày càng được cải thiện, đặc biệt hệ thống bán buôn, bán lẻ; đề án phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", chương trình đưa hàng Việt về nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các khu công nghiệp, khu chế xuất tiếp tục được đẩy mạnh thực hiện. Công tác quản lý thị trường được triển khai quyết liệt; công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bước đầu được nâng lên; Việt Nam đã trở thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu.

 

Hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân có bước phát triển; bước đầu hình thành một số tập đoàn kinh tế quy mô lớn có tiềm lực mạnh và khả năng cạnh tranh cao[15]; các lĩnh vực khoa học và công nghệ, lao động, việc làm đạt một số kết quả nhất định[16]. Tỷ trọng lao động nông, lâm nghiệp và thủy sản trong tổng lao động cả nước giảm mạnh từ 41,6% năm 2016 xuống 33,1% năm 2020; tỷ lệ lao động qua đào tạo được cải thiện. Pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về cán bộ, công chức, viên chức, cơ chế đặc thù đối với chính quyền đô thị tại một số địa phương đã được hoàn thiện và triển khai thực hiện[17]. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng; khoảng cách bất bình đẳng giới trên tất cả các mặt được thu hẹp dần[18]; chính sách, chế độ ưu đãi với người có công được xây dựng và thực hiện tương đối toàn diện[19]; an sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; giảm nghèo đi vào thực chất hơn với các hoạt động thiết thực, chuyển từ cách tiếp cận đơn chiều sang đa chiều, tập trung vào nhóm, hộ nghèo nhất, bảo đảm “không để ai bị bỏ lại phía sau”[20]. Đời sống Nhân dân được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng 8,5%/năm trong giai đoạn 2016-2019. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng qua các năm; chất lượng dân số từng bước được cải thiện[21].

 

Hệ thống chính sách dân tộc được hoàn thiện, đầy đủ hơn, bao phủ toàn diện các lĩnh vực[22]. Công tác người cao tuổi; bảo vệ, chăm sóc trẻ em; vì sự tiến bộ của phụ nữ được quan tâm chỉ đạo; phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân tiếp tục được nâng lên; phong trào thể dục thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao cũng như hoạt động thể thao dành cho người khuyết tật được đẩy mạnh, đạt một số thành tích tốt[23]. Hệ thống các quy định pháp luật về giáo dục đã được sửa đổi, bổ sung từng bước hoàn thiện[24]; bước đầu thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội hoá đối với một số cơ sở giáo dục - đào tạo; chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn, giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông đã được quan tâm hơn. Hoạt động y tế cơ sở có tiến bộ, y tế dự phòng được tăng cường[25], số giường bệnh trên 1 vạn dân vượt mục tiêu đề ra (đạt 28 giường vào năm 2020); tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên phần nào được khắc phục; y tế tư nhân phát triển cả về số lượng và quy mô[26]; công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 hiệu quả, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.

 

Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu có nhiều chuyển biến. Cải cách hành chính được thực hiện quyết liệt. Bộ máy quản lý nhà nước được kiện toàn, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; tinh giản biên chế được chú trọng và đạt mục tiêu đề ra. Công tác thanh tra, kiểm tra và phòng, chống tham nhũng tiêu cực, lãng phí được đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực.

 

Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được quan tâm hơn, xử lý kịp thời nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; tham mưu tốt hơn các vấn đề chiến lược, kết hợp hiệu quả hơn với phát triển kinh tế - xã hội; công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, thực chất hơn; quan hệ với các đối tác tiếp tục được mở rộng, ký kết và triển khai nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng[27].

 

Hệ thống thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử được xây dựng và vận hành; tăng cường áp dụng và cải cách mạnh mẽ việc thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, đổi mới lề lối làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.

Cải cách tư pháp đã được thực hiện khá đồng bộ, kịp thời. Nhiều vụ vi phạm pháp luật và tội phạm đã được phát hiện, điều tra và xử lý nghiêm; một số vụ án tham nhũng, kinh tế lớn nghiêm trọng, phức tạp, gây thất thoát tài sản của Nhà nước, liên quan đến một số cán bộ cấp cao được phát hiện và đưa ra xét xử, nhận được sự đồng tình và ủng hộ của Nhân dân[28].

 

 

2. Hạn chế trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020

Trong Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021[29], Chính phủ đã chỉ rõ những hạn chế trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, đó là:

 

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong nhiệm kỳ chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, chủ yếu do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức chống chịu và cạnh tranh, tính độc lập tự chủ của nền kinh tế chưa cao, chưa thực sự dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

 

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chưa có bứt phá lớn; việc huy động và sử dụng nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng giao thông hiệu quả chưa cao, trong đó theo phương thức đối tác công tư còn tồn tại, hạn chế. Nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài; chưa quan tâm đúng mức đến chuỗi giá trị và cung ứng trong nước.

Đầu tư công có nhiều tiến bộ, nhưng còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém, Ngân hàng Phát triển Việt Nam, sắp xếp, xử lý 12 dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả và cơ cấu lại Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy (SBIC), cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu.

 

Liên kết vùng còn lỏng lẻo, thể chế phát triển vùng còn nhiều vướng mắc. Kinh tế tư nhân đã đóng vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế, nhưng phát triển còn nhiều khó khăn. Liên kết giữa khu vực kinh tế trong nước và nước ngoài còn chưa chặt chẽ, hiệu quả.

 

Kết quả thực hiện 3 đột phá chiến lược chưa đạt được mục tiêu đề ra. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn một số mặt chưa đầy đủ, đồng bộ. Nguồn nhân lực, khoa học công nghệ và kết cấu hạ tầng xã hội, hạ tầng cho chuyển đổi số quốc gia và thích ứng với biến đổi khí hậu phát triển chậm.

 

Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao, nhất là do tác động của đại dịch. Chất lượng và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng, miền. Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam chưa tương xứng với phát triển kinh tế.

 

Quản lý nhà nước về văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng, thông tin truyền thông còn sơ hở, bất cập. Chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm, nhất là tại các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề. Bộ máy nhà nước ở một số nơi còn cồng kềnh, chồng chéo; phân công, phối hợp, phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát chưa thực sự hợp lý, hiệu quả.

Bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức; việc kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh ở một số địa phương, đơn vị hiệu quả chưa cao, còn biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác; tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở một số địa bàn chưa thật vững chắc. Chưa tận dụng, khai thác tối đa, hiệu quả những cơ hội trong hội nhập quốc tế[30]. 4/9 chỉ tiêu được Quốc hội giao tại Nghị quyết số 142/2016/QH13 không đạt[31].

 

3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020

Trong Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021, Chính phủ cũng chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế về khách quan và chủ quan, trong đó chủ yếu là 4 nguyên nhân chủ quan về nhận thức; về cơ chế, chính sách; về nguồn lực thực hiện và về tổ chức triển khai, cụ thể là:

 

Về nhận thức: Tư duy, nhận thức một số vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa sâu sắc, thống nhất và theo kịp thực tiễn, nhất là quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, sở hữu đất đai, phân bổ nguồn lực, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tập thể, hợp tác xã, tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập,... Tư duy trong xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phù hợp với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư chậm được đổi mới, sức ì còn lớn. Phẩm chất, năng lực, uy tín của một bộ phận cán bộ, nhất là người đứng đầu ở một số cấp, ngành chưa thực sự ngang tầm nhiệm vụ. Chưa thống nhất trong nhận thức và hành động về hệ giá trị văn hoá, con người Việt Nam và về việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với quốc phòng, an ninh, phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường.

 

Về cơ chế, chính sách: Một số cơ chế, chính sách còn bất cập; quy định pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất còn chồng chéo và không còn phù hợp với thực tiễn nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành trong phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả chưa cao.

 

Về nguồn lực thực hiện: cân đối và huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là nguồn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp trong khi phải thực hiện đồng thời rất nhiều mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội và môi trường.

 

Về tổ chức triển khai: Công tác tổ chức thực hiện, chỉ đạo, điều hành một số mặt còn chưa quyết liệt; phản ứng chính sách có mặt còn chậm; phương thức lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều lĩnh vực chưa thật phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; còn có biểu hiện "cơ chế xin - cho" "tư duy nhiệm kỳ", "lợi ích nhóm". Công tác triển khai và phối hợp giữa các ngành, các cấp có lúc, có nơi còn yếu kém, chưa chặt chẽ, hiệu quả, vẫn còn tình trạng đùn đẩy, né tránh dẫn đến việc thống nhất, đồng thuận trong giải quyết các vụ việc chưa cao. Chưa có sự gắn kết giữa công tác lập, xây dựng kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực với yêu cầu về bảo đảm cân đối nguồn lực để thực hiện. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ; công tác phân tích, dự báo còn hạn chế, nhất là dự báo về thị trường và giá cả. Công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá và tổng kết thực tiễn chưa được tiến hành một cách căn cơ, bài bản, thiết thực và kịp thời. Công tác chọn lọc, bồi dưỡng, đào tạo, quy hoạch cán bộ còn thiếu sót, công tác xử lý cán bộ sai phạm chưa nghiêm cũng như biểu dương, khen thưởng những gương người tốt, việc tốt chưa kịp thời. Việc đánh giá và quản lý cán bộ còn bất cập; phẩm chất, năng lực, uy tín, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, nhất là người đứng đầu ở một số cơ quan, đơn vị chưa thực sự ngang tầm nhiệm vụ. Một số dự án thua lỗ, tổ chức tín dụng, doanh nghiệp nhà nước yếu kém, tồn đọng kéo dài chậm được xử lý. Công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực hiện trong thực thi công vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, nhất là ở cấp cơ sở. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục[32].

 

4. Nhiệm vụ và giải pháp thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025

Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ đã đưa ra 12 nhóm nhiệm vụ và giải pháp khắc phục những hạn chế, đó là:

 

 

Tập trung thực hiện “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, nhưng căn cứ vào tình hình thực tế và địa bàn cụ thể để lựa chọn ưu tiên; bảo đảm sức khỏe, tính mạng của nhân dân và an sinh xã hội.

 

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn; kịp thời thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

 

Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số.

 

Tăng cường huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư của nền kinh tế.

 

Đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống hạ tầng giao thông (đường bộ cao tốc, đường hàng không, đường sắt, đường thủy) ở các vùng kinh tế trọng điểm và những vùng còn khó khăn; phát triển đô thị.

 

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ.

 

Thúc đẩy phát triển, liên kết vùng và khu kinh tế.

 

Phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội.

Chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống, hạn chế tác động của thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

 

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thông qua xây dựng và thực thi pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo.

 

Phát triển kinh tế - xã hội gắn liền với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng.

Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, tạo môi trường hoà bình và điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước.

 

5. Đề xuất, kiến nghị nhiệm vụ và giải pháp thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025

Theo Chính phủ và tôi cũng đồng tình với Chính phủ, nguyên nhân chủ quan chủ yếu của những hạn chế nêu trên chính là phẩm chất, năng lực và uy tín của người đứng đầu chưa thực sự ngang tầm nhiệm vụ; trách nhiệm, vai trò là gốc của mọi công việc của người đứng đầu chưa được phát huy. Tuy nhiên, trong Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ, nhiệm vụ và giải pháp để khắc phục nguyên nhân chủ quan chủ yếu này lại rất mờ nhạt, chỉ là: “Đẩy mạnh và hoàn thiện cơ chế phân cấp, phân quyền, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả hoạt động; đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao trách nhiệm người đứng đầu, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, cá thể hóa trách nhiệm thực thi công vụ đi đôi với kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực... Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và của cán bộ, viên chức... Tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở tất cả các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, đề cao trách nhiệm người đứng đầu[33].

Để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, đề nghị Chính phủ bổ sung, làm rõ và cụ thể nhiệm vụ và giải pháp để khắc phục nguyên nhân chủ quan này theo hướng:

 

Một là, chú trọng xây dựng quy hoạch cán bộ, nhất là người đứng đầu. Bởi lẽ quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Chú trọng tạo được nguồn cán bộ dồi dào, đủ tiêu chuẩn để kịp thời đáp ứng yêu cầu, tập trung vào cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học và chuyên gia, cán bộ quản lý kinh doanh. Định kỳ kiểm tra, tổng kết và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ.

 

Hai là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là người đứng đầu. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại cán bộ. Mở rộng diện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị và tổ chức xã hội, các thành phần kinh tế. Đặc biệt chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở; cán bộ khoa học đầu ngành; cán bộ quản lý kinh doanh các doanh nghiệp lớn. Chú trọng bồi dưỡng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chi Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các kiến thực về lịch sử, địa lý, văn hóa...

 

Ba là, xây dựng và hoàn thiện các quy chế công tác cán bộ. Việc đánh giá cán bộ phải làm hàng năm, trước khi kết thúc nhiệm kỳ, hoặc chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ, hiệu quả công việc thực tế, có tính đến môi trường, điều kiện công tác, mức độ tín nhiệm của nhân dân. Thực hiện chế độ dân chủ, công khai trong việc tuyển chọn cán bộ, bảo đảm tuyển chọn đúng những người có đủ tiêu chuẩn theo từng chức danh. Xây dựng và thực hiện các quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm một cách chặt chẽ. Các tổ chức cơ quan có nhu cầu tuyển chọn cán bộ công bố công khai nhu cầu, đối tượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển. Kết quả sát hạch, thi tuyển là một căn cứ chủ yếu đề ra quyết định tuyển dụng cán bộ.

 

Bốn là, thận trọng, công minh trong bổ nhiệm, miễn nhiệm và luân chuyển cán bộ, nhất là người đứng đầu. Thực hiện chế độ bổ nhiệm có thời hạn. Hết thời hạn giữ chức vụ, cấp có thẩm quyền căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ và các yêu cầu công tác để xem xét quyết định có tiếp tục bổ nhiệm cán bộ giữ chức vụ đó nữa hay không. Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị có trách nhiệm cùng với tập thể lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng người kế nhiệm. Căn cứ vào đặc điểm từng vùng, từng ngành, từng cấp, nhu cầu công tác và năng lực, sở trường cán bộ, cấp uỷ đảng lập quy hoạch, kế hoạch luân chuyển cán bộ theo một quy trình chặt chẽ và có chế độ, chính sách thích hợp.

 

Năm là, bảo đảm và tạo điều kiện cho nhân dân tham gia xây dựng và giám sát cán bộ, nhất là người đứng đầu; hoàn thiện chế độ kiểm tra cán bộ. Có cơ chế để nhân dân phát hiện, tiến cử những người có đức, có tài cho các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đoàn thể; lựa chọn, bầu cử những người lãnh đạo trực tiếp của mình. Nhân dân giám sát các công việc và phẩm chất của cán bộ, trước hết là những cán bộ có quan hệ trực tiếp với mình; biểu dương cán bộ tốt, phát hiện, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, quan liêu, tham nhũng...

 

Sáu là, đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ, nhất là chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần cho cán bộ là người đứng đầu. Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Tinh giản biên chế, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động, chống tham nhũng, lãng phí, mở rộng bảo hiểm xã hội, tăng tỉ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách Nhà nước, đổi mới cơ bản chính sách bảo đảm lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và phương tiện đi lại.

 

Bảy là, đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy làm công tác cán bộ. Các cấp uỷ, tổ chức đảng và đích thân cán bộ đứng đầu phải chăm lo xây dựng, đổi mới và chức và đội ngũ cán bộ làm công tác cán bộ. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của các cơ quan làm công tác cán bộ. Khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán, không rõ trách nhiệm, không nắm chắc cán bộ. Nâng cao phẩm chất, trình độ kiến thức và năng lực của đội ngũ làm công tác cán bộ[34].

 

Tám là, tập trung rà soát, bổ sung, xây dựng mới và chỉ đạo quyết liệt hệ thống các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"[35]. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cua Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất[36].

 

Chín là, tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban đảng ở Trung ương và nhất là chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng về công tác cán bộ tại Hội nghị toàn quốc về công tác cán bộ ngày 23/4/2020, phải xác định công tác cán bộ là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ "then chốt" của "then chốt", có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển, vững mạnh của đất nước[37].

 

TS. Đỗ Đức Hồng Hà

                             Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XV

 



[1] Theo đó, Chính phủ đã cắt giảm 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh (đạt gần 63%); cắt giảm, đơn giản hóa 30/120 thủ tục kiểm tra chuyên ngành, cắt giảm 6.776/9.926 (đạt 68%) danh mục dòng hàng kiểm tra chuyên ngành.

[2] Theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới, về môi trường kinh doanh toàn cầu giai đoạn 2016 - 2020, Việt Nam tăng 20 bậc (xếp thứ 70/190 quốc gia và xếp thứ 5 trong ASEAN); về năng lực cạnh tranh toàn cầu, theo xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam tăng 10 bậc trong giai đoạn 2018 - 2020 (xếp thứ 67/141 quốc gia).

[3] Chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân giai đoạn 2016-2020 ước đạt 3,15%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 (7,65%). Lạm phát bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 1,81%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 6,31%.

[4] Tỉ trọng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP tăng từ 14,27% năm 2016 lên khoảng 16,7% năm 2020. Tỉ trọng ngành khai khoáng giảm từ 8,12% năm 2016 xuống còn 5,55% năm 2020.

[5] Tính trên cả giai đoạn 5 năm 2016 - 2020, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 190,5 tỷ USD, bình quân đạt 37,06 tỷ USD/năm. Riêng năm 2020 ước đạt 41,25 tỷ USD, tăng so với năm 2015 là 10,8 tỷ USD (tương ứng với mức tăng 35,4%), đưa Việt Nam vào nhóm đầu ở Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới về xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.

[6] Tính đến hết năm 2020, có trên 62% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (mục tiêu kế hoạch đề ra là đến năm 2020 có 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới); 173/664 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 04 tỉnh được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.

[7] Năm 2020 đạt 85,6%; bình quân giai đoạn 2011-2015 là 68,7%.

[8] Bội chi NSNN bình quân năm 2016-2019 là 3,3% GDP (giai đoạn 2011-2015 là 5,4% GDP). Nợ công giảm từ mức đỉnh 63,7% GDP năm 2016 xuống 55,2% GDP vào cuối 2019; nợ Chính phủ giảm từ mức 52,7% năm 2016 xuống 49,1% GDP năm 2019; nợ nước ngoài quốc gia giảm từ 49,0% GDP năm 2017 xuống 47,2% GDP cuối năm 2020.

Mục tiêu giai đoạn 2016-2020 theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020 là nợ công hằng năm không quá 65% GDP; nợ Chính phủ không quá 54% GDP; nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.

[9] Dư nợ đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh chiếm trên 80% tổng dư nợ.

[10] Tỷ lệ dự án hoàn thành trong giai đoạn đạt 66,2%. Tỷ lệ giải ngân bình quân giai đoạn đạt 83,4%, riêng năm 2020 đạt 97,46%.

[11] Tính chung cả giai đoạn 2016-2020, tổng vốn FDI đăng ký đạt khoảng 169,3 tỉ USD, trong khi đó vốn thực hiện đạt 92,8 tỉ USD (giai đoạn 2011 - 2015, tổng vốn FDI đăng ký đạt khoảng 100,3 tỉ USD, vốn thực hiện đạt gần 60 tỉ USD).

[12] Tăng từ 327,8 tỷ USD năm 2015 lên 517,7 tỷ USD năm 2019, năm 2020 đạt 545,5 tỷ USD, tương đương trên 201,1% GDP. Xuất khẩu hàng hoá tăng từ 162 tỷ USD năm 2015 lên 282,7 tỷ USD năm 2020, tăng bình quân 11,8%/năm cả giai đoạn 2016-2020.

[13] Mức thặng dư năm 2020 là 19,95 tỷ USD, năm 2019 là 10,57 tỷ USD, năm 2018 là 6,46 tỷ USD, năm 2017 là 1,9 tỷ USD, năm 2016 là 1,6 tỷ USD.

[14] Đã tiếp cận được các khu vực thị trường có yêu cầu cao về tiêu chuẩn, chất lượng như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc…, đặc biệt là với nhóm hàng hóa thực phẩm nông sản và thủy sản.

[15] Tập đoàn Vingroup, Hòa Phát, Sungroup, Thành Công, Công ty cổ phần FPT, Công ty cổ phần ô tô Trường Hải…

[16] Đến nay cả nước có 20 sàn giao dịch công nghệ tại các địa phương, 186 tổ chức cung cấp dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp, 30 cơ sở ươm tạo công nghệ, 50 trung tâm chuyển giao công nghệ thuộc các viện nghiên cứu, trường đại học... Mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở 63 tỉnh, thành phố cũng được đầu tư nâng cấp.

[17] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Chính quyền địa phương; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; các nghị quyết về thí điểm mô hình chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng, về chính quyền đô thị tại thành phố Hồ Chí Minh.

[18] Chỉ số phát triển giới của Việt Nam nằm trong nhóm cao nhất trong 5 nhóm trên thế giới, đạt 0,997, đứng thứ 65 trong số 162 quốc gia.

[19] Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với Cách mạng năm 2020. Hiện cả nước có trên 9,2 triệu người có công với cách mạng và thân nhân, trong đó có 1,4 triệu người đang hưởng trợ cấp hàng tháng.

[20] Tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 3,75% cuối năm 2019 và giảm còn 2,75% vào cuối năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm 1,43%/năm. Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các huyện nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tăng cường.

[21] Tuổi thọ trung bình tăng năm cuối kỳ đạt khoảng 73,7 tuổi (năm 2015 là 73,3 tuổi).

[22] Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; và Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

[23] Năm 2016, Thể thao Việt Nam giành được tổng cộng 482 huy chương vàng, 385 huy chương bạc, 345 huy chương đồng; năm 2017 giành được tổng cộng 1.045 huy chương, trong đó 425 huy chương vàng, 301 huy chương bạc, 319 huy chương đồng; năm 2018 giành được tổng cộng 386 huy chương vàng, 296 huy chương bạc, 235 huy chương đồng; năm 2019 giành được 587 huy chương vàng, 428 huy chương bạc, 468 huy chương đồng.

[24] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (năm 2018) và Luật Giáo dục (năm 2019); Chương trình giáo dục phổ thông mới (năm 2018); xây dựng cơ sở dữ liệu toàn quốc về giáo dục, kho học liệu điện tử chất lượng, phong phú và tương tác đa chiều…

[25] Ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm như Ebola, Mers-CoV, duy trì kết quả tiêm chủng, phòng, chống bệnh truyền nhiễm, triển khai phòng, chống dịch bạch hầu ở các tỉnh Tây Nguyên, tích cực triển khai Chương trình sức khỏe Việt Nam, chú trọng dự phòng, phát hiện sớm, quản lý và điều trị các bệnh không lây nhiễm.

[26] Ước tỷ lệ giường bệnh tư nhân thực hiện trong giai đoạn 2016-2020 là 7%.

[27] Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP).

[28] Ủy ban Kinh tế (2021), Báo cáo số 10/BC-UBKT15 ngày 21 tháng 7 năm 2021 của Ủy ban Kinh tế thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020; dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

[29] Chính phủ (2021), Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ về tình hình, kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và dự kiến Kế hoạch 5 năm 2021-2025. (Mục III. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 5 NĂM 2016-2020).

[30] Chính phủ (2021), Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ về tình hình, kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và dự kiến Kế hoạch 5 năm 2021-2025.

[31] 4/9 chỉ tiêu về kinh tế không đạt, đó là: (i) Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm; (ii) GDP bình quân đầu người đến năm cuối kỳ; (iii) Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đến năm cuối kỳ (theo giá sản xuất); (iv) Giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân.

[32] Chính phủ (2021), Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ về tình hình, kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và dự kiến Kế hoạch 5 năm 2021-2025.

[33] Chính phủ (2021), Báo cáo số 241/BC-CP ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ về tình hình, kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và dự kiến Kế hoạch 5 năm 2021-2025. (Mục 10. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước thông qua xây dựng và thực thi pháp luật; siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính đi đôi với tạo dựng môi trường đổi mới sáng tạo).

[34] Ban Chấp hành Trung ương (1997), Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18 tháng 6 năm 1997 của Ban Chấp hành Trung ương về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

(35) PGS.TS. Nguyễn Viết Thông, Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Những thành tựu trong xây dựng Đảng qua gần 30 năm đổi mới, https://dantri.com.vn/chinh-tri/nhung-thanh-tuu-trong-xay-dung-dang-qua-gan-30-nam-doi-moi, cập nhật ngày 20/01/2015.

[36] Những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vẫn đề cấp bách của công tác xây dựng Đảng hiện nay, https://sites.google.com/site/tutuongchinhtri/tu-tuong/nhung-thanh-tuu-han-che-nguyen-nhan, cập nhật ngày 09/7/2020.

[37] Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIII của Đảng (2020), Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII của Đảng, https://baoanhdatmui.vn/tin-tuc/chinh-tri, cập nhật ngày 13/05/2020.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết