1. Tính tất yếu của sự nẩy sinh, tồn tại các vấn đề xã hội cơ bản
Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, gần 35 năm đổi mới vừa qua (1986-2019) là chặng đường quá độ rất quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của Việt Nam. Trên thực tế, qua hơn ba thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn trên nhiều phương diện. Từ một nước nghèo, Việt Nam trở thành một nước có thu nhập trung bình với nền kinh tế thị trường năng động, hội nhập mạnh mẽ, sâu rộng vào hệ thống kinh tế toàn cầu1. Tuy nhiên, bên cạnh nhiều thành tựu nổi bật, trong tiến trình phát triển của Việt Nam gần 35 năm vừa qua, nhiều vấn đề xã hội cơ bản cũng nẩy sinh, biến đổi, và gia tăng mức độ tác động tiêu cực.
Lô gic tất yếu của sự nẩy sinh, tồn tại các vấn đề xã hội trong quá trình đổi mới ở Việt Nam bắt đầu từ tính quá độ và quy luật phát triển không đều mang lại. Đổi mới mang lại sự tăng trưởng kinh tế đất nước mạnh mẽ, thu nhập và mức sống của người dân tăng lên. Minh chứng cụ thể là năm 2010, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) tính theo giá thực tế đạt 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD2. Năm 2015, GDP đạt 193,4 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD3. Năm 2018, GDP đạt 5.535,3 nghìn tỷ đồng, gấp 2 lần quy mô GDP năm 2011. GDP bình quân đầu người năm 2018 ước tính đạt 58,5 triệu đồng, tương đương 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 20174. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế và cải thiện thu nhập, mức sống của người dân như thế, sự phân hóa xã hội đã diễn ra mạnh mẽ. Biểu hiện cụ thể của sự phân hóa xã hội là phân tầng xã hội trên nhiều phương diện khác nhau như: phân tầng xã hội về thu nhập, phân tầng xã hội về chi tiêu, phân tầng xã hội về tài sản và nhà ở. Hệ quả của phân tầng xã hội là phân cực giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội. Cùng với đó, những vấn đề xã hội khác phát sinh liên quan đến an sinh xã hội như các vấn đề liên quan đến lao động việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội.
Trước thực tiễn các vấn đề xã hội cơ bản đó, cùng với đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tầm quan trọng của việc giải quyết các vấn đề xã hội được thể hiện trên ba phương diện. Thứ nhất, giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế. Bởi vì, những vấn đề xã hội cơ bản không được giải quyết sẽ sinh ra các rào cản đối với việc huy động và sử dụng vốn kinh tế, vốn con người, vốn xã hội, vốn văn hóa để phát triển kinh tế. Thứ hai, giải quyết các vấn đề xã hội để giử vững ổn định xã hội. Bởi vì, những vấn đề xã hội cơ bản không được quyết giải kịp thời, hiệu quả thì sẽ tạo nên căng thẳng, bất ổn xã hội. Thứ ba, giải quyết các vấn đề xã hội để đảm bảo an ninh con người, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, tạo điều kiện phát huy đầy đủ tiềm năng con người của mỗi cá nhân trong xã hội - một trong những đặc điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, những vấn đề xã hội cơ bản không được giải quyết sẽ làm giảm chất lượng sống của người dân và gây nên điều kiện bất lợi đối với việc triển con người. Vì vậy, việc nhận diện các vấn đề xã hội cơ bản, giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là rất quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
2. Thực tiễn giải quyết một số vấn đề xã hội cơ bản
Trên thực tế, trong mấy thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất quan trọng trong việc giải quyết một số vấn đề xã hội cơ bản. Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, dân tộc, tôn giáo để giải quyết các vấn đề xã hội... Ngân sách nhà nước dành cho các chương trình quốc gia nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gia tăng hằng năm. Việt Nam đã hoàn thành hầu hết và cơ bản các mục tiêu Thiên niên kỷ. Đặc biệt là đã thực hiện tốt chỉ tiêu giảm nghèo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thực hiện nhiều chính sách để ổn định, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Quan tâm thực hiện chính sách chăm sóc người có công. Đã thực hiện có hiệu quả nhiều chính sách đối với người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, giảm nghèo bền vững, chăm sóc sức khoẻ cho người dân đồng thời tạo điều kiện để người dân chủ động phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro trong đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường. Đời sống và thu nhập của người dân không ngừng được nâng lên”5.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng như thế, nhưng Đại hội XII của Đảng vẫn cho rằng: “Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”6. “Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới”7.
Trước những vấn đề xã hội này, nhu cầu thực tiễn đặt ra là phải tiếp tục giải quyết các vấn đề xã hội một cách hiệu quả nhằm giảm những rủi ro, đảm bảo an toàn xã hội, an ninh cho con người. Tức là đảm bảo nền tảng vững chắc cho sinh tồn, sinh kế và phẩm giá của con người; để các cá nhân có đầy đủ điều kiện cho việc phát huy tiềm năng con người của mình một cách toàn diện.
3. Định hướng giải quyết một số vấn đề xã hội cơ bản
Từ các vấn đề xã hội cơ bản trong thực tiễn quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được đề cập đến ở trên, một số điểm đáng lưu ý về định hướng giải quyết những vấn đề xã hội cơ bản cụ thể như sau:
Thứ nhất là, đổi mới thể chế một cách đồng bộ. Đây là một trong những yêu cầu quan trọng để giải quyết các vấn đề xã hội. Việc đổi mới thể chế phải mang tính toàn diện, tổng thể và đổi mới phải đồng bộ cả đổi mới thể chế kinh tế lẫn thể chế chính trị để tạo nên sự cân bằng, hài hòa về mặt thể chế. Việc đổi mới thể chế tổng thể, cân bằng giữa thể chế kinh tế và thể chế chính trị mới mang lại hiệu quả trên thực tế và trên phạm vi rộng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ ra rằng: “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tiếp tục được hoàn thiện. Vai trò, hiệu quả, sức cạnh tranh của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế được nâng lên. Môi trường đầu tư và kinh doanh được cải thiện, bình đẳng và thông thoáng hơn”8. Tuy nhiên, về thể chế chính trị, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ ra rằng: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”9. Như vậy, đổi mới thể chế chính trị chưa cân bằng với đổi mới thể chế kinh tế. Vấn đề quan trọng là cần tiếp tục đổi mới thể chế chính trị để tạo nên sự cân bằng trong đổi mới thể chế ở Việt Nam. Đó là cơ sở quan trọng cho giải quyết các vấn đề xã hội, mang lại sự phát triển nhanh và bền vững cho Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai là, nâng cao chất lượng thể chế. Để nâng cao chất lượng thể chế cần chú trọng ba điểm, cụ thể là nâng cao trách nhiệm giải trình của thể chế; đảm bảo minh bạch của thể chế; và ban hành đẩy đủ đồng thời với việc thực hiện nhất quán chính sách, luật pháp trong giải quyết các vấn đề xã hội. Trách nhiệm giải trình của thể chế là trách nhiệm và ứng xử của thể chế đối với nhu cầu của công dân. Cụ thể là cấu trúc các cơ quan nhà nước phải đủ linh hoạt để thiết kế và thực hiện có hiệu quả các chương trình, các dự án nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trách nhiệm giải trình của thể chế còn thể hiện qua việc thiết lập hệ thống các tiêu chí để đo lường sự thực thi nhiệm vụ của những người làm việc trong các cơ quan nhà nước và cơ chế để đảm bảo những tiêu chí đó được thực hiện. Thêm nữa, trách nhiệm giải trình của thể chế còn phản ánh cơ chế đánh giá sự thực thi nhiệm vụ của thiết chế. Thứ hai là minh bạch. Minh bạch thể hiện qua việc sẵn có thông tin dành cho công chúng cũng như sự rõ ràng của các quy định, quyết định của các cơ quan nhà nước. Minh bạch giúp giảm bớt sự thiếu chắc chắn và ngăn chặn tham nhũng của những người làm việc trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Thứ ba là tính nhất quán trong việc áp dụng chính sách, luật pháp. Cụ thể là, sự đầy đủ của chính sách, luật pháp và sự công bằng cũng như nhất quán trong việc áp dụng chính sách, pháp luật. Những cơ sở này giúp mọi người biết được, dự đoán được những cách thức hành động, quyết định và kết quả, hệ quả của các hành động, quyết định của những người có thẩm quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước. Đây là ba điểm quan trọng giúp nâng cao chất lượng thể chế để giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội.
Thứ ba là, chuyển từ cơ chế quản lý phát triển xã hội sang cơ chế quản trị xã hội trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trên thực tế, Việt Nam mới chủ yếu chú trọng quản lý phát triển xã hội trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể là, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể trong quản lý phát triển xã hội được thể hiện trên nhiều phương diện. Trước hết, chủ trương đường lối, chính sách, luật pháp luôn thể hiện rõ vai trò của Đảng và Nhà nước cùng các tổ chức đoàn thể trong giải quyết bất bình đẳng xã hội, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội, mâu thuẫn xung đột xã hội; giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an ninh con người, an sinh xã hội. Minh chứng cụ thể là thực tế quá trình thực hiện các chính sách xã hội, các chương trình nhằm giải quyết những vấn đề xã hội cơ bản đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Điểm quan trọng nữa ở đây là các nguồn lực để giải quyết những vấn đề xã hội cũng chủ yếu đến từ khu vực nhà nước. Như vậy, trên thực tế quản lý phát triển xã hội nhấn mạnh đến việc Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, giải quyết các vấn đề xã hội để thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng. Tuy nhiên, để hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề xã hội được nâng cao hơn nữa thì cần có sự hợp tác, phối hợp tốt hơn giữa chính quyền, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân trên nền tảng của thị trường. Đó chính là cơ chế quản trị xã hội - quá trình chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân là những đối tác hợp tác bình đẳng để điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội. Trong quá trình quản trị xã hội, quyền lực của chính phủ, thị trường và xã hội cùng tồn tại. Tuy nhiên, quyền lực của chính phủ, thị trường và xã hội không cân bằng. Vì thế, ba cách thức của quản trị xã hội có thể là: Thứ nhất, thị trường làm trung tâm. Con đường này nhấn mạnh đến cơ chế cạnh tranh, quản lý doanh nghiệp, công nghệ. Thứ hai, nhà nước là trung tâm. Con đường này nhấn mạnh đến tương tác giữa các tổ chức công và vai trò quan trọng của Nhà nước. Thứ ba, xã hội là trung tâm. Con đường này nhấn mạnh đến sự tương tác giữa các tổ chức công và xã hội với quan điểm việc ra quyết định nên từ dưới lên và phản ánh ý kiến của đại chúng, công chúng. Điều quan trọng ở đây là tùy vào từng vấn đề xã hội cụ thể mà một trong ba lựa chọn trên có thể được vận dụng để giải quyết vấn đề xã hội cụ thể đó. Như vậy, nhìn một cách tổng thể, cơ chế quản trị xã hội dựa trên cơ sở hợp tác giữa chính quyền, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân sẽ giúp huy động và sử dụng hiệu quả nhiều loại nguồn lực, bao gồm: vốn kinh tế, vốn con người, vốn xã hội, vốn văn hóa trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy, định hướng quan trọng là chuyển từ quản lý phát triển xã hội sang quản trị phát triển xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội một cách phù hợp, hiệu quả, hiệu lực, có giá trị nhằm thúc đẩy phát triển xã hội bền vững, công bằng.
Thứ tư là, tích hợp các chính sách xã hội để giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội nhằm đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người. Kết quả nghiên cứu từ thực tế chỉ ra rằng việc tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, bao gồm: chính sách về lao động việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách trợ giúp xã hội, chính sách giảm nghèo, giảm bất bình đẳng và phân tầng xã hội đã mang lại nhiều tác động tích cực. Tuy nhiên, thực tế ban hành chính sách xã hội và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội ở Việt Nam trong những năm qua còn có tồn tại nhất định. Đó là tình trạng chồng chéo về chính sách. Thực tế này không chỉ diễn ra giữa các chính sách khác nhau, mà còn diễn ra trong cùng một hệ thống chính sách. Hệ quả là gia tăng sự lãng phí trong quản lý điều hành; phân tán các nguồn lực; giảm tính chủ động và tăng tính ỷ lại ở nhiều nhóm đối tượng hưởng thụ chính sách. Thực tế này làm giảm hiệu quả của việc giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy, yêu cầu thực tế đặt ra là cần tích hợp các chính sách xã hội nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người.
Thứ năm là, xây dựng hệ thống đăng ký xã hội tích hợp trên cơ sở công nghệ hiện đại làm nền tảng cho việc triển khai các chính sách xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội cơ bản. Đây là hệ thống dựa trên cơ sở dữ liệu số về mã số công dân. Hệ thống này chứa đựng toàn bộ dữ liệu liên quan đến an sinh xã hội của công dân, từ sức khỏe, học vấn, nghề nghiệp, việc làm, cho đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà ở, vv… Hệ thống này cũng liên thông với các hệ thống chi trả tập trung như ngân hàng, bảo hiểm, vv…Trên cơ sở hệ thống tích hợp đó, các cơ quan, tổ chức nhà nước tổ chức thực hiện các chính sách xã hội hướng đến giải quyết từng vấn đề xã hội cụ thể; bởi vì hệ thống này làm nền tảng cho việc cung cấp dịch vụ an sinh xã hội mang tính cá nhân hóa, toàn diện, cụ thể, đồng bộ; đồng thời với việc quản lý vĩ mô các vấn đề xã hội; thông qua cơ chế đăng ký, nhận dạng, chi trả, tiếp cận dịch vụ giữa công dân và các cơ quan nhà nước, các tổ chức liên quan. Đây là nền tảng quan trọng để giải quyết hiệu quả các vấn đề xã hội./.
PGS.TS. Nguyễn Tuấn Anh
Phó Trưởng khoa Xã hội học
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội
1 Nhóm Ngân hàng Thế giới, and Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2016. "Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ”." Internet: www.worldbank.org.; trang XI.