Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11 năm 2024

Hoàn thiện nhận thức và giải pháp về xây dựng Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ​

Ngày phát hành: 17/06/2019 Lượt xem 3495

 

I. Hoàn thiện nhận thức và giải pháp về xây dựng Đảng

1. Hoàn thiện nhận thức về Đảng và xây dựng Đảng

Kiên định bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

Trong quá trình phát triển, dù tên gọi thế nào (Đảng Cộng sản hay Đảng Lao động) thì Đảng ta luôn mang bản chất giai cấp công nhân, thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức và hoạt động chủ yếu của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển.

Nhận thức rõ vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng.

Đảng ta là một đảng cầm quyền. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Nhận rõ yêu cầu đối với Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền.

Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, năng lực cầm quyền, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Giữ gìn và phát huy những truyền thống vẻ vang của Đảng. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Đó là truyền thống gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Đó là truyền thống đoàn kết, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả.Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, nội dung, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế:

Kiên định xây dựng Đảng là then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Giữ vững bản cách cách mạng và khoa học, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; có phương thức lãnh đạo, cầm quyền khoa học.

Nhận thức sâu sắc nguy cơ đối với vai trò cầm quyền của Đảng:

Một là, nguy cơ sai lầm về đường lối, chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đây là nguy cơ có thể xảy ra bất cứ lúc nào, đặc biệt là khi có những biến động lớn ở trong nước và thế giới và trong những thời điểm có tính bước ngoặt của cách mạng. Nguy cơ này chỉ diễn ra ở cán bộ cấp chiến lược - cấp có thẩm quyền quyết định đường lối phát triển đất nước. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ là nhiệm vụ hệ trọng, thường xuyên, cấp bách.

Hai là, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tạo điều kiện thức đẩy “diễn biến hòa bình”.

Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và quá trình này chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch tiến hành “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ Đảng và chế độ. Đây là nguy cơ đe dọa sự sống còn của Đảng và của chế độ.

Ba là, nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến Đảng mất vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền.

Bốn là, nguy cơ thiếu năng lực, phẩm chất và uy tín của một bộ phận không nhỏ cán bộ là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

2. Những giải pháp xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Trong giai đoạn mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ngày càng phát triển mạnh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục hoàn thiện, xu hướng dân chủ hóa, thông tin hóa ngày càng tăng, hội nhập quốc tế sâu rộng, trực tiếp hơn trong bối cảnh khu vực, quốc tế  - đang và sẽ diễn ra nhiều diễn biến phức tạp, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mau lẹ với những đột phá chưa từng có… đòi hỏi phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo cách mạng để đến 2030 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng diện đại, đến 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

(1) Coi trọng xây dựng Đảng về chính trị

Xây dựng Đảng về chính trị là công việc mang tính bản chất của Đảng, bao gồm: xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết, xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nêu cao bản lĩnh chính trị,… Trong đó, đường lối chính trị là một vấn đề cốt lõi trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Điều đó đòi hỏi phải kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam    trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nâng cao lập trường chính trị, bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp; cán bộ cấp chiến lược; không dao động trong bất cứ tình huống nào. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước đột phá để phát triển. Kiên quyết phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại.

(2) Tăng cường công tác xây dựng Đảng về tư tưởng

Xây dựng Đảng về tư tưởng là xây dựng nền tảng của Đảng. Lý tưởng cách mạng là tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Phải xác định kiên định niềm tin lý tưởng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của xây dựng Đảng về tư tưởng. Nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng. Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực.

Kiên trì, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”       trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái.

Phải nhận thức rõ không có lý luận thì không có phong trào cách mạng. Tiếp tục hoàn thiện lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phải đổi mới mạnh mẽ tư duy, có những đột phá về lý luận. Khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ trong công tác lý luận.

(3) Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức

Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức, một tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương tới cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật tổ chức cao. Mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng. Trong đó, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng bảo đảm chắc chắn việc quán triệt và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Phải tập trung nâng cao năng lục lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là tổ chức đảng trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

Phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nguyên tắc đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, nguyên tắc gắn bó mật thiết với nhân dân, nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức; có ý thức tổ chức kỷ luật cao; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ; vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; có uy tín cao trong Đảng và trong nhân dân. Quản lý Đảng chặt chẽ, nghiêm minh. Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và cả hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Có cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, ngăn ngừa lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương.

Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng, là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý các mối quan hệ: giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và tính đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền trách nhiệm cá nhân và tập thể.

(4) Tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức

Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng “nền gốc” tinh thần vững chắc của Đảng, là xây dựng sức mạnh nội sinh của cách mạng. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa, của Đảng.

Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; thật sự đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; thật sự là tấm gương đạo đức của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam; giữ gìn đoàn kết, thống nhất trong Đảng để Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”.

Để xây dựng Đảng về đạo đức cần tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, gắn với chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”, nói không đi đôi với làm. Thực hiện nghiêm các quy định phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, bí thư cấp ủy các cấp, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát các tổ chức đảng, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của nhân dân về phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.

(5) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các cách thức, hình thức, phương pháp, quy trình, lề lối làm việc mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng nhằm thực hiện thắng lợi các nội dung lãnh đạo.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mãnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

Đảng ta đã xác định, trong điều kiện Đảng cầm quyền, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực, hiệu lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội; nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; để nước ta phát triển nhanh và bền vững, bao trùm theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Điều đó đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; tiếp tục xác định rõ nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Đảng lãnh đạo, cầm quyền phải có thực quyền, không chuyên quyền, độc đoán, nhưng cũng không rơi vào nguy cơ quyền lực của Đảng bị hình thức hóa. Đảng cầm quyền bằng thực quyền của Đảng, bằng chuẩn tắc dân chủ với xã hội; bằng đạo đức nêu gương vì dân, có sức mạnh tự bảo vệ từ lòng dân. Muốn vậy, Đảng phải thật sự tiên phong về chính trị, tư tưởng, phải thật sự là đạo đức, phải vững mạnh về tổ chức, thống nhất ý chí, nhận thức, hành động để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh cầm quyền.

Đổi mới phương thức lãnh đạo ngay trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, xây dựng phong cách làm việc thật sự khoa học, tập thể, dân chủ, gần dân, trọng dân, vì dân, bám sát thực tiễn, nói đi đôi với làm.

Đổi mới mạnh mẽ việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết. Đổi mới việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, giảm bớt giấy tờ, giảm mạnh hội họp.

(6) Tiếp tục hoàn thiện các quy định về Đảng, nhất là quy định Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

II. Hoàn thiện nhận thức và giải pháp về xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội

1. Về nhận thức

(1) Đổi mới chính trị và hệ thống chính trị - yêu cầu bức thiết của thời kỳ mới có liên quan chặt chẽ với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

Khởi xướng và lãnh đạo, tổ chức thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh phải đổi mới toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực. Đổi mới chính trị và hệ thống chính trị, trong đó có Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội,  phải có chuyển biến thực sự sao cho thật đồng bộ với đổi mới kinh tế.  Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chẳng những làm cho Mặt trận và các đoàn thể mạnh lên mà còn làm cho Đảng, Nhà nước cũng mạnh lên, tạo ra sức mạnh gắn kết Đảng với Nhà nước, với nhân dân chặt chẽ, mật thiết hơn để thực hiện thắng lợi mục tiêu của đổi mới toàn diện đất nước.

(2) Đảng lãnh đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới, trước yêu cầu mới

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận từ yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nên được xác định như thế nào? Cần nhận thức rõ: (1) Mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận trong hệ thống chính trị; (2) Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận trong xã hội. (3) Tính đặc thù của Mặt trận trong cơ cấu tổ chức Mặt trận, giữa Mặt trận với các tổ chức thành viên, nguyên tắc và phương thức hoạt động của Mặt trận.

Với tư cách thành viên của Mặt trận, nhưng là thành viên lãnh đạo, do vậy Đảng phải nhận rõ và tự mình thực hiện tốt nghĩa vụ thành viên của mình đối với Mặt trận, để làm tròn nghĩa vụ đối với Mặt trận. Về thực chất, Đảng làm nghĩa vụ với Mặt trận chính là làm nghĩa vụ, bổn phận với nhân dân và xã hội, “chịu trách nhiệm cao nhất với nhân dân và xã hội về những quyết định của mình” (Khoản 3, Điều 4, Hiến pháp 2013).

Quan hệ giữa Mặt trận với Nhà nước (cả lập pháp, hành pháp, tư pháp) cũng cần phải đặt trong tương quan với hệ thống chính trị. Cần nhận rõ, Nhà nước với đặc trưng quyền lực, thực hiện sự ủy quyền của dân, thực thi quyền lực do dân trao cho để đem lại quyền và lợi ích cho dân, đồng thời dùng quyền lực, quyền uy của nhà nước pháp quyền để bảo vệ nhân dân. Do đó, Nhà nước là rường cột của hệ thống chính trị.

Mặt trận bao gồm một tập hợp lớn các tổ chức xã hội, tham gia vào hệ thống chính trị, tạo nên một liên minh chính trị - xã hội rộng lớn nhất, là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng, của chính quyền. Mặt trận bao gồm các tổ chức thành viên, về nguyên tắc, Mặt trận là liên hiệp các tổ chức, là liên minh chính trị xã hội rộng lớn nhất. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.

Xác định vai trò, chức năng và nhiệm vụ chính yếu của Mặt trận, trước hết là giám sát, tư vấn và phản biện đường lối, chính sách, nhất là đối với Nhà nước. Hầu hết nỗ lực và tinh lực của Mặt trận phải tập trung vào lĩnh vực này, tức là tham chính trong một xã hội dân chủ, một nhà nước pháp quyền. Không thể và không nên để Mặt trận hoạt động như hiện nay, làm thay các tổ chức, các bộ, ban, ngành đủ mọi thứ việc: xóa đói giảm nghèo, xây nhà tình nghĩa, xây dựng khối phố dân cư gia đình văn hóa...

(3) Đảng lãnh đạo đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội đáp ứng yêu cầu đổi mới chính trị và hệ thống chính trị

Các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia vào hệ thống chính trị, đồng thời cũng là những tổ chức thành viên của Mặt trận. Đó là: Công đoàn, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Cùng với Đảng, Nhà nước, Mặt trận, 5 tổ chức này là những bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị ở nước ta. Các tổ chức chính trị và chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị phải đi tiên phong trong đổi mới, từ quan niệm (tư duy) đến nội dung và phương thức hoạt động để đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển xã hội.

Trong quá trình thực hiện Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương(CPTPP) đang đặt ra cho Công đoàn Việt Nam phải nghiên cứu đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình thực tế của của các khu kinh tế, khu công nghiệp, của các loại hình doanh nghiệp trong cả nước làm sao để thu hút, đoàn kết, tập hợp được công nhân lao động vào tổ chức công đoàn Việt Nam; không để hình thành các tổ chức khác lôi kéo công nhân lao động, làm ảnh hưởng đến ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

2. Nhiệm vụ và giải pháp

(1) Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội

- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể coi trọng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, văn hoá, nghề nghiệp, chính sách, pháp luật xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân.

- Kịp thời tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các giai tầng xã hội trong điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Củng cố liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, làm cơ sở xã hội cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội trong cơ chế chính trị nước ta, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

- Đảng và Nhà nước thực sự tạo cơ chế, điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; uốn nắn kịp thời những biểu hiện lệch lạc, xa rời tôn chỉ, mục đích trong nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể.

(2) Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân

Phát huy tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, đoàn viên, hội viên, tập trung đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước phát triển bền vững. Xây dựng và nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, với các hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với đặc điểm đối tượng vận động theo phương châm không bỏ sót đối tượng, ở đâu có nhân dân, ở đó có công tác vận động nhân dân (công tác dân vận).

Tiến hành tổng kết, rút kinh nghiệm để có kế hoạch phối hợp, lồng ghép các mục tiêu và nội dung hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tránh chồng chéo và có phân công rõ trách nhiệm để Mặt trận Tổ quốc giữ vai trò chủ trì, các đoàn thể thành viên giữ vai trò phối hợp nhằm nâng cao tính thiết thực, hiệu quả.

Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các đoàn thể chính trị-xã hội chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin, tuyên truyền của Đảng và Nhà nước để tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, phản ánh, nắm bắt tư tưởng và khuyến khích cách làm hay, sáng tạo của đoàn viên, hội viên và nhân dân trong các phong trào cách mạng của quần chúng. Chú trọng tổng kết các phong trào, các cuộc vận động, tìm ra những nhân tố mới; xây dựng lực lượng cốt cán, phát huy vai trò những người tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng, gia đình, dòng họ trong công tác vận động quần chúng.

(3) Đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân và tập trung hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; phát huy tính năng động sáng tạo của Mặt trậnTổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội các cấp trong công tác vận động quần chúng, phù hợp với đặc điểm từng địa phương, cơ sở

Thực hiện đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân. Phát triển các tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản ,tự trang trải, tạo môi trường và điều kiện để nhân dân phát huy sức lực, trí tuệ ,sáng tạo theo nguyện vọng trên cơ sở pháp luật, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Tiếp tục thực hiện chủ trương hướng mạnh về cơ sở, tập trung cho cơ sở; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đoàn thể, đoàn viên, hội viên; không chạy theo số lượng, tích cực xây dựng, củng cố ban công tác mặt trận, chi hội, chi đoàn thôn, ấp.. vững mạnh, thu hẹp diện yếu kém, nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất

Tăng cường tiếp xúc, trao đổi, đối thoại với đoàn viên, hội viên và nhân dân, lắng nghe ý kiến, giải quyết hoặc phản ánh lên cấp trên và các cơ quan chức năng xử lý kịp thời những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân. Giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, không để xảy ra khiếu kiện vượt cấp, đông người, không để phát sinh thành “điểm nóng”, giữ vững ổn định chính trị ở địa phương, cơ sở. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực, trí tuệ, ý thức trách nhiệm công dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền,xây dựng Đảng; xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thiết chế dân chủ ở cơ sở.

Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam cần tăng cuờng xây dựng, phát triển tổ chức công đoàn cơ sở trong các doanh nghiệp có 25 lao động trở lên để đoàn kết, tập hợp công nhân lao động trong tình hình hiện nay.

(4) Kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận,năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác vận động nhân dân

Thực hiện Nghị quyết số 18 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về sắp xếp tổ chức bộ máy, cán bộ Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn ở cấp trung ương, cấp tỉnh; tổ chức hợp lý bộ máy cấp huyện; mở rộng thành phần cán bộ bán chuyên trách cho cấp xã, phường, thị trấn. Thực hiện thí điểm Trưởng ban Dân vận đồng thời là chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ở cấp tỉnh, cấp huyện những nơi đủ điều kiện. Tổng kết mô hình cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc chung khối Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cấp huyện; mở rộng thí điểm ở cấp tỉnh và thực hiện ở cấp huyện những nơi có đủ điều kiện. Coi trọng việc kết hợp, phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ: chuyên trách, bán chuyên trách và cộng tác viên.

Giải thể hoặc chuyển giao những tổ chức, cơ quan, đơn vị đang hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế không thuộc chức năng nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội theo quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động của từng đoàn thể trong công tác vận động quần chúng.

Xây dựng tiêu chuẩn, chức danh, cơ chế, chính sách phù hợp đối với cán bộ dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; chú trọng bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở những vùng đặc biệt khó khăn như vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc, đồng bào có đạo. Nâng cao trình độ kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ công tác vận động quần chúng cho cán bộ mặt trận Tổ quốc, đoàn thể ở cơ sở

Nghiên cứu, thực hiện đề án sắp xếp và tổ chức lại các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn thể ở Trung ương*. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy về Dân vận của Viện Xây dựng Đảng, thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận, mặt trận và các đoàn thể trong thời kỳ mới. Củng cố, tăng cường và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Khoa Dân vận đã có ở 63 trường chính trị của các tỉnh, thành phố hiện nay.

(5) Tăng cường công tác dân vận của chính quyền nhà nước các cấp;xây dựng Quy chế phối hợp giữa chính quyền nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động

Đổi mới nội dung, phương thức phối hợp hoạt động giữa cơ quan chính quyền nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở, các quy chế phối hợp, ký kết liên tịch, chương trình phối hợp công tác giữa Uỷ ban nhân dân với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp.Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước về phong cách dân vận: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”; “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, thực sự vì nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân.

Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội, phù hợp với thực tiễn công tác vận động quần chúng. Cần nghiên cứu để hình thành cơ chế Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xây dựng “quỹ hoạt động” thông qua việc giao các chương trình, dự án. Không thực hiện việc khoán kinh phí hoạt động gắn với số lượng biên chế của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể như các cơ quan, đơn vị hành chính .Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất đồng bộ với các thiết chế văn hoá cơ sở phục vụ nhu cầu hoạt động học tập, vui chơi, giải trí cho thanh, thiếu nhi, công nhân lao động và sinh hoạt cộng đồng của nhân dân.

(6) Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội,tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn

Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền và các tổ chức trong  hệ thống chính trị về nhiệm vụ lãnh đạo, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị-xã hội vững mạnh.Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, phát huy tính năng động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các Đoàn thể phù hợp với tôn chỉ, mục đích và tính chất chính trị-xã hội của mỗi tổ chức trong công tác tập hợp quần chúng. Thực hiện có hiệu quả Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị.

Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, làm rõ vị trí và mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận Tổ quốc với tư cách Đảng vừa là lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc, vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Quy định cụ thể nhiệm vụ của người đại diện tổ chức đảng trong Mặt trận Tổ quốc các cấp; đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc trong việc tham mưu cho cấp uỷ cùng cấp về công tác dân vận.

Các tổ chức đảng, cấp ủy các cấp cần tăng cường lãnh đạo,chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác sơ kết, tổng kết về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc./.

 

PGS.TS Nguyễn Viết Thông

 



* Hiện nay có: Trường Đại học Công đoàn; Trường Đại học Tôn Đức Thắng; Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam; Học viện Phụ nữ Việt Nam; Trường Đào tạo Cán bộ Hội Nông dân Việt Nam.

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết