Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ trong tình hình hiện nay

Ngày phát hành: 12/03/2019 Lượt xem 8321

Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cán bộ cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở Việt Bắc, tháng 2/1949

(ảnh tư liệu)

 

Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng xác định rõ nội dung lãnh đạo công tác phụ nữ là: “Nâng cao trình độ mọi mặt về đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện pháp luật và chính sách đổi mới lao động nữ, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ”.

          Đó là những định hướng rất cụ thể, thiết thực về sự lãnh đạo của Đảng và những nội dung để Hội liên hiệp phụ nữ đổi mới phương thức hoạt động trong thời kỳ mới. Phương thức lãnh đạo là một nội dung chủ yếu trong phương thức hoạt động của Đảng, trong điều kiện Đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối, quan điểm thể hiện trong cương lĩnh, các nghị quyết, điều lệ Đảng; Đảng bố trí và quản lý đội ngũ cán bộ, kiểm tra việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, lãnh đạo bằng sự giáo dục, thuyết phục, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, lãnh đạo thông qua các cá nhân và tổ chức của Đảng.

          Thực tiễn cho thấy, hơn 30 năm qua phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ có nhiều đổi mới theo hướng ngày càng dân chủ và đạt hiệu quả cao hơn. Trước hết là đổi mới việc ra nghị quyết, tổ chức học tập nghị quyết và triển khai thực hiện nghị quyết. Trước khi ban hành nghị quyết, Trung ương đều tổ chức khảo sát, điều tra, đánh giá rõ thực trạng, tổ chức tọa đàm, trao đổi, phát huy và đề cao vai trò, vị trí của công tác phụ nữ, tiếp thu có chọn lọc nhiều ý kiến từ cơ sở, từ đội ngũ cán bộ nữ...v.v... Văn bản nghị quyết, chỉ thị được ban hành ngày càng ngắn gọn, súc tích, thể hiện rõ quan điểm, đường lối, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, thiết thực.

          Ngày 12/7/1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 04/NQ-TW “Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”.Ngày19/9/1993 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 28-CT/TW về thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị “Đổi mới, tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”. Đặc biệt Bộ chính trị đã ra Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 “về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Sau 5 năm thực hiện nghị quyết, Ban Bí thư đã chỉ đạo các cấp, các ngành sơ kết, đánh giá và ban hành Kết luận  55KL/TW ngày 18/01/2013 về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW. Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng đều có định hướng rõ nội dung, phương hướng lãnh đạo công tác phụ nữ để các cấp, các ngành trong cả hệ thống chính trị thực hiện. Sau khi có nghị quyết Trung ương, các cấp ủy đều xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết. Việc tổ chức học tập, quán triệt đều được tổ chức chặt chẽ, có nhiều đổi mới trong chuyển tải nội dung đến cán bộ, đảng viên nên nhận thức về công tác phụ nữ có chuyển biến tiến bộ.

          Trên cơ sở các chủ trương, nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội đã thể chế thành các văn bản pháp luật để thực hiện như ban hành: Luật hôn nhân gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình...v.v...Chính phủ ra Nghị định 56-NĐ/CP về “Quy định trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong việc đảm bảo cho các cấp Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý nhà nước. Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt một số đề án như: “Tuyên truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước giai đoạn 2010 – 2015”. “Đào tạo cán bộ hội chủ chốt cấp huyện và xã giai đoạn 2008 – 2012”; Đề án 1891 về “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hội LHPN các cấp giai đoạn 2014 – 2017”; “Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”; “Tuyên truyền pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào dân tộc”..v..v...

          Trong đổi mới phương thức lãnh đạo của mình, Đảng rất quan tâm đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội  ngũ cán bộ nữ trong cả hệ thống chính trị, trong đó có cán bộ của các cấp hội. Báo cáo chính trị đại hội Đảng các khóa đều ghi rõ tăng tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Nghị quyết của Bộ Chính trị số 11-NQ/TW xác định nhiệm vụ, giải pháp “Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH”; “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên, nữ đại biểu quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ chủ chốt lãnh đạo là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới”

          Thực tế nhiệm kỳ 2016 – 2021 (ở Trung ương), 2015 – 2020 (ở địa phương), tỷ lệ cán bộ nữ trong cả hệ thống  chính trị nói chung đều tăng cao hơn các nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ cấp ủy cơ sở cả nước là 19,18%, cấp trên cơ sở là 14,63%, cấp tỉnh, thành chiếm 13,1%. Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp đều tăng. Hằng năm có nhiều nhà khoa học và doanh nhân nữ được tôn vinh về sự cống hiến trong nghiên cứu khoa học, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh.

          Thực hiện các đề án của Trung ương, của Chính phủ, đội ngũ cán bộ nữ có triển vọng được đưa vào nguồn quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng ngày càng đông. Các cấp ủy Đảng luôn tăng cường sự lãnh đạo đối với tổ chức Hội phụ nữ, nhiều tỉnh, thành đã phân công các đồng chí ủy viên ban chấp hành, ban thường vụ trực tiếp phụ trách, theo dõi hoạt động của Hội. Ban bí thư, thường trực cấp ủy các cấp đều duy trì tốt chế độ làm việc với đảng đoàn, ban thường vụ Hội phụ nữ theo quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Việc bầu cử Ban chấp hành, Ban thường vụ, chủ tịch, các phó chủ tịch Hội LHPN các nhiệm kỳ, cấp ủy đảng đều tôn trọng, phát huy dân chủ, bầu cử có số dư. Tổ chức đảng giới thiệu đảng viên ứng cử các chức danh chủ chốt của Hội, không gò ép, áp đặt.

          Để tổ chức đưa các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác phụ nữ vào thực tiễn cuộc sống, các cấp ủy đảng thường xuyên coi trọng công tác kiểm tra. Nhiều cấp ủy tổ chức  các đoàn liên ngành kiểm tra hằng năm theo chuyên đề, định kỳ sơ kết, rút kinh nghiệm như kiểm tra thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ chính trị, Chỉ thị  số 37-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng. Nhằm phát huy vai trò của các cấp hội, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 và Ban Bí thư Trung ương đã ra Quyết định 124-QĐ/TW ngày 2/2/2018 để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát, phản biện xã hội, nhất là giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ đảng viên. Trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát mà nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, của cán bộ lãnh đạo quản lý đối với công tác vận động phụ nữ, công tác Hội phụ nữ có chuyển biến rõ.

          Tuy nhiên việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ còn một số mặt hạn chế. Các cấp ủy đảng chưa chỉ đạo sâu sắc và lãnh đạo cụ thể hóa có hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Sau khi có nghị quyết của Trung ương, quyết định của Bộ chính trị, Ban Bí thư nhưng việc thể chế hóa thành văn bản pháp luật của nhà nước để thực hiện có lĩnh vực còn chậm. Việc tuyên truyền, phổ biến một số luật như Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình chưa sâu rộng nên sự chuyển biến nhận thức chưa tốt. Nhiều vụ việc bạo hành gia đình, ngược đãi phụ nữ vẫn diễn ra nhưng chưa được xử lý nghiêm minh và kịp thời. Việc dự báo xu hướng phát triển của phụ nữ, tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của phụ nữ để đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động phụ nữ có hiệu quả hơn chưa được quan tâm đúng mức. Công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về vận động phụ nữ trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế còn bị xem nhẹ. Việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội viên phụ nữ như việc làm, thu nhập, môi trường, bảo hiểm y tế, điều kiện chăm sóc con nhỏ..v.v... trong một số khu công nghiệp, khu chế xuất, trong doanh nghiệp chưa tốt. Các giải pháp hỗ trợ phụ nữ giảm nghèo, phát triển kinh tế bền vững, thiếu đồng bộ, một số địa phương chưa thực sự tạo điều kiện cho Hội LHPN làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, tham gia cấp ủy các cấp còn thấp thua khá xa so với mục tiêu chỉ tiêu đề ra,chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Một số lĩnh vực, ngành, địa phương nguồn cán bộ nữ hẫng hụt nhưng việc xây dựng quy hoạch để đào tạo, bồi dưỡng chưa được quan tâm đúng mức...

          Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém chủ yếu là do nhận thức của các cấp ủy đảng về bình đẳng giới, về vai trò, vị trí, năng lực của phụ nữ còn hạn chế. Công tác dự báo, nghiên cứu những vấn đề phát sinh liên quan đến công tác vận động phụ nữ, việc kiểm tra đôn đốc thực hiện nghị quyết chưa thường xuyên, kịp thời. Việc thể chế hóa một số quan điểm, đường lối, chính sách  của Đảng về công tác phụ nữ  chưa đầy đủ, đồng bộ. Một số cấp Hội LHPN chưa làm tốt chức năng tham mưu, đề xuất cho cấp ủy lãnh đạo công tác vận động phụ nữ sát với từng thời kỳ và điều kiện cụ thể tốt hơn.

          Trong thời kỳ mới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều tác động đến tư tưởng, nguyện vọng, tâm tư của phụ nữ. Sự phát triển mãnh mẽ của khoa học công nghệ, của kinh tế số, kinh tế tri thức và xu hướng hội nhập, quốc tế hóa nguồn lao động tạo nhiều thuận lợi để phụ nữ phát huy tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp của mình.  Từ sau Đại hội XII, Đảng, Nhà nước đã lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội, phòng chống tham nhũng lãng  phí đạt nhiều kết quả tốt, bước đầu tạo được niềm tin, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân là thuận lợi lớn cho công tác phụ nữ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy về công tác cán bộ là cơ hội để phụ nữ phấn đấu, cống hiến và trưởng thành.

          Bên cạnh thời cơ, thuận lợi là chủ yếu, công tác phụ nữ cũng có nhiều thách thức phải chủ động nắm bắt để lãnh đạo, chỉ đạo sáng tạo, hiệu quả. Trước hết là đấu tranh với tư tưởng định kiến, phân biệt đối xử với lao động nữ trong mọi bộ phận nhân dân kể cả một số chủ doanh nghiệp.... Sự tác động của biến đổi khí hậu, sự bùng nổ dân số, vấn đề môi trường, an toàn thực phẩm, buôn bán, bạo hành phụ nữ .v.v... có ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư phụ nữ, đến công tác vận động phụ nữ. Các thế lực thù địch cũng thường xuyên lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, các phương tiện truyền thông để tuyên truyền, kích động, lợi dụng lực lượng phụ nữ chống phá Đảng, Nhà nước.

          Để đổi mới phương thức lãnh đạo công tác phụ nữ trong tình hình hiện nay,đề nghị Trung ương Đảng nghiên cứu, xem xét, lãnh đạo các cấp ủy Đảng, Nhà nước thực hiện một số vấn đề sau đây:

          Một là, trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, các cấp ủy đảng cần tăng cường việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về công tác phụ nữ.Trên cơ sở đó lý giải cụ thể hóa phương châm, nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” để bổ sung quan điểm, đường lối lãnh đạo, xây dựng chiến lược công tác phụ nữ phù hợp với từng giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam

          Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, kỷ nguyên số hóa, kinh tế tri thức, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng hội nhập quốc tế ... sẽ tác động đến chất lượng, cơ cấu, số lượng lao động nữ, sự chuyển dịch lao động nữ từ lĩnh vực nông nghiệp sang dịch vụ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngày càng tăng. Tình hình tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng, thiên chức làm vợ, làm mẹ ... của phụ nữ cũng có những tác động thay đổi cần phải nắm bắt, dự báo chủ động để lãnh đạo công tác phụ nữ ngày càng có hiệu quả. Để góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ, các cấp ủy đảng,các cơ quan chức năng phải khảo sát, điều tra đánh giá thực chất, thực trạng tình hình phụ nữ trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đội ngũ trí thức, doanh nhân và kể cả nữ kiều bào để có hình thức, phương thức vận động, tập hợp có kết quả hơn. Vấn đề bạo hành gia đình, phân biệt đối xử, bình đẳng giới, tình trạng buôn bán phụ nữ .v.v... diễn ra trong nền kinh tế thị trường cũng cần được nghiên cứu, phân tích khoa học để khắc phục một cách bền vững. Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, tình hình thế giới và trong nước đã có sự thay đổi nhanh chóng nhất là tác động của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế rất cần thiết để Trung ương ban hành một nghị quyết mới nhằm tiếp tục đổi mớ

i công tác phụ nữ trong thời gian tới.

            Hai là, đổi mới nội dung ban hành nghị quyết và phương pháp tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp ủy đảng về công tác phụ nữ đáp ứng yêu cầu thiết thực, hiệu quả

          Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu việc ban hành nghị quyết phải ngắn gọn, súc tích, đánh giá rõ thực trạng, nguyên nhânhạn chế, đặt ra nhiệm vụ, giải pháp phải khả thi, trong đó làm rõ việc cân đối các nguồn lực, hình thức tổ chức học tập quán triệt nghị quyết phải sáng tạo, phải kết hợp tất cả các phương tiện truyền thông để làm chuyển nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Hết sức coi trọng lựa chọn nội dung trọng tâm nhất để truyền đạt cũng như tổ chức các lớp học chặt chẽ và chọn cử báo cáo viên có chất lượng. Tăng cường hình thức đối thoại hỏi đáp, trao đổi để các đối tượng học tập, quán triệt nghị quyết, nhận thức thấu đáo nội dung. Thành công nghị quyết của Đảng quyết định nhất ở khâu tổ chức thực hiện. Trước hết các quan điểm, đường lối mà nghị quyết nêu phải lãnh đạo nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, thành cơ chế, chính sách kịp thời để mỗi người dân thực hiện. Hằng năm và cả nhiệm kỳ nhà nước phải cân đối các nguồn lực và đưa vào kế hoạch để thực hiện. Trên từng lĩnh vực , từng chương trình, đề án triển khai phải phân rõ tổ chức nào thực hiện, thời gian hoàn thành và cán bộ nào chịu trách nhiệm chính. Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện, định kỳ sơ kết, đánh giá thực tế gắn với khen thưởng, biểu dương đảng bộ, đơn vị làm tốt và phê bình, góp ý kịp thời nơi làm kém, chuyển biến chậm. Nếu làm tốt việc nâng cao chất lượng nội dung nghị quyết, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến,học tập nghị quyết và chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết thì công tác phụ nữ sẽ có sự chuyển biến tích cực.

Ba là; Trung ương lãnh đạo Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ nghiên cứu, ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật, các chính sách mới liên quan đến phụ nữ. Đồng thời rà soát các luật các chính sách đã ban hành nhưng còn có những vấn đề bất hợp lý, chưa phù hợp với thực tế khách quan thì bổ sung chặt chẽ, khả thi

Trên cơ sở luật pháp phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông như: báo viết, báo nói, báo hình..v..v.. để mọi người dân đều hiểu pháp luật, làm theo pháp luật. Tăng cường hơn nữa công tác giám sát, kiểm tra việc tổ chức thực hiện pháp luật ở các cấp, các ngành trong đó có luật lao động, luật bảo hiểm, luật bình đẳng giới, luật hôn nhân gia đình, luật phòng chống bạo lực gia đình …v..v… Định kỳ cần sơ kết, đánh giá kết quả thực thi pháp luật ở các cấp, các ngành để khen thưởng, biểu dương những nơi làm tốt,đồng thời xử lý nghiêm minh những người vi phạm. Trong điều kiện ngân sách phục vụ cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật còn hạn chế mà số lượng luật lại rất nhiều, vì thế cần nghiên cứu phương pháp, cách tuyên truyền có hiệu quả nhất phù hợp với từng đối tượng, các tầng lớp nhân dân.

Bốn là, lãnh đạo, chỉ đạo các ngành chức năng liên quan nhiều đến công tác phụ nữ như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị  - xã hội, các ngành tổ chức, nội vụ, giáo dục, y tế, lao động.. v.v.. phối hợp chặt chẽ với Hội LHPN để tham mưu có hiệu quả cho Trung ương về công tác phụ nữ

Theo đánh giá hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo nữ công nhân lao động, làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, trong các doanh nghiệp là khó khăn nhất. Lao động nữ vừa thu nhập thấp lại làm việc trong môi trường ô nhiễm, độc hại, thiếu nhà trẻ, mẫu giáo, khu nội trú, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội không đảm bảo… Hội LHPN cần phối hợp chặt chẽ với Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam để giám sát chủ doanh nghiệp trong việcthực hiện pháp luật, tăng cường chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho hội viên. Việc vận động nữ nông dân, thanh niên, trí thức , doanh nhân, nữ lực lượng vũ trang, nữ công nhân viên chức đòi hỏi rất cao vai trò, trách nhiệm chỉ đạo sâu sát của các cấp Hội. Hiện nay chính sách đối với cán bộ, lao động nữ và hoạt động của các cấp hội còn nhiều bất cập, đòi hỏi các cơ quan chức năng như ngành lao động, tổ chức, nội vụ, giáo dục, y tế, tài chính. V..v phải kịp thời tham mưu chính sách cho Nhà nước để góp phần làm cho công tác phụ nữ có biến chuyển mới.

Năm là, đổi mới và tăng cường hơn nữa việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới

Thực tế từ xưa đến nay nguồn cán bộ nữ của đất nước rất dồi dào, nhiều cán bộ nữ trưởng thành, phát huy tốt vai trò , trách nhiệm trên nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, quốc phòng- an ninh và đối ngoại. Vấn đề quan trọng là sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, người đứng đầu các cấp, các ngành, các đơn vị trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thế nào. Trên cơ sở các chỉ tiêu Nghị quyết 11-NQ/TƯ ngày 27/04/2007 của Bộ Chính trị khoá X về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và tinh thần nghị quyết Hội nghị Trung ương bảy khoá XII về công tác cán bộ để ban hành một số quy định cụ thể về công tác cán bộ nữ cho thời kỳ mới. Trước hết thực hiện quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ cho nhiệm kỳ 2021-2025 đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành, các đơn vị trong cả hệ thống chính trị nhất thiết phải cơ cấu cán bộ nữ hợp lý. Cấp uỷ các cấp phải đạt chỉ tiêu quy định, nếu tỷ lệ cán bộ nữ chưa đạt thì cấp uỷ cấp trên chưa phê duyệt đề án nhân sự, trường hợp thật đặc biệt thì cho phép đại hội bầu thiếu số lượng để khi nào chuẩn bị tốt nhân sự cấp uỷ nữ mới bầu bổ sung. Sau các nhiệm kỳ đại hội cần chỉ đạo sơ kết, đánh giá công tác cán bộ nữ, đảng bộ nào thực hiện tốt thì biểu dương, đảng bộ nào thực hiện không tốt thì phê bình. Nếu các cấp uỷ đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt như vậy, chất lượng và số lượng cán bộ nữ trong cả hệ thống chính trị nhất định sẽ được tăng cường. Ngoài cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý, các cấp ủy Đảng phải tiếp tục lãnh đạo Nhà nước có cơ chế, chính sách để phát huy đội ngũ nữ thí thức, nữ doanh nhân, nữ lao động sản xuất kinh doanh giỏi trên các lĩnh vực để họ đóng góp, cống hiến cho đất nước.

Sáu là, các cấp uỷ đảng tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện việc xây dựng, củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cấp Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới

Trước hết, các cấp ủy đảng phải chủ động có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Hội liên hiệp phụ nữ cho nhiều thời kỳ. Ngoài tiêu chuẩn chung cần phải quan tâm lựa chọn những cán bộ tiêu biểu, có tâm huyết, có kinh nghiệm, có khả năng quy tụ, tập hợp được đông đảo hội viên để tạo nguồn. Từng nhiệm kỳ phân công cấp uỷ viên nữ có năng lực, phẩm chất tốt,có tín nhiệm cao trực tiếp phụ trách công tác Hội và ứng cử tham gia lãnh đạo tổ chức Hội LHPN đồng cấp. Thường xuyên theo dõi , kiểm tra việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội để có định hướng lãnh đạo, chỉ đạo công tác Hội sát đúng với từng thời kỳ cách mạng. Định kỳ đánh giá chất lượng,hiệu quả việc vận động, tập hợp hội viên, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên và nhiệm vụ tham mưu cho cấp uỷ các chủ trương về công tác vận động phụ nữ. Lãnh đạo các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội tăng cường sự phối hợp với Hội LHPN các cấp để thực hiện tốt chính sách về bình đẳng giới, xây dựng, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tốt hơn quyền lợi chính đáng của phụ nữ, đặc biệt là chính sách lao động việc làm, giáo dục- đào tạo, dạy nghề, bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ bà mẹ trẻ em, hôn nhân gia đình..v..v…

 

 

                                                                                    Nguyễn Thế Trung

                                                                                    Ủy viên Hội đồng Lý luận TW

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết