Thứ Bảy, ngày 07 tháng 12 năm 2024

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật (phần 1)

Ngày phát hành: 01/10/2019 Lượt xem 4217


I. NHẬN THỨC VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC, XÂY DỰNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

1. Tầm quan trọng và tính cấp thiết :

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, đặc biệt là quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân”. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta ngày càng coi trọng hơn đến đổi mới phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng. Phương thức lãnh đạo - phương thức cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước từng bước được đổi mới, có những bước tiến quan trọng, vừa bảo đảm nâng cao hơn vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn nguyên tắc pháp quyền, tính chủ động, sáng tạo của Nhà nước và vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, Đảng ta đồng thời cũng chỉ rõ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói chung, với Nhà nước nói riêng, trên một số mặt còn chậm đổi mới và lúng túng. Việc phân định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện giữa cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước còn có những nội dung chưa cụ thể, rõ ràng. Chậm ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước. Tình trạng Đảng bao biện, làm thay, lấn sân công việc của chính quyền, can thiệp quá sâu vào công việc của chính quyền…; ngược lại, cũng vẫn còn tình trạng cấp uỷ buông lỏng lãnh đạo chính quyền, không phát huy được tốt vai trò lãnh đạo, hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo chưa cao. Cả phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, phương thức quản lý của Nhà nước còn mang không ít dấu ấn của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Việc tiếp tục đẩy mạnh đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, trong đó có vấn đề lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động càng trở nên bức thiết hơn trước yêu cầu của giai đoạn mới. Chính vì vậy, Đại hội XII của Đảng đã xác định phải “Nâng cao hiệu lực thực hiện và tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với Nhà nước[1]. Để nhận thức rõ nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần nhận thức rõ vấn đề Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền.

2. Đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền

Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “Nghiên cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách cơ bản, toàn diện[2]. Đại hội XI tiếp tục xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền[3].

Khái niệm “Đảng lãnh đạo” được hiểu là Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, tuyên truyền vận động nhân dân tin theo và Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện. Các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện vai trò tiền phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân để giành được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân đối với Đảng, đi theo Đảng. Khái niệm “Đảng lãnh đạo” thể hiện các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là chỉ sự tác động, ảnh hưởng của Đảng bằng việc xác định Cương lĩnh, đường lối, mục tiêu chính trị đúng đắn đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng cơ bản của đông đảo quần chúng nhân dân; các tổ chức đảng và đảng viên trở thành lực lượng tiền phong vận động, lãnh đạo nhân dân thực hiện.

Thứ hai, “Đảng lãnh đạo” không phải dựa vào quyền lực (hiểu theo nghĩa cưỡng bức, ép buộc) tác động đến đối tượng lãnh đạo là quần chúng nhân dân; mà vận động quần chúng nhân dân ủng hộ, đi theo Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân là sự vận động mang tính thuyết phục để nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng.

Thứ ba, “Đảng lãnh đạo” được hiểu như sự suy tôn của quần chúng nhân dân, thừa nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo của mình.

Thứ tư, Đảng phải có năng lực thực tiễn tập hợp, tổ chức quần chúng bằng những hình thức thích hợp để tạo nên sức mạnh thực hiện đường lối của Đảng.

Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ rằng: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[4]. Như vậy trong khái niệm “Đảng lãnh đạo” chứa đựng nội dung uy tín - tín nhiệm - thừa nhận - ủng hộ - đi theo của quần chúng nhân dân đối với Đảng, khi Đảng có cương lĩnh, đường lối đúng thể hiện được ý chí, nguyện vọng và lợi ích của đai đa số nhân dân. Trong bản chất, sự lãnh đạo của Đảng không có quyền lực áp đặt (nhất là quyền lực nhà nước, quyền lực pháp luật); hay nói đúng hơn Đảng lãnh đạo bằng “quyền lực mềm”. Với đường lối đúng đắn, Đảng có thể đạt được vai trò lãnh đạo đối với các tầng lớp nhân dân ngay cả khi chưa giành được chính quyền; khi cầm quyền, thì đường lối, chủ trương, định hướng chính sách phát triển đất nước đúng đắn là cơ sở nền tảng đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng.

 Đảng cầm quyền : Cầm quyền là chủ thể lãnh đạo “nắm chính quyền”, trực tiếp lãnh đạo chính quyền. Đảng cầm quyền là Đảng được nhân dân giao (ủy thác) qua bầu cử, hay giành được bằng cách nào đó, quyền thành lập và lãnh đạo Nhà nước (Chính phủ). Như vậy, khi Đảng được cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thể hiện qua sự tín nhiệm của nhân dân trao cho quyền thành lập và lãnh đạo Nhà nước; đồng thời Đảng thực hiện sự cầm quyền bằng cách thông qua nhà nước - bằng con đường pháp luật (pháp quyền) mà nhân dân ủy quyền cho Nhà nước để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Như vậy là Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước (Chính phủ), thông qua Nhà nước để cụ thể hóa, thể chế hóa, kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi các đường lối, chính sách của Đảng trên toàn xã hội. Có nghĩa là Đảng trực tiếp “có quyền lực nhà nước”, thông qua quyền lực nhà nước để thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của mình và qua Nhà nước để thực hiện chúng trong cuộc sống. Các quyết định của đảng (đường lối, chủ trương, chính sách) thể hiện qua “danh nghĩa” quyền lực nhà nước (quyền lực do người dân uỷ nhiệm), thông qua quá trình thể chế hóa dân chủ đã được pháp luật quy định, chứ không phải Đảng đưa ra các quyết định nhân danh Đảng buộc Nhà nước và xã hội phải tuân theo[5]. Khái niệm “Đảng cầm quyền” còn được hiểu là thông qua các tổ chức đảng và những người đảng viên đại diện của đảng trong bộ máy nhà nước để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Như vậy, Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực nhà nước. Tức Đảng có quyền lực chính trị bằng việc “nắm chính quyền” hay “nắm quyền lực nhà nước”. Trong đó bản chất lãnh đạo đúng đắn, khoa học, “tất cả vì lợi ích của nhân dân” phải là nền tảng cốt lõi của sự cầm quyền của Đảng.

Như vậy, “Đảng cầm quyền” là khái niệm có những nội dung liên quan mật thiết đến “Đảng lãnh đạo”, nhưng có những nội dung khác với “Đảng lãnh đạo”. Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực Nhà nước, còn “Đảng lãnh đạo” không tất yếu gắn với quyền lực Nhà nước. Thực tiễn thế giới cho thấy, khi cầm quyền mà Đảng không đề ra được đường lối, chủ trương, định hướng chính sách phát triển đúng đắn thể hiện ý chí nguyện vọng và lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân, được đa số nhân dân tin theo; nhưng lại chủ yếu đề cao chức năng cầm quyền, coi và sử dụng Nhà nước như một công cụ để “quản lý” xã hội, hạ thấp chức năng lãnh đạo của Đảng, khi đó thực chất Đảng trở thành Đảng - Nhà nước (trường hợp này trên thế giới còn gọi là “Đảng trị”), sẽ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đổ vỡ, như đã xẩy ra ở một số nước trên thế giới.

 3. Phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo (tác động lên) Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội nhằm hiện thực hóa Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối, quan điểm, mục tiêu của Đảng trong thực tiễn. Phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những điểm giống nhau và khác nhau. Điểm giống nhau chủ yếu ở chỗ: Sự lãnh đạo và sự cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội đều nhằm hướng tới thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chính sách, mục tiêu do Đảng đề ra. Điểm khác nhau chủ yếu ở chỗ: Phương thức lãnh đạo của Đảng tập trung chủ yếu ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu thể hiện trong Cương lĩnh, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân tin tưởng, tự nguyện làm theo, thực hiện thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng. Còn phương thức cầm quyền của Đảng tập trung chủ yếu ở thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước để cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế của Nhà nước và lãnh đạo - chỉ đạo tổ chức thực hiện bằng hệ thống pháp luật nhà nước nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách mục tiêu của Đảng đề ra. Như vậy, khi Đảng cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng phải là sự kế tiếp, gắn kết hữu cơ - biện chứng với phương thức lãnh đạo. Là một tổ chức nằm trong hệ thống chính trị, hơn nữa lại là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng có quyền lực chính trị, nhưng Đảng không trực tiếp có quyền lực Nhà nước. Do đó, không được lẫn lộn giữa “quyền lực” của Đảng và quyền lực Nhà nước. Sự khác nhau giữa “quyền lực” của Đảng và quyền lực Nhà nước trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ sự khác nhau về chức năng của Đảng và chức năng của Nhà nước. Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và xã hội, còn Nhà nước là bộ máy quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, “quyền lực” của Đảng chủ yếu dựa trên uy tín chính trị mang lại, còn quyền lực của Nhà nước chủ yếu dựa trên pháp luật, bộ máy cưỡng chế, quản lý - quản trị xã hội, bộ máy hành chính công quyền. Nhận thức đúng chức năng lãnh đạo và chức năng cầm quyền của Đảng, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là cơ sở để xác lập phương thức lãnh đạo và phương thức cần quyền đúng đắn của Đảng, trong đó có vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền và xây dựng hệ thống pháp luât ở nước ta trong giai đoạn mới. Đồng chí Lê Duẩn đã có những luận điểm rất quan trọng về mối quan hệ này : “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, “Không thể buông lỏng lãnh đạo các cơ quan chính quyền, song cũng không thể bao biện công việc của chính quyền”, “Việc xây dựng Đảng phải gắn với xây dựng chính quyền Nhà nước, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý của nhà nước”, “Đảng không thể nào thực hiện được sự lãnh đạo của mình đối với xã hội mà không thông qua chính quyền nhà nước”. Sức mạnh của Đảng cầm quyền và sức chiến đấu của nó biểu hiện chính là ở hiệu lực và sức mạnh của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng[6]. Như vậy, đòi hỏi phải xử lý một cách rất khoa học - rất thực tiễn giữa hai vấn đề “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, đồng thời “chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”, “đối lập giữa việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính quyền nhà nước”. Đó là những luận điểm rất quan trọng gợi mở cho việc nhận thức đúng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị. Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, đòi hỏi phải đổi mới phương thức lãnh đạo - phương thức cầm quyền của Đảng đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

4. Nội dung các phương thức lãnh đạo của Đảng : Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 2011 đã khảng định : “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong Cương lĩnh đã chỉ rõ những nội dung cơ bản các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội[7]. Đồng thời khi Đảng cần quyền, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền thì một phương thức lãnh đạo rất quan trọng và cơ bản của Đảng đối với Nhà nước cần được nhấn mạnh là “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”[8]. Tất cả các phương thức lãnh đạo của Đảng nêu trên đều rất quan trọng và có quan hệ rất biện chứng với nhau, đều có liên quan đến vấn đề xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật; tuy nhiên, liên quan trực tiếp nhất, quan trọng nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là: Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn, lãnh đạo bằng Nhà nước - thông qua Nhà nước, thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo Nhà nước và thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội chủ yếu bằng thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đất nước của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế, chính sách để đưa vào cuộc sống; lãnh đạo thực hiện thông qua hệ thống pháp luật của Nhà nước bằng sự quản lý của Nhà nước. Tức là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo con đường pháp quyền hóa - cầm quyền. Phương thức lãnh đạo đó trên thực tế là sự quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự “Lãnh đạo đúng” của Đảng, đó là Đảng : “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng”, “Phải tổ chức thi hành cho đúng”, và “phải tổ chức kiểm soát đúng”. Để có “ba đúng” đó Đảng đều phải dựa vào dân, vì dân.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT

1. Cơ sở chính trị - xã hội và cơ sở pháp lý đổi mới phương thức lãng đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật :

 Những vần đề đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng nêu trên đều liên quan mật thiết đối với vần đề Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, cần cần xác định rõ hơn cơ sở chính trị - xã hội, cơ sở pháp lý của quá trình này. Trong Cương lĩnh của Đảng và trong Hiến pháp 2013 đã nêu rõ vị trí và vai trò lãng đạo của Đảng. Trong điều 4 của Hiến pháp 2013 đã hiến định nội dung quan trọng về Đảng là :  “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều đó nói lên : Đảng lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền với Hiến pháp và hệ thống pháp luật không có mục tiêu nào khác hơn, cao hơn là vì mục đích tối thượng xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, vì lợi ích của nhân dân, của cả dân tộc; Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội nhưng Đảng không đứng trên Nhà nước, mà phải đề cao vai trò quản lý - quản trị phát triển xã hội bằng pháp quyền; Đảng lãng đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật nhưng Đảng không đứng ngoài pháp luật, phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Đảng chịu trách nhiệm trước Nhân dân về sự lãnh đạo của mình. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải quán triệt sâu sắc các nguyên tắc này.  

2. Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có thể được hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng là bao hàm lãnh đạo toàn bộ các quá trình: xây dựng hệ thống các luật, pháp lệnh, các quy phạm pháp luật khác và các cơ chế chính sách lớn; lãnh đạo tổ chức thực hiện các luật, pháp lệnh, các quy phạm pháp luật khác và các cơ chế chính sách trong thực tiễn; lãnh đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện; lãnh đạo quá trình sửa đổi, bồ sung luật pháp và cơ chế, chính sách. Đồng thời theo nghĩa rộng, còn bao hàm Đảng lãnh đạo đồng bộ các quá trình lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo nghĩa hẹp, chỉ bao hàm nghĩa Đảng lãnh đạo quá trình xây dựng hệ thống các luật, pháp lệnh, các quy phạm pháp luật khác (và có thể bao gồm cả các định hướng cơ chế chính sách lớn).

Xét về lĩnh vực pháp luật, Đảng phải lãnh đạo xây dựng đồng bộ các hệ thống pháp luật sau : i) - Hệ thống pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền (cả về lập pháp, hành pháp, tư pháp); ii) - Hệ thống pháp luật về phát triển kinh tế, xã hội; iii) - Hệ thống pháp luật về bảo vệ tổ quốc; iv) - Hệ thống pháp luật về quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, cùng với việc lãnh đạo xây dựng đồng bộ các hệ thống pháp luật như nêu trên, theo tinh thần của Cương lĩnh của Đảng và Hiếp pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền (như điều 4 của Hiếp pháp 2013 đã hiến định), để Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật, thì bản thân Đảng phải tự xây dựng được “hệ thống pháp luật(hàm nghĩa mang tính chế định, tính quy tắc, quy chế) về sự hoạt động của nội bộ Đảng và về thể chế, cơ chế Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo các nguyên tắc pháp quyền như điều 4 của Hiếp pháp 2013 đã hiến định. “Hệ thống pháp luật của Đảng” phải được chế định rõ trong Điều lệ Đảng (có thể coi đó là Bộ Luật gốc về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, trách nhiệm giải trình và cơ chế hoạt động - lãnh đạo của Đảng, các tổ chức đảng, các cấp ủy đảng, các cán bộ và đảng viên) và trong các quy chế, quy định cụ thể về hoạt động của Đảng. Đó là nền tảng pháp lý để đảm bảo Đảng “lãnh đạo đúng”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.  

3. Những vấn đề và yêu cầu đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn mới

Nhìn nhận một cách khái quát, trong những năm qua, công tác xây dựng pháp luật đã có những bước tiến quan trọng : Hệ thống pháp luật được ban hành tương đối đầy đủ, liên tục được hoàn thiện, điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội; tính tối cao của Hiến pháp và tính pháp quyền trong các đạo luật về quản lý nhà nước và xã hội ngày càng được coi trọng. Cùng với hoạt động lập hiến, hoạt động lập pháp ngày càng được chú trọng. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và trong tổ chức thực hiện đã có những bước tiến nhất định. Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động lập pháp. Chính phủ đã cụ thể hóa, thể chế hóa hiều chủ trương, đường lối của Đảng thành các cơ chế, chính sách quản lý và phát triển đất nước.

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất, vẫn còn cồng kềnh, phức tạp, tính ổn định chưa cao; còn không ít tình trạng có nhiều văn bản chồng chéo, mâu thuẫn gây trở ngại đáng kể cho việc thực thi trong cuộc sống. Việc bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật đang là thách thức lớn. Một số luật cần cụ thể hóa Hiến pháp chưa được ban hành kịp thời. Một số luật được ban hành nhưng chất lượng chưa cao, chưa sát với cuộc sống, tính khả thi thấp, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần (cá biệt có trường hợp luật được ban hành rồi, chưa đến thời điểm có hiệu lực đã phải sửa). Một số luật còn nhiều quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể nên khi có hiệu lực chưa được thi hành ngay mà phải chờ văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn. Số văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật được phát hiện còn nhiều[9]. Cơ chế thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về giám định tư pháp còn thiếu hiệu quả; hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật còn nhiều mặt bất cập, chưa nghiêm. Thực trạng xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật cho thấy :

- Sự lãnh đạo, phương thức lãnh của Đảng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng pháp luật còn những hạn chế, bất cập, chưa phù hợp; trong một số trường hợp chưa phân định rõ vai trò lãng đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước theo các nguyên tắc pháp quyền. Tình trạng nghị quyết ban hành nhiều nhưng chậm được cụ thể hóa, thể chế hóa; một số nghị quyết có nội dung thiếu tính khả thi dẫn đến khó cụ thể hóa, thể chế hóa. Việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện một số nghị quyết chưa kịp thời, chất lượng không cao.

- Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan đơn vị trực tiếp hoặc liên quan đến quá trình xây dựng pháp luật chưa được quy định thật sự khoa học, hợp lý, chặt chẽ, rõ ràng; việc thực hiện các quy định này trong không ít trường hợp chưa nghiêm túc, trách nhiệm giải trình không cao.

- Quy trình, quy chế xây dựng pháp luật còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu công khai, minh bạch; vẫn còn tác động của lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ ngành; chưa quán triệt và thực thi nghiên túc, đầy đủ các nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng pháp luật.

- Công tác nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn trong công tác xây dựng pháp luật chưa được coi trọng đúng mức, tổ chức thực hiện chưa khoa học, chưa coi trọng đầy đủ thực tiễn khách quan của sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, chất lượng không cao, dẫn đến tình trạng có các quy định pháp luật xa rời thực tiễn, không phù hợp với thực tiễn, không đáp ứng với yêu cầu phát triển.

- Trên một số mặt hoạt động lập pháp, giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước của Quốc hội vẫn chưa đáp ứng sự kỳ vọng của nhân dân, tính chuyên nghiệp còn hạn chế. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện văn bản pháp luật ở địa phương vẫn còn nhiều bất cập, như cụ thể hóa và thể chế hóa còn chậm và chưa phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương, còn có không ít sai phạm.

Cùng với những bất cập trên, thực tiễn phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế đang đặt ra những vấn đề và yêu cầu mới tác động lớn đến quá trình xây dựng pháp luật của nước ta trong giai đoạn mới, đó là :

- Đất nước đứng trước yêu cầu chuyển mạnh sang mô hình phát triển theo chiều sâu, dựa vào nguồn lực con người chất lượng cao - trình độ cao, dựa chủ yếu vào đổi mới - sáng tạo, khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao, đón nhận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc. Điều này đặt ra yêu cầu phải xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển đất nước cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường; không phải chỉ là hoàn thiện thể chế kinh tế.

- Tình hình thế giới và khu vực đã và sẽ thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường cả về kinh tế, chính trị, quân sự, đối ngoại, văn hóa, khoa học - công nghệ, xã hội, môi trường…, chứa đựng nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng tiềm ẩm rất nhiều thách thức lớn đối với nước ta. Điều này tác động trực tiếp đến xây dựng thể chế, hệ thống luật pháp nước ta trong giai đoạn mới.

- Nước ta đã và sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa hợp tác và hội nhập quốc tế. Độ mở của nền kinh tế nước ta hiện nay thuộc loại lớn nhất thế giới, đã lên tới 200% GDP, lại phụ thuộc rất lớn vào FDI, do đó nền kinh tế Việt Nam đang trở nên dễ bị tổn thương và rất nhạy cảm với các biến động từ bên ngoài. Đến nay Việt Nam đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do với các nước, trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (như CPTPP, EV-FTA…). Trong các hiệp định này chứa đựng những thể chế, chế định, tiêu chuẩn rất cao cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, về xuất xứ hành hóa, về chất lượng sản phẩm, về hành rào kỹ thuật, về đầu tư, về sở hữu trí tuệ, về doanh nghiệp nhà nước, về đầu tư công, về quan hệ lao động…Đòi hỏi nước ta phải “vượt lên chính mình” để xây dựng, đổi mới và hoàn thiện hệ thống thể chế, pháp luật đáp ứng có hiệu quả với yêu cầu hội nhập quốc tế ở trình độ cao.

Những vấn đề và yêu cầu nêu trên đặt ra trước Đảng và Nhà nước ta về nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp vừa đảm bảo sự ổn định - bền vững vừa phải tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy phát triển nhanh, thích ứng kịp thời (thậm chí phải “đón trước”) những thay đổi nhanh của thế giới và trong nước, để tạo được động lực phát triển nhanh - bền vững đất nước, không rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Đây là một yêu cầu rất cao, rất khó khăn, nhưng rất hệ trọng đối với xây dựng thể chế phát triển (trong đó có hệ thống luật pháp) của đất nước trong giai đoạn mới.

(Còn tiếp)

                                            PGS.TS Trần Quốc Toản

                                             Chuyên gia cao cấp,

                                           Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG, HN, 2016, tr.214

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 306.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 255.

          [4] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 3, tr. 139.

          [5] Xem: Nguyễn Văn Huyên: Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.36-38.

[6] Đồng chí Lê Duẩn đã có những ý kiến rất sâu sắc về sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Lê Duẩn, Toàn tập, t. II :

        -  “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhân tố quyết định sức mạnh và hiệu quả quản lý Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước ngày càng vững mạnh, hoạt động có hiệu lực là điều kiện đầu tiên bảo đảm hoàn thành mọi nhiệm vụ do Đảng đề ra, là một biện pháp cơ bản đề tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội” (tr. 1274-1275).

- Vừa nâng cao tác dụng lãng đạo của tổ chức Đảng, vừa phát huy đầy đủ quyền lực và hiệu quả quản lý của cơ quan Nhà nước, đó là thức đo trình độ và năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền”. (tr. 1275-1276)

Lê Duẩn và cách mạng Việt Nam , NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007 :

       - “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng gắn liền với tăng cường vai trò và hiệu lực của chính quyền” (tr.696).

       - “Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng đã trở thành người lãnh đạo thực tế của của toàn xã hội…Đảng không thể nào thực hiện được sự lãnh đạo của mình đối với xã hội mà không thông qua chính quyền nhà nước” (tr. 697). (Lê Duẩn: Về xây dựng Đảng, NXB, Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.236)

       - “Đảng cần quyền thì phải không ngừng làm cho chính quyền vững mạnh” (tr. 697).

       - “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị bằng đường lối đúng đắn; bằng phát huy vai trò của các cơ quan chính quyền và các tổ chức quần chúng” (tr. 699);

       - “Hiệu lực của bộ máy nhà nước chính là biểu hiện năng lực lãnh đạo của Đảng và thông qua bộ máy nhà nước”  (tr.708).

 

        [7] 1) Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.; 2) Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; 3) Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị; 4) Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu; 5) Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

 

      [8] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, HN, 2011, tr. 144

        [9]  Theo báo cáo của Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ, cho biết năm 2017 có tới 5.639 văn bản trái pháp luật được các Bộ, cơ quan ngang bộ và địa phương ban hành. Trong đó có 1.236 văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật về thẩm quyền ban hành và nội dung; 3.829 văn bản quy phạm pháp luật sai sót về căn cứ pháp lý, thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản; 574 văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật nhưng có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản trái pháp luật vừa làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, vừa ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Một số văn bản có nội dung trái luật đưa vào thực thi gây thiệt hại về kinh tế, thời gian, công sức của người dân, doanh nghiệp, phát sinh khiếu nại, khiếu kiện.

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết