Thứ Sáu, ngày 10 tháng 10 năm 2025

Khoa học xã hội trước nhu cầu phát triển vươn mình của đất nước

Ngày phát hành: 06/10/2025 Lượt xem 86

Tóm tắt:

Các quốc gia thoát bẫy thu nhập trung bình, bứt phá thành công, trở thành các nước công nghiệp mới (NICs) hoặc các nước có thu nhập cao (HICs), hầu hết đều là những nước có nền KHXH mạnh - có khả năng cung cấp những định hướng sáng suốt (vừa lâu bền vừa kịp thời) đáp ứng mọi tình huống xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, tất cả những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của đất nước (từ tháo gỡ điểm nghẽn thể chế đến đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, thoát bẫy thu nhập trung bình; từ việc coi KHCN - ĐMST & CĐS là “chìa khóa vàng” đến xây dựng hai Viện Hàn lâm tầm cỡ khu vực và thế giới; từ cách mạng tinh gọn bộ máy đến xây dựng chính sách thu hút nhân tài; từ chống tham nhũng, lãng phí đến phổ cập xã hội số; từ tái khởi động các siêu dự án đến lấy lại đà để nền kinh tế tăng trưởng hai con số; từ nhận thức sâu sắc hơn vai trò của kinh tế tư nhân đến mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045…) -  đều là những vấn đề không thể thiếu tiếng nói của KHXH, đều là những vấn đề đòi hỏi Chính phủ, nhà quản lý, đội ngũ lãnh đạo phải có hàm lượng KHXH sâu sắc trong tư duy. 

 

 

Trong giai đoạn phát triển đột phá vươn mình, tính từ giữa năm 2024 đến nay, những tiếng nói của giới KHXH với tính cách là một nhân tố, một bộ phận, một bình diện của sự phát triển, dễ thấy là còn khá mờ nhạt.

 

Mặc dù vậy, năng lực trí tuệ và vốn văn hoá của giới KHXH hiện vẫn còn khá nhiều tiềm năng chưa được giải phóng. KHXH Việt Nam, thực tế là đã đủ trình độ để gánh vác trách nhiệm của mình, hoàn toàn có đủ khả năng đáp ứng mọi nhu cầu về tri thức cho sự phát triển vươn mình của đất nước.

 

Bài viết gồm các nội dung: 1). KHXH thế giới trước những thách thức chính trị mới. 2). KHXH Việt Nam trước nhu cầu phát triển vươn mình của đất nước. 3). Những khó khăn đối với KHXH Việt Nam trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển vươn mình của đất nước. 4). Vị thế quốc gia gắn chặt với trình độ và tầm vóc của nền KHXH đất nước.

 

1. Khoa học xã hội (KHXH)[1] thế giới trước những thách thức chính trị mới

 

Thế giới đang trong một giai đoạn có nhiều biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường, cả về đời sống kinh tế và cả về đời sống chính trị, văn hoá, xã hội. Rõ nhất là từ khi Donal Trump xuất hiện với vai trò Tổng thống thứ 47 của nước Mỹ với khẩu hiệu “America First”. Chính quyền Mỹ với những quan điểm đối nội và đối ngoại thất thường, kể cả trong chính sách thuế quan, trong thái độ đối với các đối tác và trong lập trường về chiến tranh Ucraina - Nga, Ixrael - Iran…, trên thực tế, đã làm cho trật tự Mỹ và toàn thế giới dường như bị đảo lộn; từ người dân đến chính khách cảm thấy bị bất ngờ và không khỏi lo ngại. Nhìn vào lĩnh vực KHXH, chính quyền Mỹ tấn công cả hệ thống báo chí, hệ thống giáo dục, đại học Harvard và một loạt đại học khác (với những lý do cũng có phần được coi là chính đáng). Nhưng vấn đề là ở chỗ, tự do học thuật và tự chủ đại học, tự do báo chí và tự do ngôn luận - giá trị Mỹ và nền dân chủ… được ngợi ca ba trăm năm nay bị thách thức nghiêm trọng. Các nhà KHXH danh tiếng cùng các nhà tư tưởng, chính trị gia, hầu hết đến nay vẫn im lặng.

Và nền KHXH đáng tự hào của nước Mỹ đang gần như khủng hoảng [2].

 

Trên phạm vi thế giới, trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị và địa kinh tế ngày càng gay gắt, khiến xu hướng trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, sự ưu tiên đối với lợi ích quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ… bắt đầu từ sau Chiến tranh lạnh, nay lại tiếp tục bùng phát theo chiều hướng mạnh mẽ hơn và cực đoan hơn. Hầu hết các quốc gia đều buộc phải tập trung bảo vệ lợi ích riêng, cục bộ; không ít định chế quốc tế đã trở nên lỏng lẻo hơn làm suy giảm hợp tác và mai một các giá trị toàn cầu. Không chỉ các giá trị châu Á, phương Đông, mà ngay cả các giá trị Mỹ, phương Tây cũng bị nhiều chính thể xem nhẹ, thậm chí coi thường.

 

KHXH, vốn có sứ mệnh theo đuổi các lý tưởng về tự do, dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn cầu, trước thách thức này đã rơi vào tình huống khó khăn hơn trong việc tự do sáng tạo, công bố sự thật và tìm kiếm chân lý.

 

Tại Mỹ, các trung tâm KHXH lớn và danh tiếng thế giới như Đại học Stanford, Harvard, California-Berkeley, Yale, Columbia, hay Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đều gặp khó khăn trong việc theo đuổi các lý tưởng và các mục tiêu tiến bộ toàn nhân loại đã được mặc định. Tại các trung tâm này, vị thế là cái nôi sản sinh ra tri thức KHXH tiên tiến đang bị thách thức khi những nghiên cứu mang tính toàn cầu, khai phóng và những nghiên cứu cơ bản bị xem nhẹ, bị chế giễu hoặc thậm chí bị chỉ trích. Trong bối cảnh chính trị nội bộ phân cực, hầu hết các cộng đồng quốc tế có quan hệ, đã ít nhiều mất lòng tin, chờ đợi một sự đổi chiều trong tương lai. Bởi lẽ giới KHXH vẫn tin rằng, trên thực tế, sức mạnh quốc gia của Mỹ, sự cuốn hút của giá trị Mỹ, hơn hai thế kỷ qua, lại luôn gắn liền với khả năng khai thác và sử dụng những thành tựu, giá trị mà KHXH và nhân văn toàn nhân loại đã đem lại - nền kinh tế theo xu hướng mở, Hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế được tôn trọng, giáo dục khai phóng, tự do dân chủ được thực thi, được cổ vũ và được bảo vệ, văn hoá Mỹ cùng giá trị Mỹ luôn thu hút và có sự tích hợp từ văn hoá các cộng đồng trên khắp thế giới; và tài năng, nhân tài - không phân biệt chủng tộc hay màu da, sớm muộn, ai cũng có thể tìm thấy vị trí hay đại diện của mình ở nước Mỹ. Vì thế, sự suy yếu của KHXH Mỹ không tránh khỏi sẽ ảnh hưởng đến nền tảng tinh thần và giá trị cốt lõi của quốc gia này.

 

Tại Nga, sau khi cuộc chiến Nga - Ucraina nổ ra, gần giống như thời kỳ Xô viết trước kia, các trung tâm KHXH của Nga có xu hướng trốn vào các vấn đề kinh viện, hàn lâm hoặc “trực tiếp cổ súy cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Nga” theo kiểu của nhà tư tưởng như A. Dugin. Nhiều người đã bỏ ra nước ngoài [3]. Trong bối cảnh chính trị hiện tại, KHXH ở Nga không úp mở, được định hướng để phục vụ các mục tiêu chiến lược nhà nước, củng cố ý thức hệ và bản sắc dân tộc, mà tinh thần chung là rất quá khích. Tình huống này hạn chế không gian cho các nghiên cứu độc lập, khách quan và đa chiều, vốn là yếu tố cần thiết để KHXH phát huy vai trò phát hiện vấn đề, phản biện, tư vấn chính sách và định hướng xã hội.

 

Tại Trung Quốc, bên cạnh những thành tựu to lớn mà một số ngành KHXH đã đạt được sau khi Trung Quốc hoàn thành mục tiêu 100 năm thứ nhất (năm 2021), hiện nay KHXH tại Trung Quốc được nhà nước nuôi dưỡng với một tầng lớp tinh hoa (精英阶层) có nhiệm vụ phục vụ chế độ và cổ súy cho “Trung Hoa mộng”. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn khuyến khích nghiên cứu cơ bản và chuyên ngành, với nhiều học giả được coi là chuyên gia rất được trọng vọng trong các lĩnh vực cụ thể [4]. Mặc dù chủ trương kiểm soát chặt chẽ, nhưng Trung Quốc vẫn hiểu được tầm quan trọng của KHXH và các khoa học mũi nhọn[5] trong việc xây dựng nền tảng tư tưởng, văn hóa, và định hình chính sách phát triển quốc gia. Sự đầu tư mạnh mẽ vào các viện nghiên cứu và đại học, cùng với việc khuyến khích các học giả tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, cho thấy Trung Quốc đang tìm cách tận dụng KHXH như một công cụ chiến lược để củng cố sức mạnh tổng thể của đất nước. Dù tự do học thuật vẫn bị xếp hạng thấp, nhưng nhiều đại học, trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã vươn tới thứ hạng cao trong xếp hạng đại học thế giới.

 

2. KHXH Việt Nam trước nhu cầu phát triển vươn mình của đất nước

 

Với chiến lược phát triển đột phá kể từ cuối năm 2024, Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức chưa từng có. Bối cảnh thế giới phức tạp, cạnh tranh và đối đầu gay gắt hiện nay buộc Việt Nam phải thể hiện rõ hơn quan điểm của mình trong các vấn đề quốc tế. Việt Nam được coi là đã xử lý khôn khéo và thành công trong hàng loại vấn đề địa chính trị, địa kinh tế phức tạp[6]. Trong khi đó, về đối nội, Việt Nam đang thực hiện chiến lược phát triển đột phá, với những bước đi có ý nghĩa cách mạng như tổ chức chính quyền địa phương hai cấp, sửa đổi hiến pháp, cách mạng tinh gọn bộ máy, và phát triển kinh tế với mục tiêu tăng trưởng hai con số... Đây là những nỗ lực chưa từng có, khai thác cơ hội ngặt nghèo của những tình huống thế giới không mấy thuận lợi, nhằm đưa đất nước phát triển vươn mình đến tầm cao mới.

 

Bốn Nghị quyết “bộ tứ trụ cột” và NQ 71 về GD-ĐT được ban hành với tinh thần kế thừa những thành tựu đáng tự hào của 40 năm Đổi mới, nhưng thẳng thắn thừa nhận và đối mặt với những thách thức gay gắt trước mắt từ bên trong và bên ngoài [7]. Đây là những cơ sở pháp lý tạo thể chế nền tảng nhằm đưa đất nước thoát bẫy thu nhập trung bình. Bốn Nghị quyết này cũng đòi hỏi Chính phủ và các cơ quan công quyền không được chủ quan, chậm trễ hay thiếu quyết tâm, thực hiện bằng được các kế sách đổi mới, cải cách với các mục tiêu lớn đã hoạch định đến năm 2030, năm 2045.

 

Trong “Bộ tứ chiến lược” này (cùng với những tư tưởng đột phá khác về GD-ĐT và bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong hai Nghị quyết 71 và 72 của Bộ Chính trị mới ban hành), NQ 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, và chuyển đổi số (KHCN - ĐMST -CĐS) được xem là “chìa khóa vàng” cho sự phát triển khoa học, trong đó KHXH được ngầm thừa nhận là thành tố cốt lõi hay cơ bản của KHCN - ĐMST và CĐS: “Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo góp phần quan trọng xây dựng, phát triển giá trị văn hoá, xã hội, con người Việt Nam, đóng góp vào chỉ số phát triển con người (HDI) duy trì trên 0,7”. “Kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ xã hội chiếm hơn 60%... Nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt 12 người trên một vạn dân; có từ 40 - 50 tổ chức khoa học và công nghệ được xếp hạng khu vực và thế giới; số lượng công bố khoa học quốc tế tăng trung bình 10%/năm”. “Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, công nghiệp văn hoá số đạt mức cao của thế giới. Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu về an toàn, an ninh không gian mạng, an ninh dữ liệu và bảo vệ dữ liệu” [8].

 

Với NQ 57, giới KHXH rất chú ý đến quan điểm và chủ trương về phát triển các thiết chế cụ thể của nền KHXH quốc gia. NQ ghi rõ: “Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo. Đầu tư, nâng cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cùng các cơ sở nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia” [9]

 

Đây là một trong số hiếm hoi các văn bản chính thống mà hai Viện Hàn lâm khoa học lớn nhất của đất nước được thừa nhận và đánh giá về vai trò và vị thế.

 

Liên quan trực tiếp tới KHXH, các tư tưởng quan trọng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã được giới khoa học và toàn xã hội biết đến trong giai đoạn phát triển, cần phải kể đến là:

 

Về thể chế, ngày 21/10/2024, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chỉ rõ: “Trong 3 điểm nghẽn lớn cản trở sự phát triển, thì “thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn”, “gây lãng phí, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước”. Ông lưu ý: “Nếu không thật sự sáng suốt, bản lĩnh vì sự nghiệp chung, thể chế không phù hợp có thể gây ra những khúc quanh đối với sự phát triển của đất nước” [10].

 

Về “Giai đoạn phát triển đột phá - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, ngày 31/10/2024 và ngày 25/11/2024, tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm đã giải thích tầm quan trọng, nội hàm khái niệm, các nội dung cơ bản, thời điểm bắt đầu, cơ sở định vị, giải pháp chiến lược và 7 định hướng chiến lược để thúc đẩy đất nước phát triển. theo đó, “định hướng chiến lược” của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, trước hết là “đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền” của Đảng cầm quyền. “Bước đi đầu tiên” là “cách mạng tinh gọn bộ máy tổ chức, phổ cập xã hội số, chống tham nhũng lãng phí, đột phá mạnh mẽ về thể chế; đẩy lùi bằng được nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình [11].

 

Về đội ngũ trí thức, giới khoa học, ngày 30/12/2024, tại Cuộc gặp mặt trí thức, nhà khoa học tiêu biểu toàn quốc, Tổng Bí thư Tô Lâm đã “thẳng thắn nhìn nhận, việc thực hiện trách nhiệm, sứ mệnh của đội ngũ trí thức, nhà khoa học với Tổ quốc, vẫn còn nhiều hạn chế so với kỳ vọng và đầu tư của Đảng, Nhà nước và nhân dân”. Trong giai đoạn tới, “các trí thức, nhà khoa học phải là lực lượng nòng cốt, là những người có “phép thuật” để đưa Việt Nam đứng vào nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo; nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển chính phủ điện tử; tối thiểu có 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các cường quốc công nghệ vào năm 2030. Đến năm 2045 Việt Nam là một trong những trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; có hạ tầng công nghệ số tiên tiến, hiện đại, dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng ngang tầm các “đế chế công nghệ số”. Về những đóng góp cụ thể của bản thân giới khoa học, Tổng Bí thư yêu cầu “đến năm 2030 phải có 100 phát minh, sáng chế, công trình khoa học trong bảng xếp hạng của khoa học thế giới; sản phẩm khoa học, công nghệ, tác phẩm văn học, nghệ thuật chiếm lĩnh đỉnh cao; ít nhất 03 tạp chí khoa học của Việt Nam đạt trình độ khu vực và trên thế giới”. “Đến năm 2045, đội ngũ trí thức Việt Nam đứng đầu khu vực, thuộc tốp đầu thế giới; có hàng trăm nhà khoa học có ảnh hưởng trên thế giới, đạt các giải thưởng quốc tế trên các lĩnh vực”[12].

 

Đó là những mục tiêu đầy thách thức đặc biệt, đối với giới KHXH.

 

Về cơ chế thu hút nhân tài khoa học, công nghệ, đặc biệt người Việt ở nước ngoài và chuyên gia quốc tế, ngày 13/1/2025 tại Hội nghị toàn quốc lần thứ hai về KHCN, với cương vị là Trưởng Ban Chỉ đạo TW, Tổng Bí thư đã đề xuất 8 nhiệm vụ, giải pháp quan trọng. Trong năm 2025, “phải tháo gỡ hết các điểm nghẽn, rào cản để phát triển”, “loại bỏ ngay tình trạng “trên rải thảm, dưới rải đinh”, “tư duy nhiệm kỳ, đố kỵ hay bình quân chủ nghĩa”. Chọn thí điểm một số viện, hoặc trường để mời chuyên gia ở bên ngoài làm lãnh đạo. “Trước đây người ta không dám về là vì chúng ta chưa thật sự sẵn lòng, còn nhiều rào cản về hành chính và các quy định, rất khó điều hành. Nay mọi thứ sẽ thuận hơn rất nhiều”. Ngày 2/7/2025, tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 của Ban Chỉ đạo TW về KHCN - ĐMST & CĐS, Tổng Bí thư Tô Lâm giao nhiệm vụ: “có chính sách đãi ngộ đặc biệt (vượt khung lương, nhà ở, môi trường làm việc) để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc. Hoàn thành trong tháng 8/2025” [13].

 

Về đột phá, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực KHXH, Tổng Bí thư chỉ rõ: “Trong ứng dụng KHCN thì “đột phá, đổi mới sáng tạo là yếu tố kỳ diệu, mang tính cách mạng, vượt qua rào cản, giới hạn để làm nên kỳ tích, vượt trội”. Tổng Bí thư còn chỉ rõ, “chìa khóa vàng”, “yếu tố sống còn” để “vượt qua bẫy thu nhập trung bình và hiện thực hóa khát vọng hùng cường của dân tộc” là KHCN - ĐMST & CĐS. Ông tâm huyết: “Chúng ta phải biết cách đứng trên vai của những người khổng lồ”[14].

Về năng lực nghiên cứu, mức độ hạn chế của khoa học Việt Nam, ngày 15/1/2025, tại Diễn đàn quốc gia lần thứ VI về phát triển doanh nghiệp công nghệ số, trong khi không ít người còn đang say sưa với những thành tích mà Việt Nam đã đạt được, thì Tổng Bí thư đã nói rõ: “với tất cả sự thẳng thắn, cầu thị và lắng nghe, chúng ta thấy vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục”. Đánh giá về sự không tương thích giữa các thứ bậc “ấn tượng, hoành tráng, đáng tự hào” trong xếp hạng quốc tế (về xuất khẩu linh kiện, thiết bị máy tính, điện thoại và phần mềm) với thực tế ở Việt Nam. Ông tâm sự: “Tôi cứ tự hỏi đây liệu có phải là “ngộ nhận”, là “tự huyễn hoặc”, là “tự ru mình” không?”[15].

 

Như vậy, tất cả những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển vươn mình của đất nước (từ tháo gỡ điểm nghẽn thể chế đến đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, thoát bẫy thu nhập trung bình; từ việc coi KHCN - ĐMST & CĐS là “chìa khóa vàng” đến xây dựng hai Viện Hàn lâm tầm cỡ thế giới; từ cách mạng tinh gọn bộ máy đến xây dựng chính sách thu hút nhân tài; từ chống tham nhũng lãng phí đến phổ cập xã hội số; từ tái khởi động các siêu dự án đến lấy lại đà để nền kinh tế tăng trưởng hai con số; từ nhận thức lại vai trò của kinh tế tư nhân đến mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045…) tất cả đều là những vấn đề mà KHXH không thể thiếu tiếng nói, đều là những vấn đề đòi hỏi Chính phủ, nhà quản lý, đội ngũ lãnh đạo phải có hàm lượng KHXH sâu sắc trong tư duy.

 

3. Những khó khăn đối với KHXH Việt Nam trong việc đáp ứng nhu cầu phát triển vươn mình của đất nước

 

So với trước đây, nền KHXH Việt Nam đã đi được những bước rất dài trong việc làm rõ lịch sử dân tộc, khẳng định độc lập và chủ quyền quốc gia, xác định các giá trị và bản sắc văn hóa, luận giải các thành tựu văn minh và trí tuệ người Việt… Đội ngũ các nhà KHXH từ chỗ chỉ vài chục người vào những năm 50 đã trở thành đội ngũ đông đảo trên khắp các giảng đường và các trung tâm khoa học của đất nước. Mỗi thế hệ đều xuất hiện những nhà khoa học tên tuổi và các tác phẩm giá trị. Nhiều nhà khoa học đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước.

 

Bằng con đường học thuật và cả bằng con đường dân trí, KHXH Việt Nam đã tác động mạnh và làm thay đổi con người và xã hội Việt Nam mấy chục năm qua. Đó cũng chính là tác động lớn nhất mà 70 năm qua, KHXH đã tạo được nền tảng tinh thần xã hội, góp phần giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và dựng xây đất nước thịnh vượng. Về sự đóng góp của KHXH Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng 1/2021 đánh giá: “KHXH và nhân văn, khoa học lý luận chính trị đã góp phần tích cực cung cấp luận cứ cho việc xây dựng đường lối, chính sách; bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng; xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, con người Việt Nam và bảo vệ Tổ quốc”[16].

 

Đây là đánh giá khẳng định rất rõ vai trò của KHXH đối với sự phát triển đất nước.

 

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, KHXH Việt Nam cũng còn nhiều yếu kém hay hạn chế. Chỉ so với các nền KHXH Đông Á và Đông Nam Á xung quanh, KHXH Việt Nam cũng đã lộ ra rất nhiều vấn đề cần thiết phải sớm thay đổi để không bị tụt lại phía sau.

 

Không chỉ trong nghiên cứu định tính, mà ngay trong nghiên cứu định lượng, nhiều công trình KHXH Việt Nam còn rất thiếu tin cậy. Việt Nam hiện vẫn chưa có các trường phái học thuật nào hay nhà khoa học nào có đủ uy tín quốc tế để thu hút hoặc quy tụ trí tuệ KHXH từ bên ngoài, như KHTN&CN. Những trung tâm nghiên cứu chuyên sâu hầu như không có. Chuyên gia tầm quốc tế về những vấn đề KHXH chuyên biệt, cũng rất hiếm. Những tác phẩm “để đời” có thể trở thành di sản dẫn đường cho các thế hệ sau, không nhiều. Những tiếng nói sáng suốt có khả năng làm rung động mặt bằng dân trí, thường thiếu dũng cảm nên mất cơ hội, nhất là khi đối diện với những tình huống “nhạy cảm”của xã hội. Thông tin (dữ liệu đầu vào) cho KHXH thường ít khi đầy đủ, nên hạn chế sáng tạo. Cơ chế tiếp nhận tư vấn, phản biện vẫn quá chật hẹp. Và cuối cùng, môi trường học thuật không thật bình thường (chưa thật sự “thông thoáng”, kích thích tư duy học thuật), đã cản bước sáng tạo, không tạo điều kiện tốt để nhà khoa học sống, lao động và đóng góp cho xã hội.

 

Những hạn chế này, bản thân KHXH dĩ nhiên, chịu trách nhiệm chính...

 

Vấn đề là ở chỗ, ở Việt Nam, tiếng nói của đội ngũ trí thức, nhà khoa học, chuyên gia KHXH, nhìn chung đều rất ít có cơ hội tham gia trực tiếp vào hoạch định các chủ trương, chiến lược, chính sách hay các dự án kinh tế - xã hội…. Những người trực tiếp có trách nhiệm chủ yếu là những nhà quản lý, lãnh đạo. Tính hợp lý, độ chính xác, mức độ sự thật (không rơi vào giả vấn đề, ảo vấn đề), khả năng nảy sinh các hệ luỵ phái sinh… sẽ khó đảm bảo tin cậy, nếu thiếu tiếng nói tư vấn, phản biện, đặc biệt là từ phía KHXH. Hàm lượng KHXH trong tư duy những người lãnh đạo quản lý, nếu thiếu hụt và nếu không đủ chuyên sâu, cần thiết phải được bổ sung bằng ý kiến tham vấn hay phản biện để việc ra quyết định trở nên tối ưu, tránh nảy sinh những vấn đề mà về nguyên tắc là có thể tránh được. Kinh nghiệm mà KHXH đã nhiều lần chỉ ra - con người, tuy không hoàn toàn quyết định sự thành công, nhưng lại là nhân tố đầu tiên khiến mọi kế sách, mọi đồ án kinh tế - xã hội có thể thất bại hoặc không đạt được mục tiêu, nếu có vấn đề (lựa chọn không đúng người để giao việc).

 

Thái độ cầu thị của nhà quản lý, do vậy vô cùng có ý nghĩa khi tiếp cận với những ý kiến tư vấn, phản biện.

 

Trong giai đoạn phát triển đột phá vươn mình, tính từ giữa năm 2024 đến nay, những hoạt động của giới KHXH với tính cách là một nhân tố, một bộ phận, một bình diện của sự phát triển, dễ thấy là còn khá mờ nhạt. Vai trò, sứ mệnh và nhiệm vụ của các KHXH, các Khoa học chính trị và các Khoa học nhân văn, cũng như của các thiết chế (trường đại học, các viện nghiên cứu và các trung tâm nghiên cứu khoa học, kể cả các tổ tư vấn…) trong chiến lược phát triển đột phá thực ra chưa được giao, được “đặt hàng”, được yêu cầu một cách cụ thể.

 

Những ý kiến muốn tư vấn, phản biện cũng rất ít có cơ hội để được đóng góp.

 

Mặc dù KHXH Việt Nam vẫn còn yếu kém như vừa nêu trên, nhưng cần lưu ý rằng, năng lực trí tuệ và vốn văn hoá của các nhà KHXH hiện vẫn còn khá nhiều tiềm năng chưa được giải phóng. KHXH Việt Nam, thực tế là đã đủ trình độ để gánh vác trách nhiệm của mình, ít nhất cũng chẳng kém gì KHXH trong các giai đoạn kháng chiến trước đây, góp phần đưa Việt Nam thực hiện được các mục tiêu phát triển đến năm 2030 và 2045 như kỳ vọng.

 

4. Vị thế quốc gia gắn chặt với trình độ và tầm vóc của nền KHXH đất nước

 

Để Việt Nam có thể trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, nền KHXH quốc gia lúc đó, theo quan hệ  nhân quả của logic phát triển, chắc không thể yếu kém hơn so với KHXH ở các quốc gia NICs; nghĩa là cũng phải mạnh “ngang tầm các nước tiên tiến” (NQ 45 TW 8) trong khu vực và trên thế giới. Điều này không chỉ là mong muốn của giới khoa học hay của Đảng và Nhà nước, mà còn là một yêu cầu khách quan của sự phát triển. Vị thế và tiếng nói của một quốc gia trên trường quốc tế không chỉ được định hình bởi sức mạnh kinh tế hay quân sự, mà còn bởi trình độ văn hóa, tư tưởng, và khả năng đóng góp vào kho tàng tri thức nhân loại.

 

Khó thoát bẫy thu nhập trung bình để gia nhập nhóm các quốc gia thu nhập cao, nếu không có một nền KHXH đủ mạnh.

Không phải ngẫu nhiên mà NQ 57-NQ/TW khẳng định: “Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo. Đầu tư, nâng cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cùng các cơ sở nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia” [17]. Trước đó NQ 45 về đội ngũ trí thức cũng ghi rõ: “Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách đột phá và đầu tư nguồn lực để phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và một số cơ sở giáo dục đại học, cơ sở nghiên cứu trọng điểm ngang tầm các nước tiên tiến, có đủ năng lực, điều kiện để giữ vai trò nòng cốt trong đào tạo, nghiên cứu, đóng góp của đội ngũ trí thức” [18]. Ngay cả trong Chiến lược đột phá phát triển KHCN, ĐMST  & CĐS quốc gia, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng yêu cầu: “Đột phá phải tiến hành ở cả lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đó là những khoảng không gian vô tận, có nhiều miền hoang vu, có nhiều cơ hội để trí thức, các nhà khoa học biến “sỏi đá thành cơm” [19].

 

Kinh nghiệm thế giới cho thấy, tiếp nối 4 “con rồng châu Á” thế kỷ XX, đến nay đã có 34 nước thoát bẫy thu nhập trung bình (MIT), bứt phá thành công, trở thành các nước phát triển có thu nhập cao (HICs). Điều đáng nói là, ở tất cả 34 quốc gia này, KHXH đều thuộc loại mạnh, có khả năng cung cấp những định hướng sáng suốt cho cải cách thể chế, quản lý xã hội, phát triển kinh tế, tiếp cận khoa học - giáo dục, định hình bản sắc dân tộc - quốc gia, nuôi dưỡng các giá trị tiến bộ và quan hệ hợp lý với các đối tác và đối tượng trong một thế giới đa cực, đa chiều phụ thuộc lẫn nhau[20].

 

Thoát MIT là một thách thức rất lớn, không đơn giản chỉ là vượt qua những rào cản kinh tế để tối ưu hoá các quá trình tăng trưởng. Các nước chậm phát triển từng vươn lên thành các nước NICs hoặc các nước và HICs, bên cạnh nguyên nhân kinh tế ngoạn mục, còn có những nguyên nhân thuộc về văn hoá, con người, thể chế… thậm chí ngoạn mục hơn - những nguyên nhân được định hướng bởi một nền KHXH mạnh, có tự do học thuật, có những trường đại học và những trung tâm khoa học thứ hạng cao, có đội ngũ chuyên gia giỏi, có mặt bằng dân trí cao với ý chí phát triển mạnh mẽ, có giới trí thức đông đảo với trách nhiệm xã hội sâu sắc…

 

Để thoát bẫy thu nhập trung bình, KHXH hiện đại đã chứng minh rằng, nếu nguyên nhân kinh tế là tối ưu hoá các quá trình và các nguồn lực tăng trưởng, thì nguyên nhân văn hoá - xã hội là xây dựng được các động lực phát triển lành mạnh.

Để đạt được tầm vóc là một Trung tâm “KHXH mạnh” của quốc gia, mô hình có ý nghĩa thực tế hơn cả đối với Việt Nam, theo chúng tôi là Viện Hàn lâm SINICA Đài Loan, Viện KHXH Trung Quốc, hay Đại học Quốc gia Singapore (NUS[21]). Tất nhiên, nhiều tiêu chí của các Trung tâm khoa học này về chất lượng, tổ chức, quy mô hay tầm ảnh hưởng…, Việt Nam sẽ rất khó đạt tới, kể cả trong tương lai xa. Nhưng với KHXH Việt Nam, những tiêu chí cần thiết phải đạt được trong khoảng thời gian trước mắt, là:

 

Có các Think Tank mạnh: Đây là những tổ chức nghiên cứu và tư vấn chính sách độc lập, có khả năng phân tích sâu sắc các vấn đề nóng và cấp bách, đưa ra các khuyến nghị chính sách có giá trị, và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của Đảng, Nhà nước và xã hội.

 

Đào tạo được đội ngũ Thạc sĩ, Tiến sĩ (thực sự chuyên nghiệp) cho thế hệ sau: Một nền KHXH mạnh phải có khả năng tái tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ thực. Cần thu hút nhiều sinh viên, cao học, nghiên cứu sinh trong và ngoài nước đến học tập tại Việt Nam, biến Việt Nam thành một trung tâm đào tạo KHXH uy tín trong khu vực.

Có nhiều nhà khoa học đầu ngành, tầm thế giới và khu vực: Đây là những người có công trình nghiên cứu đột phá, được cộng đồng khoa học quốc tế công nhận, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của KHXH Việt Nam trên bản đồ học thuật thế giới.

 

Có đội ngũ Phó Giáo sư, Giáo sư giỏi đủ để làm việc và có kế cận liên tục: Đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên là xương sống của KHXH. Thế hệ nào cũng cần phải có các nhà khoa học thực sự đầu đàn với tiếng nói học thuật có trọng lượng. Cần có chính sách thu hút, “giữ chân” và phát triển đội ngũ này, đảm bảo sự kế thừa và phát triển liên tục của các thế hệ nhà khoa học.

 

Có nhiều tác phẩm giá trị (bài báo, sách, chuyên khảo) được thế giới biết đến, được coi là “để đời” cho thế hệ sau: Các công bố khoa học là thước đo quan trọng về chất lượng và tầm ảnh hưởng của nghiên cứu. Cần khuyến khích và tạo điều kiện để các nhà khoa học Việt Nam công bố các công trình chất lượng cao trên các tạp chí, nhà xuất bản quốc tế uy tín.

Có Thư viện và các Trung tâm dữ liệu tầm cỡ khu vực và thế giới: Một thư viện hiện đại, với nguồn tài liệu phong phú, đa dạng, và khả năng tiếp cận toàn cầu là điều kiện tiên quyết để hỗ trợ nghiên cứu và học tập trong lĩnh vực KHXH. Thư viện KHXH Việt Nam là một trong số các thư viện từ lâu đã có vị thế như vậy, tiếc rằng hiện nay, việc phát huy vị thế này vẫn còn hạn chế.

 

liên kết nghiên cứu, đào tạo, trao đổi học thuật rộng khắp và thường xuyên với các trung tâm KHXH thế giới và khu vực.

 

5. Kết luận

 

KHXH và Nhân văn, với vai trò định hướng nhận thức, thái độ và hành vi con người, là nền tảng không thể thiếu cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Trong kỷ nguyên phát triển vươn mình, dù phải đối mặt với nhiều thách thức từ xu thế thực dụng, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa bảo hộ và sự biến động khó lường của tình hình địa chính trị - địa kinh tế thế giới, nền KHXH và Nhân văn Việt Nam vẫn có những tiềm năng không hề nhỏ, đủ để khẳng định vị thế của mình và đóng góp cho sự phát triển đột phá của đất nước.

 

Muốn trở thành một quốc gia phát triển có thu nhập cao, Việt Nam cần thiết phải mạnh không chỉ về chính trị, kinh tế, KHCN hay quốc phòng an ninh, mà còn phải có một nền KHXH mạnh. Đầu tư cho KHXH không chỉ là đầu tư cho hiện tại, mà còn là đầu tư cho các thế hệ kế tiếp, cho mục tiêu phát triển bền vững.

 

Để KHXH nước nhà vươn tầm khu vực và thế giới khi Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045, một chiến lược tổng thể với các giải pháp đồng bộ tạo thể chế hữu hiệu hơn cho hoạt động KHXH là rất cần thiết. Với “bộ tứ trụ cột” và NQ 71, một thể chế hoạt động KHXH đủ rộng mở và thông thoáng đang hình thành, hy vọng KHXH sẽ đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển của đất nước và của bản thân khoa học.

 

Hồ Sĩ Quý*

 

Tài liệu:



* GS.TS., Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương; Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

[1] Khái niệm “KHXH” trong bài, gọi tắt theo thông lệ, dùng để chỉ tất cả các KHXH, gồm cả các khoa học chính trị, các khoa học nhân văn và các ngành nghiên cứu lý thuyết về nghệ thuật.

[2] Xem: Allison McManus, Ryan Mulholland, Andrew Miller (2025). 100 Days of the Trump Administration’s Foreign Policy: Global Chaos, American Weakness, and Human Suffering. https://www.americanprogress.org/article/100-days-of-the-trump-administrations-foreign-policy-global-chaos-american-weakness-and-human-suffering/

[3] Oleg Levin (2024). Haemorrhaging brains. At least 2,500 Russian scientists have left the country to work abroad since the outbreak of war. https://novayagazeta.eu/articles/2024/01/30/haemorrhaging-brains-en // Hồ Sĩ quý (2022). Học thuyết Tân Á-Âu của Aleksandr G. Dugin và hệ lụy địa chính trị của nó. https://nghiencuuquocte.org/2022/12/11/hoc-thuyet-tan-a-au-cua-aleksandr-g-dugin-va-he-luy-dia-chinh-tri-cua-no/

[4] Xem: 俞可平, 张禹, 王俊 (2019).中国政治学向何处去. https://www.rccp.pku.edu.cn/mzyt/90516.htm. Chẳng hạn: 王沪宁 Vương Hỗ Ninh; 吴忠民 Ngô Trung Dân;胡锡进 Hồ Tích Tiến; 王忠林 Vương Trung Lâm; 钟南山 Chung Nam Sơn; 钱学森 Tiền Học Sâm; 颜宁Nhan Ninh; 王缉思Vương Kế Tư; 秦亚青 Tần Á Khánh; 阎学通Diêm Học Thông; 阎学通 Lâm Nghị Phu; 李稻葵 Lý Đạo Khôi; 于丹 Vu Đan; 葛剑雄 Cát Kiếm Hùng; 梁从诫 Lương Tùng Tiệp; 许嘉璐 Hứa Gia Lộ; 李强 Lý Cường; 周孝正 Châu Hiểu Chính; 费孝通 Phí Hiếu Thông; 王蒙 Vương Mông… 

[5] Xem: The Economist (2024). China has become a scientific superpower. https://www.economist.com/science-and-technology/2024/06/12/china-has-become-a-scientific-superpower

[6] Xem: Marina Yue Zhang (2024). Vietnam’s pivot. In navigating the US-China power play in Southeast Asia, Vietnam seem to have the right moves. https://www.lowyinstitute.org/the-interpreter/vietnam-s-pivot.

[7] NQ số 57-NQ/TW 22/12/2024 của BCT về “Đột phá phát triển KHCN, ĐMST & CĐS quốc gia”. NQ 59-NQ/TW 24/1/2025 của BCT về “Hội nhập quốc tế…”. NQ số 66-NQ/TW của BCT về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật...”. NQ số 68-NQ/TW 4/5/2025 của BCT về “phát triển kinh tế tư nhân”. https://thuvienphapluat.vn/phap-luat/ho-tro-phap-luat/toan-van-nghi-quyet-57-59-66-va-68-cua-bo-chinh-tri-pdf-nghi-quyet-57-59-66-va-68-cua-bo-chinh-tri--771081-216879.html // & NQ 71-NQ/TW của BCT 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. https://cdn.thuvienphapluat.vn/phap-luat/2022-2/NTMH/27082025/nq-71-bct.pdf

[8] NQ số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của BCT.

[9] NQ số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của BCT.

[10]. Tô Lâm (21/10/2024). Toàn văn phát biểu tại Phiên Khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV. https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-tai-phien-khai-mac-ky-hop-thu-8-quoc-hoi-khoa-xv-119241021113227895.htm

[11]. Tô Lâm (31/10/2024). Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ky-nguyen-moi-ky-nguyen-vuon-minh-cua-dan-toc-ky-nguyen-phat-trien-giau-manh-duoi-su-lanh-dao-cam-quyen-cua-dang-cong-san-xay-dung-thanh-cong-nuoc-vie // Tô Lâm (25/11/2024). Tổng Bí thư trao đổi chuyên đề Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. https://hcma.vn/Pages/chi-tiet-tin.aspx?ItemID=18650

[12]. Tô Lâm (30/12/2024). Phát biểu tại buổi gặp mặt trí thức, nhà khoa học. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-buoi-gap-mat-tri-thuc-nha-khoa-hoc-102241230132621815.htm

[13]. PV (2025). Cần ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc. https://baove.congly.vn/tong-bi-thu-to-lam-can-it-nhat-100-chuyen-gia-hang-dau-ve-nuoc-lam-viec-485256.html

[14]. Tô Lâm (13/1/2025). Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển KHCN, ĐMST  & CĐS quốc gia. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-102250113125610712.htm

[15]. Tô Lâm (15/1/2025). Bài phát biểu tại Diễn đàn quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-dien-dan-quoc-gia-phat-trien-doanh-nghiep-cong-nghe-so-viet-nam-lan-thu-vi-102250115153557723.htm

[16] ĐCSVN (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. Nxb. CTQG. Hà Nội. tr. 63-64.

[17] NQ số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của BCT.

[18] ĐCSVN (2023). NQ HNTW 8 Khoá XIII số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-45-NQ-TW-2023-xay-dung-vai-tro-doi-ngu-tri-thuc-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc-589015.aspx?anchor=muc_2

[19]. Tô Lâm (13/1/2025). Bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển KHCN, ĐMST  & CĐS quốc gia. https://baochinhphu.vn/phat-bieu-cua-tong-bi-thu-to-lam-tai-hoi-nghi-toan-quoc-ve-dot-pha-phat-trien-khoa-hoc-cong-nghe-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-quoc-gia-102250113125610712.htm

[20]. Theo WB, 108 quốc gia đang phát triển còn lại vẫn đang có nguy cơ rơi vào MIT. Trong số đó có cả Trung Quốc, Nga, Bulgaria, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Thái Lan, Indonesia, Brazil, Malaysia… (những nước có thu nhập trung bình cao, UMIC) và Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan…(những nước có thu nhập trung bình thấp, LMIC). Mặc dù Brazil, Mexico, Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi, Malaysia, Thái Lan, Philippines… được xếp vào các NICs. WB (2024). World development report 2024. The Middle Income TrapThe. C. 49-50. // Eric Metreau, Kathryn Elizabeth Young and shwetha Grace Eapen (2024). World Bank country classifications by income level for 2024-2025. https://blogs.worldbank.org/en/opendata/world-bank-country-classifications-by-income-level-for-2024-2025 (NIC: Newly Industrialized Countries. NIE: Newly Industrialized Economy; MIT: Middle Income Trap; LMIC: Lower-Middle Income Countries. UMIC: Upper-Middle Income Countries. HIC: High-Income Countries).

[21]. National University of Singapore (NUS): Trường Chính sách công Lý Quang Diệu ; Khoa Chính trị học; Khoa Xã hội học và Nhân học; Khoa Kinh tế; Viện Nghiên cứu Chính sách. (Lee Kuan Yew School of Public Policy; Department of Political Science; Sociology and Anthropology Departments; Economics Departments; Institute of Policy Studies).

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết