1. Đặt vấn đề
Thuật ngữ “Phát triển bền vững” được phổ biến bởi Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED) trong tài liệu báo cáo năm 1987. Theo đó, phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau, là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển gồm: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam, thực hiện cam kết tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Janerio, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Định hướng Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam, trong đó quan điểm “Phát triển bền vững trở thành quan điểm xuyên suốt trong chính sách của Đảng, Nhà nước” đã được lồng ghép trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, các Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2015 và 2016-2020 và cụ thể trong Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020: “Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước; Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các Bộ, ngành và địa phương, các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân; Tạo lập điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là loại tài nguyên không thể tái tạo, gìn giữ và cải thiện môi trường sống; xây dựng xã hội học tập; xây dựng lối sống thân thiện môi trường, sản xuất và tiêu dùng bền vững; Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với môi trường cần được ưu tiên sử dụng rộng rãi trong các ngành sản xuất”.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững, các quốc gia trên thế giới (tháng 9/2015) đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với 17 mục tiêu về phát triển bền vững. Trong đó khái niệm “Giáo dục vì sự Phát triển bền vững” (ESD - Education for Sustainable Development) là một quá trình học tập suốt đời, trao quyền cho người học ở mọi lứa tuổi để có được kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để nhận thức, giải thích, và giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học, lãng phí tài nguyên thiên nhiên và vấn đề bất bình đẳng, phân biệt đối xử.
Trong xu thế hội nhập, đổi mới, phát triển Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, trong đó đã đề ra 17 mục tiêu phát triển bền vững với 115 mục tiêu cụ thể với lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030, trong đó mục tiêu đối với giáo dục: “Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”, yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo tập trung triển khai: “…Thực hiện giáo dục hòa nhập, giáo dục đặc biệt cho trẻ khuyết tật. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ cho người học thuộc đối tượng chính sách, người dân tộc, phụ nữ theo địa bàn, đặc biệt là các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn; Tăng cường đầu tư ngân sách, cơ sở vật chất để hỗ trợ phát triển giáo dục đối với vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách xã hội; tiếp tục củng cố, phát triển hệ thống trường lớp, cơ sở giáo dục phù hợp với điều kiện của vùng dân tộc thiểu số, vùng bị ảnh hưởng bởi thiên tai và biến đổi khí hậu, miền núi, hải đảo; Khuyến khích xã hội hóa giáo dục phù hợp với vùng kinh tế - xã hội khó khăn, nhằm huy động các nguồn lực xã hội tham gia và giáo dục trẻ em gái, trẻ khuyết tật, trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ em trong những hoàn cảnh dễ bị tổn thương”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Giáo dục nước ta trong thập kỷ tới phát triển trong bối cảnh thế giới có nhiều thay đổi nhanh và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu. Cách mạng khoa học công nghệ, công nghệ thông tin và truyền thông, kinh tế trí thức ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến sự phát triển của các nền giáo dục trên thế giới”; “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt”; “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”.
Ngày 04/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, tiếp tục khẳng định quan điểm “…Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội; Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng; Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo”, nhằm hướng đến một nền giáo dục đổi mới và phát triển bền vững.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định quan điểm: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển nhanh và bền vững”, đề ra định hướng phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2021-2030: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới”.
Bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đề ra trong Chiến lược phát triển giáo dục, giáo dục đại học Việt Nam xác định mục tiêu: “Hoàn thiện cơ cấu hệ thống giáo dục đại học; điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; đào tạo ra những con người có năng lực sáng tạo, tư duy độc lập, trách nhiệm công dân, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp, năng lực ngoại ngữ, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp, năng lực tự tạo việc làm và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường lao động và một một phận có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới”.
2. Thực hiện mục tiêu giáo dục vì sự phát triển bền vững đối với giáo dục đại học thời gian qua
Thể chế quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục đại học thông qua thực hiện mục tiêu vì sự phát triển bền vững, giai đoạn 2013-2019 giáo dục đại học Việt Nam đạt được một số kết quả[1]: Quản lý, quản trị đại học có chuyển biến tích cực; chất lượng giáo dục đại học từng bước được nâng cao; số công trình khoa học được công bố trong nước và quốc tế tăng mạnh. Nhiều cơ sở giáo dục ngoài công lập có bước phát triển khá cả về quy mô và chất lượng. Tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia được tăng cường. Đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo được thúc đẩy, lan tỏa trong xã hội. Thị trường khoa học và công nghệ bước đầu phát triển. Hợp tác quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần hỗ trợ nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Khoa học và công nghệ đã đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, chất lượng giáo dục đại học chưa cải thiện đáng kể. Năng lực hội nhập quốc tế chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế quản lý tài chính đối với khoa học và công nghệ tuy đã có đổi mới, song còn bất cập, chưa đồng bộ; phân bổ ngân sách chưa hợp lý. Hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và ứng dụng kết quả nghiên cứu chưa cao.
Tiếp tục thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục đại học theo Nghị quyết số 29-NQ/TW: “tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài”; “hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia”, đến nay giáo dục đại học đã tạo nên những thay đổi mạnh mẽ cả về chất lượng và hiệu quả đào tạo ở các trình độ:
- Việc ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật Giáo dục đại học (Luật số 34/2018/QH14) và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật số 34/2018/QH14 được đánh giá là một bước tiến lớn về hành lang pháp lý để thúc đẩy giáo dục đại học phát triển, trong đó nội dung cốt lõi là tự chủ đại học. Một trong những điều kiện tiên quyết, sự đổi mới cần thiết về mặt nhận thức và tư duy trong quản trị đại học theo mô hình tiên tiến, để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ đó là phải thành lập, kiện toàn hội đồng trường theo đúng quy định của Luật số 34/2018/QH14 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP. Đến nay, cả nước có 170/174 cơ sở giáo dục đại học công lập đã thành lập Hội đồng trường và đi vào hoạt động (đạt tỷ lệ 97,4%); trong đó, 36/36 đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, 58/60 cơ sở giáo dục đại học tư thục.
- Khi tự chủ đại học được thúc đẩy, công tác kiểm định chất lượng giáo dục được quan tâm đặc biệt, định hướng theo các tiêu chí chuẩn mực của khu vực, thế giới. Trong những năm gần đây, hoạt động kiểm định đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là các cấp quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục đại học được tiếp cận với mô hình quản lý hiện đại, tiên tiến. Nhiều cơ sở giáo dục đại học tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng nội bộ, coi công tác đánh giá và kiểm định là các hoạt động thường xuyên nhằm liên tục cải tiến chất lượng, mang lại niềm tin và lợi ích cho người học và cả xã hội.
- Tuyển sinh và tổ chức đào tạo ở các trình độ của giáo dục đại học tăng mạnh về quy mô, chất lượng đào tạo được nâng cao, cơ bản đáp ứng nguồn nhân lực trình độ cao, nâng cao năng lực khoa học công nghệ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng và nhu cầu học tập của người dân; góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước từng bước phát triển bền vững.
- Quy mô đào tạo đại học tăng trung bình 4,4% giai đoạn 10 năm qua, đã góp phần tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi từ 18 đến 22 tuổi được tiếp cận giáo dục đại học từ 25,2% (năm 2013) lên 35,4% (năm 2021), tỷ lệ sinh viên học đại học tăng 6,1% bình quân trong cả giai đoạn 10 năm (2013-2023).
- Chương trình đào tạo giáo dục đại học được chú trọng, xây dựng theo hướng đa dạng, mềm dẻo giúp củng cố kiến thức, phát triển năng lực, phẩm chất cho sinh viên, học viên nhằm đáp ứng tiêu chuẩn đầu ra theo quy định của Khung trình độ quốc gia và chuẩn chương trình đào tạo. Tính đến tháng 8/2023, có 261 cơ sở đào tạo hoàn thành đánh giá ngoài theo tiểu chuẩn trong nước; 194 cơ sở đào tạo được kiểm định theo tiêu chuẩn trong nước; 9 cơ sở đào tạo được kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài.
- Đội ngũ giảng viên gia tăng về số lượng và chất lượng. Triển khai Đề án 89 về đào tạo đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học, năm học 2022, có 187 cán bộ, giảng viên được đào tạo trong nước (đạt 24%), 80 cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài (đạt 32%); năm 2023 con số này lần lượt là 118 người được đào tạo trong nước (đạt 37%), 130 người được đào tạo ở nước ngoài (đạt 64%). Theo công bố tại website research.com về kết quả xếp hạng các nhà khoa học thế giới có thành tích xuất sắc trong công bố khoa học theo 24 lĩnh vực, Việt Nam có 10 nhà khoa học có tên trong bảng xếp hạng trong 06 lĩnh vực. Điều này phản ánh sự tiến bộ, nỗ lực và hội nhập không ngừng của các nhà khoa học Việt Nam, những lĩnh vực mà Việt Nam được ghi nhận trên bản đồ khoa học của thế giới.
- Phát triển khoa học và công nghệ bắt đầu chú trọng chất lượng, thực chất. Nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học tăng mạnh và đạt được nhiều kết quả nổi bật. Đến nay, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tiếp tục duy trì và giữ vị trí tốt trong các bảng xếp hạng uy tín quốc tế, có 05 đại diện có tên trong bảng xếp hạng các trường đại học hàng đầu thế giới của Tổ chức Quacquarelli Symonds (QS); 09 cơ sở giáo dục đại học vào bảng xếp hạng tầm ảnh hưởng của Times Higher Education (THE), tăng 02 cơ sở giáo dục đại học so với năm trước và đông nhất từ trước đến nay; 06 cơ sở giáo dục đại học trong bảng xếp hạng THE WUR 2023, tăng 01 cơ sở so với năm 2022; nhiều ngành, lĩnh vực đào tạo được đứng trong top 500 thế giới (trước năm 2015, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam chưa có mặt trong các bảng xếp hạng thế giới, chỉ có ba trường vào top 300 châu Á).
- Mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học được quy hoạch hoàn thiện, cơ cấu ngành nghề đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia, trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Các cơ sở đào tạo cũng được đa dạng hoá, phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, việc thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục đại học vì sự phát triển bền vững trong thời gian qua còn gặp khó khăn, hạn chế ảnh hưởng tới hoạt động sự phát triển của giáo dục đại học. Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ một số nội dung liên quan giữa Luật Giáo dục đại học với một số văn bản luật khác dẫn đến những khó khăn, vướng mắc cho các cơ sở giáo dục đại học trong quá trình thực hiện đẩy mạnh tự chủ theo Luật Giáo dục đại học nhưng vẫn phải tuân thủ, thực hiện các Luật liên quan. Cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ lãnh đạo một số cơ sở đào tạo chưa được kiện toàn. Công tác tuyển sinh vẫn cho thấy các phương thức xét tuyển phức tạp, chỉ tiêu phân bổ chưa hợp lý. Quy mô đào tạo sau đại học còn rất thấp và không tăng trong nhiều năm, cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nguồn lực dành cho giáo dục đại học còn rất hạn chế, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và thế giới. Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện vẫn dựa vào học phí là chủ yếu. Đầu tư cho giáo dục đại học từ ngân sách nhà nước còn thấp và có xu hướng tiếp tục bị cắt giảm, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, đổi mới hoạt động đào tạo, thu hút nguồn lực cho phát triển khoa học, công nghệ. Ngân sách chi cho giáo dục đại học chỉ trên dưới 17.000 tỷ, chiếm 0,27% GDP (nhưng thực chi chưa đến 12.000 tỷ, chưa đạt 0,78% GDP). Đặc biệt, việc đánh giá về kết quả đổi mới, sáng tạo, đóng góp của giáo dục đại học với sự phát triển bền vững của địa phương, vùng, đất nước nhìn chung chưa rõ nét nhất là trong bối cảnh mới yêu cầu giáo dục đại học cần có những bứt phá mới, để thực sự đóng vai trò then chốt trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng, trình độ cao, gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhằm thực hiện một trong ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
3. Một số khuyến nghị đổi mới giáo dục đại học tiếp cận mục tiêu giáo dục vì sự phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới
Nhận thức về tầm quan trọng của mối liên hệ giữa việc đổi mới giáo dục đại học hướng đến sự phát triển bền vững, trong nhiều năm qua Đảng, Nhà nước luôn đề cao và chú trọng phát triển một nền giáo dục hướng đến các mục tiêu phát triển bền vững, gắn kết với việc nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chú trọng đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học, giáo dục làm người, đạo đức, lối sống; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội….Xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021-2030 là thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực và cả nền kinh tế. Hoàn thiện cơ chế, chính sách cho phát triển khoa học- công nghệ, đổi mới sáng tạo phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ quốc tế. Có chính sách ưu đãi phù hợp về thuế, tài chính, tín dụng, đất đai... cho nghiên cứu khoa học-công nghệ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và triển khai; tạo thuận lợi cho trích lập và sử dụng hiệu quả quỹ đầu tư cho khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp .Ban hành cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn thông qua tăng cường chính sách đặt hàng đào tạo và thực hiện hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với cơ sở đào tạo và người học. Thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách mới, đặc thù về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo tại một số địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp được giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, công nghệ nguồn. Rà soát, hoàn thiện các chiến lược về giáo dục, đào tạo, phát triển nhân lực quốc gia phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ.
Giáo dục vì sự phát triển bền vững được coi là một nền tảng cho một xã hội bền vững hơn, khi mà con người có thể đưa ra các quyết định sáng suốt cho bản thân, cộng đồng và cho xã hội. Giáo dục vì sự phát triển bền vững đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tình hình mới phải hướng tới các kiến thức, kĩ năng, giá trị và năng lực hành động để thực hiện các mục tiêu quốc gia theo các trụ cột của phát triển bền vững. Trước bối cảnh đổi mới giáo dục ở Việt Nam hiện nay, đổi mới giáo dục đại học không chỉ là mục tiêu mà còn được coi là công cụ và phương tiện chủ chốt, là chìa khóa để đạt được mục tiêu của phát triển bền vững và là vấn đề cấp thiết và cần có những giải pháp khẩn trương, kịp thời để đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, hòa nhập với sự phát triển của thế giới trong thời gian tới.
Thứ nhất, Lồng ghép mục tiêu phát triển bền vững vào chương trình giảng dạy của tất cả các cấp bậc học, trình độ đào tạo, từ mầm non đến giáo dục đại học. Lồng ghép các nội dung về giáo dục môi trường, phòng chống bạo lực học đường, giáo dục bình đẳng giới, phát triển năng lực tự học, các phong trào học tập suốt đời...Tích hợp các nội dung liên quan đến phát triển bền vững vào các môn học khác nhau, như khoa học, lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, nghệ thuật... Đồng thời, cũng cần tạo ra các môn học riêng biệt về phát triển bền vững để người học có thể hiểu sâu hơn về các vấn đề toàn cầu và các giải pháp có thể áp dụng.
Thứ hai, Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững. Đào tạo về phát triển bền vững cho đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục để nâng cao năng lực của giáo viên, giảng viên và các nhà quản lý giáo dục để họ có thể sử dụng các phương pháp giảng dạy sáng tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, kích hoạt và tương tác nhằm truyền đạt kiến thức và kỹ năng về phát triển bền vững cho người học. Đồng thời, tạo ra các cơ hội cho nhà giáo và các nhà quản lý giáo dục có môi trường trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau trong việc triển khai phát triển bền vững.
Thứ ba, Xây dựng nguồn tài nguyên cho phát triển bền vững với tài liệu và tài nguyên học tập chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của người học ở các cấp giáo dục khác nhau. Các tài liệu và tài nguyên học tập phát triển bền vững có thể là: sách giáo khoa, sách tham khảo, bài giảng, giáo án điện tử, video bài giảng, trò chơi, ứng dụng trên các thiết bị di động,... Các tài liệu và tài nguyên học tập này cần được thiết kế theo nguyên lý “học bằng cách làm”, lấy người học làm trung tâm và tham gia tích cực vào quá trình học tập và áp dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tiễn để giải quyết các vấn đề thưc tế trong cuộc sống.
Thứ tư, Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ các sáng kiến phát triển bền vững trong môi trường học tập mở khác nhau, như trung tâm học tập cộng đồng, các tổ chức xã hội dân sự, các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước,... để tiếp cận và tham gia vào các hoạt động học tập liên quan đến phát triển bền vững. Các hoạt động học tập này có thể bao gồm các buổi huấn luyện, tập huấn, thảo luận, trải nghiệm sáng tạo, dự án, chiến dịch,...Các hoạt động học tập này cần được thiết kế theo nguyên lý khuyến khích người học tham gia tích cực vào quá trình học tập và áp dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tiễn.
Thứ năm, Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, và chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học theo hướng “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Đổi mới giáo dục đại học dựa trên việc xác định phát triển bền vững sẽ trở thành xu thế bao trùm trên thế giới, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh, phát huy hiệu quả môi trường, điều kiện của sự phát triển bền vững và của khoa học, công nghệ đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Giáo dục đại học vì sự phát triển bền vững cần đẩy mạnh trao quyền cho người học tự học tập kiến thức, kỹ năng, giá trị và thái độ, đưa ra các quyết định sáng suốt, thực hiện các hành động có trách nhiệm vì sự toàn vẹn của môi trường, kinh tế và công bằng xã hội. Xây dựng và triển khai các biện pháp đổi mới, điều chỉnh chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Để tăng cường các hoạt động thực hành, trải nghiệm trong bối cảnh hiện nay, giáo dục đại học cần phát huy sứ mệnh của mình để trang bị kiến thức và kỹ năng, những trải nghiệm thực tế, vận dụng những kiến thức, kĩ năng vào những tình huống cụ thể, giải quyết được những vấn đề trong thực tiễn đặt ra cho các thế hệ công dân hiện tại và tương lai vượt qua những thách thức mà thế giới phải đối mặt, qua đó góp phần thực hiện thành công tất cả các mục tiêu phát triển bền vững đặt ra. Do đó, việc tăng cường các hoạt động thực hành, trải nghiệm trong các chương trình đào tạo là vô cùng cần thiết để đào tạo nguồn nhân lực có trình độ, năng lực làm việc, đáp ứng các yêu cầu của xã hội, đảm bảo cho sinh viên, học viên có kinh nghiệm, trải nghiệm thực tế ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Mặt khác, các cơ sở giáo dục đại học tiếp tục thực hiện tốt việc khuyến khích, đẩy mạnh triển khai công tác nghiên cứu khoa học tới sinh viên, học viên thông qua việc tài trợ các dự án nghiên cứu khoa học, ký hợp đồng thực hiện nghiên cứu khoa học, tổ chức hội nghị nghiên cứu khoa học thường niên cho sinh viên. Những hoạt động này sẽ góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu cũng như năng lực giao tiếp, hợp tác cho sinh viên, hướng tới mục tiêu học tập suốt đời cũng như trang bị các kiến thức, kĩ năng cho sinh viên nhằm tạo ra một môi trường học tập lành mạnh, tích cực, đào tạo được những sinh viên năng động, linh hoạt, sẵn sàng tiếp thu và thực hiện những yêu cầu, đòi hỏi mới của bối cảnh giáo dục hiện đại hiện nay, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhận lực chất lượng cao.
Thứ sáu, Tích cực sử dụng các công nghệ mới trong quá trình giảng dạy cho người học. Theo yêu cầu của bối cảnh công nghệ số hiện nay, giáo dục và đào tạo cần được điều chỉnh phù hợp với các môi trường học tập mới và sáng tạo, bao gồm tăng cường sử dụng công nghệ kỹ thuật số. Trong những năm đại dịch Covid-19 vừa qua đã cho thấy rõ rằng các hệ thống giáo dục linh hoạt có khả năng thích ứng tốt hơn. Vì vậy, việc sử dụng công nghệ trong giáo dục trở nên cần thiết, không chỉ để ứng phó với đại dịch, mà còn để bảo đảm rằng giáo dục vẫn tiếp tục duy trì hoạt động trong các thời điểm xung đột và khủng hoảng. Bên cạnh đó, việc tận dụng tối đa khả năng của công nghệ giúp thúc đẩy cá nhân hóa trong giáo dục và đào tạo cũng được coi là nguồn lực cần thiết để tập trung đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân người học.
Việc sử dụng công nghệ mới trong quá trình dạy học hiện nay sẽ tạo môi trường thuận lợi cho cả người dạy và người học. Hiện nay, rất nhiều cơ sở giáo dục đại học đã xây dựng các hệ thống quản lý học tập (LMS) hoặc tổ chức dạy học kết hợp (blended learning) với tư cách là những cơ sở nền tảng triển khai dạy học, tạo điều kiện cho giảng viên và sinh viên, học viên có cơ hội tiếp cận những ứng dụng công nghệ trong cả quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá. Một số xu hướng như sử dụng công nghệ thực tế ảo, trí tuệ nhân tạo (AI), máy in 3D,...đang là những định hướng được triển khai và dự báo ngày càng phổ biến trong tương lai.
Kết luận: Trên cơ sở những định hướng Tuyên bố Bonn được thông qua tại Hội nghị Thế giới về giáo dục phát triển bền vững và Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam với nhiệm vụ bao trùm là đẩy mạnh các sáng kiến và chương trình giáo dục phát triển bền vững, huy động thêm nguồn lực để biến nhận thức thành hành động, tạo ra sự thay đổi trong lối sống và cùng chung tay xây dựng một tương lai bền vững.
Nhận thức, quan điểm về phát triển bền vững của Việt Nam vừa có sự kế thừa nhận thức và xu hướng phát triển chung của thế giới vừa có sự vận dụng, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, việc đổi mới giáo dục đại học Việt Nam theo tiếp cận mục tiêu giáo dục vì sự phát triển bền vững, vì một tương lai bền vững thông qua các chiến lược: Liên kết và hợp tác; Xây dựng năng lực và đào tạo; Nghiên cứu và đổi mới; Công nghệ thông tin và truyền thông và thường xuyên theo dõi và đánh giá để đảm bảo kế hoạch hành động đạt được các thành quả tích cực và có hiệu quả lâu dài; Các chính sách và chương trình hành động quốc gia về kinh tế, xã hội, môi trường với các chủ đề như bình đẳng giới, quyền trẻ em, HIV/AIDS, giáo dục môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, quản lý và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống tham nhũng…cần tiếp tục đưa vào chương trình giáo dục chính qui và phi chính qui; chương trình giảng dạy chính khoá hoặc ngoại khóa ở tất cả các cấp học, trình độ đào tạo và các đối tượng trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam nhằm khuyến khích thay đổi hành vi và thái độ, góp phần xây dựng một xã hội phát triển bền vững, công bằng và văn minh.
TS. Lê Thị Mai Hoa, TS. Trần Đình Minh,
Vụ Giáo dục, Ban Tuyên giáo Trung ương
Tài liệu tham khảo:
- Văn kiện nghị quyết Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020.
- Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
- Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
- Quyết định 841/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững Việt Nam đến năm 2030.
- Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
- Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
- Dự thảo Báo cáo đánh giá 10 năm thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đối với giáo dục đại học.
- Báo cáo tổng kết giáo dục đại học năm học 2022-2023.
[1] Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/2019 của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.