Thứ Ba, ngày 03 tháng 06 năm 2025

Đổi mới tư duy, tháo gỡ điểm nghẽn phát triển kinh tế tư nhân

Ngày phát hành: 30/05/2025 Lượt xem 825

Nghị quyết 68 của Ban chấp hành Trung ương được ban hành 4/5/2025, khẳng định: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân – một trong ba trụ ba trụ cột chính của nền kinh tế (cùng với đầu tư công và thu hút FDI) - là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh hiện nay. Trong gần 40 năm đổi mới (1986-2025), khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp không nhỏ trong phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân vẫn đang đối diện với những rào cản về thể chế, chính sách dẫn đến kìm hãm sự phát triển của khu vực cũng như phát huy nội lực của nền kinh tế. Để tạo xung lực cho sự bứt tốc phát triển 2 con số cần có đổi mới trong tư duy cũng như đột phá trong tổ chức thực hiện phát huy tiềm năng kinh tế tư nhân.

 

 

1. Vị thế kinh tế tư nhân trong nền nền kinh tế

Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng XIV xác định, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng". Sau gần 40 năm đổi mới (1986-2025), Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu kinh tế đều có sự đóng góp của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân được khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, huy động được nguồn lực lớn, tạo nhiều việc làm cho người lao động, bước đầu hình thành một số doanh nghiệp tư nhân lớn, ngày càng thể hiện được vai trò là động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân đã phát triển thành một lực lượng kinh tế góp phần không nhỏ đối với kinh tế Việt Nam.

 

Với hơn 940.000 doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh (2024), kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách Nhà nước, xấp xỉ 82% tổng số lao động và gần 60% tổng đầu tư toàn xã hội. Việt Nam phấn đấu đến năm 2030 có khoảng 1,5-2 triệu doanh nghiệp. Thu NSNN từ sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn 15%/năm, cao gấp hai lần khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi nộp NSNN từ sản xuất, kinh doanh của khu vực doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng giảm.

 

Bảng 1: Đóng góp của kinh tế tư nhân trong tổng đầu tư toàn xã hội

 

Khu vực

Tổng đầu tư toàn XH (%)

Trong tổng 174 tỷ VNĐ (2025)

Kinh tế tư nhân

56

96

Kinh tế nhà nước

28

36

Khu vực FDI

16

28

Đầu tư khác

 

14

Nguồn: Phát triển kinh tế tư nhân: đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng,TC quản lý nhà nước (Journal of State Management 3/2025)

 

Khu vực kinh tế tư nhân trở thành lực lượng hùng hậu đóng góp lớn nhất vào đầu tư và tăng trưởng GDP của Việt Nam, gấp đôi khu vực FDI, gấp rưỡi khu vực kinh tế nhà nước. Khu vực kinh tế tư nhân cũng tạo ra 45 triệu việc làm. Sự lớn mạnh của khu vực kinh tế tư nhân được thể hiện rất rõ khi Việt Nam ngày càng có nhiều tập đoàn lớn tham gia đầu tư vào các công trình hạ tầng quy mô lớn, những dự án sân bay, cảng biển, đường cao tốc hoặc những lĩnh vực khó như hạ tầng năng lượng, sản xuất ô-tô, điện thoại thông minh. Nguồn vốn từ khu vực kinh tế tư nhân đóng góp lớn cho phát triển kinh tế-xã hội, tăng từ 51,3% năm 2016 lên đến 59,5% năm 2021. Một số doanh nghiệp tư nhân có tiềm lực đã đóng vai trò trụ cột, góp sức gánh vác những trọng trách lớn, đồng thời tạo “đòn bẩy” để đưa kinh tế nhanh chóng phục hồi, bứt phá sau đại dịch và đang từng bước kinh doanh đa ngành để trở thành những doanh nghiệp quan trọng trong nền kinh tế.

 

Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã chiếm lĩnh trong hầu hết các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, như công nghiệp chế biến chế tạo, xây dựng, sản xuất và lắp ráp ô tô, vận tải, hàng không, tài chính - ngân hàng, bất động sản, công nghệ thông tin, nông nghiệp… Khu vực kinh tế tư nhân đã có những thương hiệu mạnh, những doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn cả về vốn và công nghệ cao, góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như các tập đoàn Vingroup, Sun Group, Trường Hải Thaco, Hòa Phát, Masan, FPT, Vinamilk, BRG, T&T Group, Vietjet, TH… Trong đó, có những thương hiệu không những được ghi nhận ở thị trường trong nước mà ở cả thị trường khu vực và quốc tế.

Mặc dù đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa thật sự được cải thiện, còn hạn chế nhiều mặt, chưa sẵn sàng trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Trình độ công nghệ, quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của số doanh nghiệp còn thấp, cơ cấu ngành nghề bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác. Khu vực kinh tế tư nhân dù lớn về số lượng nhưng chất lượng hạn chế. Xét về khía cạnh phát triển bền vững, vẫn còn khá nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến trách nhiệm xã hội và môi trường. Sau đại dịch Covid-19, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đều gặp nhiều khó khăn khiến tốc độ tăng trưởng bị chững lại. Giai đoạn 2020-2024 mỗi năm có khoảng 120 nghìn-140 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, nhưng tỷ lệ doanh nghiệp giải thể, dừng hoạt động cũng chiếm tới 60%.

 

Bảng 2: Hoạt động của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam 2019-2024

 

Đóng góp vào tăng trưởng GDP của khu vực tư nhân (%)

 

2019

2020

2021

2022

2023

2024

KTNN

20,59

20,66

21,18

 

 

 

KT ngoài NN

50,60

50,50

50,04

 

 

 

KTTN

46,3

46,5

46,42

49,32

46

50

 

 

Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam rút/ gia nhập thị trường

Rút khỏi TT

89.282

101.719

119.282

143.727

172.600

197.900

Gia nhập TT

177.560

179.037

159.955

208.368

217.700

233.400

Nguồn: Nguyen Thi Luyen (2023), Những điểm nhấn trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam giai đoạn đổi mới (từ năm1986 tới nay) (dangcongsan.org.vn) và Cục thống kê Việt Nam, 2025

 

2. Điểm nghẽn trong phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam

 

Mặc dù kinh tế tư nhân đang khẳng định vị thế hàng đầu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều khó khăn về cơ chế, chính sách cũng như năng lực nội tại của chính các doanh nghiệp. Tỷ trọng nguồn tài chính tư nhân trong nước trong tổng các nguồn lực tài chính cho phát triển của Việt Nam tương đối thấp và tăng chậm so với các nước ASEAN khác. Đầu tư từ khu vực tư nhân trong nước của Việt Nam tăng gấp đôi năm 2015 so với năm 2002 nhưng chỉ chiếm 40% tổng tài chính cho phát triển. Tỷ trọng nguồn tài chính tư nhân của Việt Nam trong tổng đầu tư ở Việt Nam thấp hơn nhiều so với Lào, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Tỷ lệ đầu tư tư nhân trên đầu người của Việt Nam là 490 USD so với mức trung bình của các nước ASEAN là 690 USD, thuộc nhóm thấp nhất ở khu vực ASEAN. Nguyên nhân là do cơ cấu kinh tế của Việt Nam với đặc điểm là các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân có quy mô nhỏ hơn các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước, các doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu và doanh nghiệp FDI. Những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, đó là:

 

Thứ nhất, tình trạng thiếu các doanh nghiệp vừa và lớn là một trở ngại lớn của kinh tế tư nhân Việt Nam trong bối cảnh hội nhập.

 

 Năm 2024, trong số 900 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, số doanh nghiệp lớn (chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước) chỉ chiếm khoảng 2%, doanh nghiệp vừa chiếm 2%, còn lại 96% là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, với đa số vẫn là kinh tế hộ kinh doanh (chiếm 94%). Vốn đầu tư chính thức trung bình của một doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân chỉ đạt 43,5 triệu đồng, trong khi doanh nghiệp khu vực nhà nước là 5,56 tỷ đồng và doanh nghiệp khụ vực có vốn đầu tư nước ngoài là 421,9 triệu đồng trên mỗi doanh nghiệp. Về quy mô lao động, trung bình mỗi doanh nghiệp khu vực tư nhân có 12,8 lao động, trong khi doanh nghiệp khu vực nhà nước là 512,2 lao động và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 224 lao động.

 

Quy mô vốn hóa trung bình trên thị trường của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là 186 triệu USD/Công ty, thấp hơn rất nhiều so với mức vốn hóa trung bình của các nước như: Philippines là 1,2 tỷ USD/Công ty, Singapore là 1,07 tỷ USD/Công ty, Thái Lan là 835 triệu USD/Công ty, Indonesia là 809 triệu USD/Công ty và Malaysia là 553 triệu USD/Công ty.

 

Thứ hai, tình trạng không chính thức của khu vực kinh tế tư nhân còn chiếm tỷ lệ cao.

 

 Trong khu vực kinh tế tư nhân, các hộ kinh doanh nhỏ chiếm tỷ lệ lớn và không được coi là một loại hình doanh nghiệp, là khu vực không chính thức. Khu vực không chính thức tăng, tạo ra những hệ lụy không nhỏ cho khu vực kinh tế tư nhân và nền kinh tế Việt Nam. Một là, giảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Hộ kinh doanh không chính thức của khu vực kinh tế tư nhân chiếm 88,7% (2021) số lượng cơ sở sản xuất nhưng chỉ đóng góp vào ngân sách nhà nước 1,56%, tương đương 638 triệu USD, trong khi, hộ doanh nghiệp chính thức chỉ chiếm 11,3% về số lượng doanh nghiệp nhưng đóng góp 15,4% vào ngân sách nhà nước, tương đương 6,3 tỷ USD; Hai là, an sinh xã hội bị ảnh hưởng. Với hơn 5,1 triệu cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh đang trực tiếp tạo công ăn việc làm cho hơn 38,28 triệu lao động. Tuy nhiên, do những quy định chưa chặt chẽ đối với hộ kinh doanh nên phần lớn cơ sở sản xuất kinh doanh của các hộ không tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động, buộc người lao động phải chi trả các khoản khi ốm đau, bệnh tật, làm ảnh hưởng rất lớn đến an sinh xã hội; Ba là, tạo tâm thế ỷ lại trong đội ngũ doanh nhân. Hệ lụy là quy mô doanh nghiệp tư nhân Việt Nam không lớn và không muốn lớn để hưởng lợi từ chính sách quản lý lỏng lẻo của nhà nước. Tâm thế không lớn và không muốn lớn của đội ngũ doanh nhân đã làm cho quy mô của doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh với các nước trong quá trình hội nhập.

 

Thứ ba, chất lượng tăng trưởng và tỷ suất lợi nhuận khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam thấp.

 

 Quy mô nhỏ và tính không chính thức cao đã làm hạn chế khả năng tận dụng các lợi thế có được nhờ quy mô kinh tế, chuyên môn hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật, tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, công nghệ và đổi mới sáng tạo của khu vực kinh tế tư nhân. Những hạn chế này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tăng trưởng, làm cho tăng trưởng kinh tế của khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc nhiều vào các ngành khai thác khoáng sản và tăng trưởng tín dụng. Phần lớn sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp ngoài nhà nước là gia công lắp ráp, sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Sự hạn chế về công nghệ và năng lực đổi mới, sáng tạo đã làm cho doanh nghiệp tư nhân Việt Nam ít có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp phụ trợ cho các tập đoàn kinh tế lớn. Những hạn chế này cũng được thể hiện khi chỉ số ICOR của khu vực kinh tư nhân đang có dấu hiệu gia tăng so với trước, từ 4,30 năm 2010, lên 5,44 năm 2015, tiếp tục tăng lên 16,21 năm 2020 và đạt mức 23,40 năm 2021.

 

Thứ tư, mối liên kết của khu vực kinh tế tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài rất hạn chế.

 

 Trong ngành Công nghiệp ô tô, Việt Nam có 20 doanh nghiệp lắp ráp lớn đang hoạt động, nhưng chỉ có 81 nhà cung cấp loại 1 và 145 nhà cung cấp loại 2 và 3. Trong khi đó, Thái Lan chỉ có 16 nhà lắp ráp ô tô lớn nhưng lại có đến 690 nhà cung cấp loại 1 và 1.700 nhà cung cấp loại 2 và 3. Tình trạng hoạt động độc lập, đơn lẻ của khu vực kinh tế tư nhân đã làm cho khả năng tiếp cận thị trường và quá trình tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của khu vực kinh tế tư nhân vốn đã hạn chế do quy mô nhỏ nay càng trở nên khó hơn. Hậu quả là tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước trong tổng giá trị xuất khẩu giảm mạnh từ 45,8% năm 2010, xuống còn 28,5% năm 2016, Tvà giảm còn 18,3% năm 2021. Những hạn chế này đã và đang kìm hãm sự phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam, làm cho kinh tế tư nhân khó trở thành động lực thực sự của nền kinh tế.

 

Thứ năm, năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân còn rất thấp so với các khu vực khác và so với mức chung của xã hội.

 

Năm 2021, năng suất lao động của khu vực tư nhân chỉ bằng 24,4% so với khu vực nhà nước, bằng 28,2% so với khu vực FDI và bằng 60,4% so với năng suất lao động chung của nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của kinh tế tư nhân chưa cao, năng suất lao động xã hội khá thấp. Bình quân giai đoạn 2016-2020, số doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh chiếm đến 96,7% tổng số doanh nghiệp, nhưng năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân thấp nhất, chỉ bằng 29,1% năng suất lao động khu vực FDI và bằng 24,6% năng suất lao động khu vực kinh tế nhà nước.

Hiệu suất sinh lời thấp. Các chỉ số tỷ suất lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp tư nhân đều thấp hơn nhiều so với mức chung của toàn khu vực doanh nghiệp, của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.  Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tài sản của doanh nghiệp tư nhân chỉ đạt 1,4%, thấp hơn mức chung của toàn bộ doanh nghiệp (2,4%) trong giai đoạn 2016-2020. Tương tự đối với tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu thuần (2,1% so với 3,8%) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (4,1% so với 7,6%). Tỷ suất sinh lời thấp ảnh hưởng đến khả năng tự tích lũy và mở rộng quy mô sản xuất của khu vực kinh tế tư nhân.

 

 

3. Giải pháp phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam.

 

Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân đã đưa ra mục tiêu cụ thể bao gồm:

 

Bảng 3: Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân, giai đoạn 2030-2045

 

2030

-KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

- Có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân. Có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

-Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 10-12%/năm.

- Đóng góp khoảng 55-58% GDP, khoảng 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước, giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm.

- Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu khu vực châu Á.

2045

- Kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế;

- Có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP.

Nguồn: Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân ban hành ngày 4/5/2025.

Để đạt được mục tiêu trên cần hệ giải pháp đồng bộ như Nghị quyết 68 đã đưa ra, trong đó trước mắt nên tập trung vào các giải pháp cơ bản sau:

 

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân.

 

Trong tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân đã và đang ngày càng khẳng định vị trí, vai trò với tăng trưởng, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, nhận thức xã hội về vị trí và vai trò của khu vực này vẫn tồn tại không ít định kiến, thiếu nhất quán, thậm chí sai lệch, làm cản trở quá trình phát triển lành mạnh và hiệu quả của kinh tế tư nhân. Do vậy, để thực sự phát huy vai trò là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, điều trước hết cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo nhận thức đúng về vị trí, vai trò kinh tế tư nhân. Cần tích hợp nội dung về vai trò của kinh tế tư nhân vào chương trình giáo dục phổ thông và đại học, đặc biệt là các ngành liên quan đến kinh tế, chính trị, quản lý công. Đồng thời, hệ thống báo chí, truyền thông đại chúng phải đóng vai trò tích cực trong việc truyền tải hình ảnh doanh nghiệp tư nhân chân chính, đổi mới, có trách nhiệm xã hội. Tổ chức các chương trình truyền thông về thành tựu kinh tế tư nhân và vinh danh doanh nhân cần đi kèm với tiêu chí minh bạch, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm cộng đồng nhằm tạo ra hình mẫu xã hội tích cực. Một khi nhận thức xã hội được nâng cao, đặc biệt là trong hệ thống chính trị, bộ máy quản lý nhà nước, và trong dân cư, thì điều đó sẽ góp phần tạo nên môi trường thực sự công bằng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân vào các chương trình phát triển quốc gia.

 

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo điều kiện cạnh tranh công bằng giữa các thành phần kinh tế. 

 

Điểm cốt lõi của hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường là phân định mạch lạc vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Nhà nước tập trung vào điều tiết vĩ mô, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bảo đảm cơ chế thị trường vận hành hiệu quả, bảo đảm công bằng xã hội, đảm bảo nền kinh tế vận hành theo nguyên tắc thị trường, giảm thiểu sự can thiệp, xóa bỏ các rào cản hành chính và sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế, đảm bảo doanh nghiệp tư nhân có cơ hội bình đẳng để phát triển.

 

Để kinh tế tư nhân có điều kiện phát triển mạnh mẽ, cần tập trung giải quyết vấn đề bình đẳng thật sự giữa các chủ thể kinh doanh, giữa kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhà nước. Thiết lập chế độ ưu đãi thuế cho đối tượng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tạo sân chơi bình đẳng cho khu vực tư nhân trong nước. Xây dựng nhiều chính sách ưu đãi, như: (i) ưu tiên cho các doanh nghiệp tư nhân vay với lãi suất ưu đãi; (ii) giảm thuế ở các sản phẩm thuộc các doanh nghiệp tư nhân; (iii) giảm bớt gánh nặng thuế cho các doanh nghiệp tư nhân nhằm khuyến khích chuyển đổi loại hình kinh doanh cá thể, hộ gia đình sang mô hình doanh nghiệp. Cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh bạch, an toàn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển thuận lợi.

 

Thứ ba, cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm chi phí, thời gian khởi sự kinh doanh và bổ sung cơ chế chính sách (bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu trí tuệ) để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.

 

Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh bằng việc kiên quyết cắt giảm ít nhất 30% thủ tục hành chính, khoảng 30% chi phí kinh doanh (bao gồm cả chi phí không chính thức) và 30% thời gian xử lý hành chính. Bổ sung nguồn lực tài chính để thực hiện R&D cho khu vực doanh nghiệp tư nhân bởi doanh nghiệp tư nhân với quy mô nhỏ, không có nhiều kinh phí cho R &D để cải tiến, đổi mới công nghệ. Nhật Bản đầu tư 3% GDP, Trung Quốc hơn 2% GDP cho R & D. Huy động thu hút tài chính tư nhân vào sản xuất kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đồng bộ, nhất quán, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm thực hiện nghiêm minh 3 quyền cơ bản: quyền tự do kinh doanh (trong những ngành nghề pháp luật không cấm), quyền sở hữu tài sản và quyền cạnh tranh bình đẳng.

 

Nhà nước xây dựng và thực thi cơ chế pháp lý chặt chẽ về bảo vệ quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu trí tuệ; giảm thiểu rủi ro pháp lý, hạn chế tối đa tình trạng thay đổi chính sách đột ngột gây tổn thất cho doanh nghiệp. Tạo lập cơ chế hỗ trợ và bảo vệ nhà đầu tư tư nhân, nhất là các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, giúp nhà đầu tư an tâm và phát triển thuận lợi. Xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng thanh kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó cho doanh nghiệp, tăng cường đầu tư, hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển.

 

Ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, tích cực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời nâng đỡ thành phần kinh tế hộ, kinh tế hợp tác. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia các lĩnh vực chiến lược, phát triển cơ sở hạ tầng quan trọng, công nghệ cao, công nghiệp mũi nhọn và an ninh năng lượng. Mở rộng cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân trong các dự án quan trọng quốc gia, cùng tham gia với Nhà nước trong một số ngành công nghiệp chiến lược và một số lĩnh vực đặc biệt, nâng cao năng lực nghiên cứu và đổi mới công nghệ. Nhà nước có cơ chế chính sách giao đặt hàng khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào một số dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia, những nhiệm vụ cấp bách như xây dựng đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị, hạ tầng năng lượng, hạ tầng số, công nghiệp quốc phòng, an ninh...

 

Thứ tư, thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số để nâng cao năng lực của khu vực kinh tế tư nhân.

 

Để đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững và chuyển dịch sang nền kinh tế dựa nhiều trên công nghệ đổi mới sáng tạo thì khu vực kinh tế tư nhân (đóng góp hơn nửa vào nền kinh tế) phải tăng trưởng tốc độ cao và chuyển mình mạnh mẽ để hấp thụ, phổ biến công nghệ và đổi mới sáng tạo. Vì vậy, phải hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân tham gia, đầu tư, nhận chuyển nhượng công nghệ trên thế giới đối với nhiều lĩnh vực quan trọng như công nghiệp quốc phòng, công nghệ cao, công nghệ mới. Giải pháp này được xem là yếu tố then chốt giúp kinh tế tư nhân bứt phá và vươn tầm quốc tế.

 

Tăng nguồn ngân sách đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ, nghiên cứu và phát triển đối với khu vực kinh tế tư nhân. Hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân thành lập các trung tâm nghiên cứu và phát triển, đào tạo nhân lực khoa học công nghệ, tạo cơ chế bình đẳng trong việc nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, phổ biến và bảo hộ các sản phẩm khoa học. Hỗ trợ kinh tế tư nhân tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế. Tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực từng bước tham gia sâu, vững chắc vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. 

 

Nhà nước cần tạo khung pháp lý thử nghiệm (sandbox) cho các lĩnh vực công nghệ mới, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực tiên phong như trí tuệ nhân tạo, blockchain, dữ liệu lớn, thương mại điện tử, công nghệ tài chính (fintech) và y tế thông minh. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đầu tư ra nước ngoài, mua các công ty công nghệ trên thế giới, đầu tư vào những ngành hàng, lĩnh vực chiến lược, góp vốn vào các hãng tàu vận tải biển quốc tế, các tập đoàn bán lẻ trên thế giới để điều hướng luồng hàng vào Việt Nam, tăng thu mua từ Việt Nam.

 

Thứ năm, phát huy tối đa các nguồn lực cho kinh tế tư nhân, tạo cơ hội cho kinh tế tư nhân tiếp cận hiệu quả các nguồn lực quan trọng như vốn, đất đai, nhân lực, công nghệ.

 

Thúc đẩy kinh tế tư nhân hội nhập sâu rộng hơn nữa vào kinh tế toàn cầu, nâng cao vị thế kinh tế Việt Nam trên trường quốc tế, bảo vệ doanh nghiệp trước các rủi ro kinh tế. Cần có những chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn để kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn lực một cách thuận lợi, công bằng, bình đẳng, minh bạch và hiệu quả, có thể khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực này. Phát triển các kênh huy động vốn cho doanh nghiệp tư nhân, bao gồm thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ bảo lãnh tín dụng và các hình thức tài chính hiện đại như fintech, huy động vốn cộng đồng; xây dựng chính sách đất đai ổn định, minh bạch, tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tiếp cận quỹ đất thuận lợi, với giá hợp lý.

 

Xây dựng chính sách khuyến khích và định hướng doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghệ cao, thay vì tập trung quá nhiều vào bất động sản và các lĩnh vực có tính đầu cơ ngắn hạn. Có chính sách bảo vệ doanh nghiệp tư nhân trước những cú sốc kinh tế, những bất ổn toàn cầu, và biến động thị trường.

 

Tóm lại, phát triển kinh tế tư nhân là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong suốt giai đoạn đổi mới, đặc biệt từ Đại hội XIII với việc nhấn mạnh phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 68 của Ban chấp hành Trung ương lại một lần nữa khẳng định: Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, Trải qua gần 40 năm đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển đáng kể và đóng góp to lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, so với kỳ vọng vẫn còn khoảng cách lớn. Để kinh tế tư nhân phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nâng cao chất lượng của khu vực kinh tế tư nhân thì bên cạnh nỗ lực của chính khu vực kinh tế tư nhân, cần có những hỗ trợ căn cơ từ Nhà nước, trong đó vấn đề cốt lõi là tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế. Với thể chế phù hợp, chính sách đúng đắn và môi trường kinh doanh thuận lợi, kinh tế tư nhân sẽ phát triển mạnh, bứt phá nhanh, không chỉ giúp kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao mà còn sớm đưa Việt Nam thành nền kinh tế thu nhập cao trong hai thập niên tới (2025-2045).

 


 

Tài liệu tham khảo:

 

Tổng Bí thư Tô Lâm (2025), Phát triển kinh tế tư nhân – đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng, Tạp chí Quản lý nhà nước

Usman Kansong (2023), ASEAN Private Sector Must Implement an Inclusive Business Model - ASEAN Indonesia 2023 (asean2023.id)

Yuri Sato (2020), Development of Small and Medium Enterprises in the ASEAN, sato.pdf (jcie.org)

Kiều Chinh (2023), Đến năm 2025, kinh tế tư nhân có thể đóng góp 55% vào GDP quốc gia (mekongasean.vn)

Minh Dũng (2023), Tạo đà cho kinh tế tư nhân phát triển (nhandan.vn)

Trần Hùng M (2022), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN và thế giới (doanhnhansaigon.vn)

Đại Kim (2024), Khơi thông nguồn lực kinh tế tư nhân (nhandan.vn)

Nguyễn Quốc Điền (2023), Phát triển kinh tế tư nhân, một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội ... (kinhtetrunguong.vn)

Vụ TK TH (2023), Kinh tế tư nhân: Thực trạng và tiềm năng phát triển (consosukien.vn)

Quỳnh Hoa (2025), Kinh tế tư nhân: 7 giải pháp để thúc đẩy động lực - Cộng đồng tài chính thông minh Smart

Nguyễn Hoàng Hiệp (2025), Làm gì để kinh tế tư nhân phát triển đột phá?

Nguyễn Thị Luyến (2023), Những điểm nhấn trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam giai đoạn đổi mới (từ năm1986 tới nay) (dangcongsan.org.vn)

Cấn Văn Lực (2025), Giải pháp nào giúp kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế?

Nguyễn Huy Viện (2022), Chỉ khi kinh tế tư nhân phát triển mới có dân giàu, nước mạnh (quangnam.gov.vn)

Nguyễn Văn Tuấn (2023), Vai trò của kinh tế tư nhân ở TP. Đà Nẵng: Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 28, tháng 10/2023.

 

Vũ Hà[1] & Hoàng Dũng[2]



[1] PGS.TS. Hội đồng LLTW

[2] Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết