Chủ Nhật, ngày 24 tháng 11 năm 2024

Hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để nâng cao năng lực độc lập-tự chủ của nền kinh tế trong hội nhập quốc tế giai đoạn mới (phần 1) ​

Ngày phát hành: 12/07/2023 Lượt xem 2241


                                             

I. Nhận thức về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập kinh tế quốc tế

 

Tính chất và trình độ độc lập - tự chủ của nền kinh tế nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế là kết quả tổng hợp bởi bốn nhân tố chủ yếu sau: Một là, nhận thức về bản chất và trình độ của thể chế kinh tế thị trường; hai là, bản chất và trình độ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; ba là, sự phát triển nội lực của nền kinh tế; bốn là, bản chất và thể chế hội nhập kinh tế quốc tế.

 

1. Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được đặt trong dòng chảy phát triển hiện thực của nhân loại và trình độ phát triển hiện thực của đất nước.

 

Từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới, Đảng ta đã xác định hội nhập quốc tế là một đòi tất yếu khách quan, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam phải gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó:

i). Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN (KTTT ĐH XHCN) cần phải có cách tiếp cận từ thực tiễn: Thực tiễn sự phát triển kinh tế thị trường trên thế giới và thực tiễn sự phát triển KTTT của Việt Nam trong mối quan hệ biện chứng; hơn nữa mối quan hệ đó là - KTTT của Việt Nam là một bộ phận (nhỏ) của KTTT thế giới chứ không phải ngược lại. Không thể xem xét và xây dựng thể chế KTTT ĐH XHCN từ tư duy lý luận tư biện, xa rời thực tiễn.

 

ii). Vấn đề xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT ĐH XHCN không thể được xem xét tách biệt với toàn bộ quá trình phát triển theo định hướng XHCN của một quốc gia trong điều kiện và trình độ phát triển cụ thể của thế giới. Về vấn đề này Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Chủ nghĩa xã hội là kết quả của những sự vận động - phong trào hiện thực của sự phát triển xã hội loài người; “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý thuyết giáo điều khô cứng buộc thực tiễn phải khuôn theo…Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đề ra”[1]. Điều đó nói lên rằng cả mục tiêu của CNXH và “con đường” đi tới CNXH, trong đó có vấn đề xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT ĐH XHCN là do sự vận động khách quan của hiện thực quy định. Việc đặt ra những mục tiêu và “sáng tạo” ra những con đường không hiện thực, thoát ly khỏi trình độ phát triển thực tế và điều kiện khách quan sẽ không thể thành công.

 

Theo Mác và Ăngghen, có hai tiền đề - điều kiện cơ bản của sự vận động hiện thực đó là: Tiền đề hiện thực đầu tiên là sự phát triển của nền đại công nghiệp (công nghiệp hóa) với phương thức sản xuất công nghiệp mang tính xã hội hóa cao. Thứ hai, là thể chế phát triển xoá bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ. Hai điều kiện - tiền đề cơ bản này được hình thành - vận động - phát triển, có quan hệ biện chứng với nhau trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh - phát triển của nhân loại cũng như của mỗi dân tộc. Điều này cho thấy vì sao, những lý tưởng, khát vọng về những giá trị tốt đẹp, nhân văn của CNXH không tưởng không thể trở thành hiện thực, là do không có (không dựa) trên những tiền đề - điều kiện khách quan đó.

 

Chính Lênin là người đã nhận ra sai lầm khi thực hiện quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, với các mục tiêu và giải pháp “thuần tuý” chủ nghĩa xã hội, trong đó có thể chế kinh tế phi thị trường ở nước Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười. Lênin đã phải nhận thức lại về CNXH, về mục tiêu và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin cho rằng cần “phải bắc những chiếc cầu nhỏ”, “trung gian”, “quá độ” lên chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng cả chủ nghĩa tư bản và các giải pháp tích cực của nó (trong đó có phát triển KTTT) để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

 

Điều đó cho thấy, trong quá trình phát triển của nhân loại qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, những giá trị phát triển tốt đẹp và cao hơn phải là những giá trị tiêu biểu chung của nhân loại, mà các quốc gia - dân tộc sẽ từng bước đi tới trong sự vận động, đấu tranh và phát triển của mình. Điều đó nói lên rằng sự phát triển của một quốc gia theo định hướng XHCN không thể đối lập (càng không thể biệt lập) với những giá trị chung tốt đẹp - tiến bộ của nhân loại. Điều này cần phải được thể hiện ngay trong nhận thức và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT ĐH XHCN[2]. Điều này cho thấy sự phát triển theo định hướng XHCN, trong đó có xây dựng và hoàn thiện thể chế KTTT ĐH XHCN, có thể và cần phải tiếp thu những giá trị phát triển chung - tiến bộ của nhân loại. Việc xác định mối quan hệ biện chứng giữa các giá trị đặc thù của một nước với các giá trị phổ quát của nhân loại trong quá trình phát triển theo định hướng XHCN là một vấn đề có tính nguyên tắc. Bởi vì như Mác - Ăngghen đã chỉ rõ, trong quá trình phát triển của nhân loại, những giá trị tốt đẹp, tích cực từng bước phát triển ngay trong lòng các chế độ xã hội trước, cho đến chủ nghĩa tư bản phát triển cao, tạo nên quá trình phủ định biện chứng, để chuẩn bị những tiền đề khách quan cho xã hội bước lên một nấc thang phát triển cao hơn, được gọi là chủ nghĩa xã hội.

 

iii). Quan điểm của Đảng ta về phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: xây dựng một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cách tiếp cận theo mục tiêu phát triển bao trùm. Như vậy, phải chăng có thể hiểu rằng tính định hướng XHCN trong sự phát triển của đất nước chính là hướng tới thực hiện ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn và ở trình độ cao hơn mục tiêu bao trùm trên.

 

Trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam sẽ “đi vào” sân chơi quốc tế trong rất nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…ở những cấp độ khác nhau. Điều đó có nghĩa là chấp nhận những giá trị chung, những “luật chơi” chung. Đây là quá trình cạnh tranh - đấu tranh - hợp tác theo nguyên tắc mỗi nước đặt lợi ích quốc gia - dân tộc mình lên trước hết, đồng thời bảo vệ lợi ích phát triển chung và tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước khác. Chúng ta vẫn coi hội nhập quốc tế sâu rộng là đòi hỏi và quá trình khách quan, tạo cơ hội lớn cho sự phát triển đất nước, và thực tiễn phát triển đất nước qua hơn 30 năm đổi mới đạt được những thành tựu to lớn đã minh chứng rất thuyết phục điều đó (dù có không ít thách thức). Rõ ràng, nếu không chấp nhận và tôn trọng các giá trị chung thì không thể hội nhập được với quốc tế; đồng thời nếu đề cao không đúng các giá trị riêng của nước mình, coi những giá trị này có tính chuyên biệt chi phối quan hệ quốc tế, thì các nước khác cũng không “đến chơi” với mình được, sẽ rất khó hội nhập quốc tế. Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã từng bước phát triển nền kinh tế thị trường theo những quy luật chung (những giá trị chung) của nhân loại, và do đó hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn, hiệu quả hơn; đồng thời, ngày càng phát triển mạnh hơn nội lực của mình.

 

 

2. Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thực tiễn phát triển 

 

Trong quá trình phát triển, Đảng ta đặt ra cần làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, thể chế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

i). Trong một thời gian dài trước đây, nước ta (cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác trước đây) với quan niệm chủ nghĩa xã hội sai lệch, giáo điều, đã có nhận thức không đúng về bản chất của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và mối quan hệ với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm đặc trưng bản chất của chủ nghĩa tư bản, phát triển kinh tế thị trường là phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; kinh tế thị trường không dung hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Cơ chế phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa phải là cơ chế kế hoạch hoá tập trung - bao cấp cao độ.

 

Quá trình thực hiện đường lối Đổi mới đã mang lại cho chúng ta những nhận thức mới cả về lý luận và thực tiễn về bản chất kinh tế thị trường và mối quan hệ giữa kinh tế thị trường với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ từng bước tiếp cận với cơ chế thị trường, với sản xuất hàng hoá, đến Đại hội VIII, Đảng ta đã nêu rõ: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”[3]. Đến Đại hội IX, Đảng ta đã tiến lên một bước cao hơn, khẳng định: “Mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[4]. Đến Đại hội X, Đảng ta đã chỉ rõ hơn bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: “Kinh tế thị trường là sản phẩm của nền văn minh nhân loại phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng tự nó không đồng nghĩa với tư bản chủ nghĩa”. Chúng ta cần phải sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới góc độ thể chế, nền kinh tế thị trường định hướng  xã hội chủ nghĩa “Đó là nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[5]. Có thể nói rằng từ chỗ coi kinh tế thị trường là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, không dung hợp với chủ nghĩa xã hội, tiến lên coi kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể vận dụng và phát triển kinh tế thị trường, cao hơn nữa coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là một bước ngoặt có tính lịch sử cả về lý luận và thực tiễn của Đảng ta, của đất nước ta. Những quan điểm cơ bản của Đảng ta thể hiện khái quát một số nội dung quan trọng sau đây:

 

+ Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm bản chất - đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội hoàn toàn có thể và cần thiết vận dụng và phát triển kinh tế thị trường.

 

+ Kinh tế thị trường có những mặt mạnh, tích cực cơ bản; đồng thời có những mặt hạn chế, tác động tiêu cực tới quá trình phát triển; các mặt tích cực và tiêu cực tác động khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau; trong kinh tế khác với trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội; trong giáo dục khác với trong trong khoa học công nghệ, trong y tế… Việc vận dụng đúng đắn, có hiệu quả là nhiệm vụ rất quan trọng của mỗi nhà nước.

 

+ Mỗi nước, mỗi thể chế kinh tế - chính trị - xã hội, tuỳ theo điều kiện cụ thể lại vận dụng và phát triển kinh tế thị trường với những nội dung, hình thức, qui mô, cấp độ khác nhau.

 

+ Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và tính định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là mối quan hệ “kết hợp”, “dung hợp” một cách đơn giản, chủ quan duy ý chí, máy móc các giá trị kinh tế (thị trường) và các giá trị xã hội (định hướng XHCN) trong quá trình phát triển. Ở đây là mối quan hệ hữu cơ tạo nên một thể chế - cơ chế mới, với bản chất và động lực mới cho sự phát triển khách quan. Trong đó, những mặt mạnh, những mặt tích cực của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường có tác động cùng chiều, làm tăng thêm sức mạnh phát triển các giá trị tốt đẹp. Ngược lại, những mặt bất cập, hạn chế của kinh tế thị trường, cơ chế thị trường lại có tác động tiêu cực, làm yếu đi sự phát triển các giá trị tốt đẹp, phải được hạn chế. Chính vì vậy, nhiệm vụ quan trọng đặt ra trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong hội nhập quốc tế là phải hoàn thiện thể chế - cơ chế phát huy cao những mặt mạnh, tích cực của cả thị trường và nhà nước; đồng thời hạn chế, triệt tiêu những tác động tiêu cực, những “thất bại” của cả thị trường và nhà nước phù hợp và hiệu quả đối với sự phát triển chung của cả nước cũng như đối với từng lĩnh vực.

 

+ Tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải chỉ thể hiện ở phương diện chính sách xã hội, lại càng không phải chỉ là sự bao cấp xã hội, mà tính định hướng xã hội chủ nghĩa phải được thể hiện đồng bộ ở ba phương diện: xây dựng cơ chế phát triển để giải phóng triệt để sức sản xuất nhiều thành phần; hướng tới mục tiêu từng bước nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, dân giàu, nước mạnh; thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển con người, các chính sách xã hội, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Như vậy, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đảm bảo được sự phát triển mạnh mẽ để mang lại được lợi ích thiết thực mọi mặt ngày càng cao cho nhân dân, để xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn và phát triển cao hơn.

 

+ Cương lĩnh 2011 và Văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đã nêu lên những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội - cũng là những giá trị cơ bản về “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng”[6]; đồng thời nêu lên những nhận thức cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, trong đó chỉ ra : Là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh[7].

 

Vì vậy, có thể nói rằng tính định hướng XHCN phải được thực hiện thông qua đồng bộ thể chế phát triển ở tất cả các lĩnh vực, trong đó phải tạo lập được năng lực độc lập - tự chủ ngày càng cao hơn của nền kinh tế dân tộc, tạo được động lực mạnh mẽ để thực hiện ngày càng cao hơn mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “Dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

(còn tiếp)

 PGS.TS Trần Quốc Toản

(Sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước: Chủ nghĩa tư bản hiện đại - vai trò, tác động đến tiến trình phát triển của thế giới và định hướng chình sách của Việt Nam; mã số KX.04.08/21-25).
 

 [1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.51.

 [2] Việt Nam đã tham gia Liên Hợp Quốc, tham gia WTO, tham gia Cộng đồng an ninh - kinh tế - văn hóa - xã hội ASEAN và hơn 15 Hiệp định thương mại tự do khác, trong đó có những Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới với những quy định không chỉ về kinh tế, thương mại thuần túy, mà cả những quy định về lao động, đầu tư, thể chế quản lý, vai trò của nhà nước, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ.... Trong tất cả các hiệp định đó chứa đựng nhiều giá trị chung mà các nước tham gia phải tuân theo (cũng có thể có những “giá trị” thể hiện sự ưu tiên hơn đối với những nước có trình độ phát triển còn thấp, lại có những giá trị cao hơn do những nước có trình độ phát triển cao hơn đặt ra). Nếu xét theo quan điểm phát triển theo định hướng XHCN với nhận thức máy móc, giáo điều, phi thực tiễn, thì có thể cho rằng việc tham gia và chấp nhận các giá trị chung đó (có thể có các “giá trị” không phù hợp lắm, do các nước có trình độ phát triển cao hơn đặt ra) - là không đúng với định hướng XHCN.

 [3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB CTQG, HN 2005, trang 481.

 [4] Như trên, trang 459.

 [5] Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 BCH TW Đảng khoá X, NXB CTQG, HN, 2008, trang 139.

  [6] (1) - “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.(2) -  Xã hội “do nhân dân làm chủ”.(3) - “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”.(4) - “Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.(5) - “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện   phát triển toàn diện”.(6) - “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển”.(7) - “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.(8) - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.

[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng CSVN, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016

 

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết