Thứ Sáu, ngày 19 tháng 04 năm 2024

Mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội: Quá trình phát triển nhận thức, giá trị lý luận và định hướng thực hiện

Ngày phát hành: 03/10/2022 Lượt xem 3959

 

1. Đặt vấn đề

Quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ cơ bản, phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Sự tương tác, ràng buộc lẫn nhau giữa ba thành tố xuất phát từ vai trò, chức năng của mỗi thành tố cũng như từ thế mạnh và những hạn chế vốn có của mình. Trong quá trình tương tác giữa các thành tố nhà nước, thị trường và xã hội đều hướng tới gia tăng lợi ích, tạo ra sự phát triển nói chung của các chủ thể trên thị trường. Đây chính là mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa các thành tố, thúc đẩy các thành tố gắn bó, tương tác với nhau.

 

Trong lý thuyết và thực tiễn vận hành của nền kinh tế thị trường đã tồn tại các trường phái khác nhau, từ nhấn mạnh vai trò thị trường, đến nhấn mạnh vai trò nhà nước hay nhấn sự cần thiết của cả nhà nước và thị trường trong nền kinh tế hỗn hợp. Bên cạnh đó, trong các nền kinh tế thị trường phát triển, vai trò xã hội cũng ngày được quan tâm trong việc bổ khuyết và giám sát cả thị trường và nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa rằng, nhận thức và xử lý mối quan hệ này là một quá trình, tùy thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất, quan niệm về mô hình vận hành, tập quán truyền thống văn hóa...Và không có ngưỡng chung cho việc xử lý mối quan hệ này, mà ở mỗi nền kinh tế, thậm chí trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thị trường, mức độ tham gia của nhà nước hay mức độ quyết định của thị trường và vai trò tham gia của xã hội là rất đa dạng.

 

Việt Nam đã qua hơn 35 năm thực hiện đổi mới và trong quá trình phát triển cũng đã từng bước hoàn thiện thể chế nền kinh tế, trong có có việc nhận thức và giải quyết mối hệ nhà nước, thị trường và xã hội, một nội dung quan trong của thể chế kinh tế thị trường. Bài viết sẽ tập trung làm rõ quá trình phát triển nhận thức của Đảng và kết quả sự vận dụng sáng tạo giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn phát triền nền kinh tế thị trường định hướng XHCN[1].

 

2. Quá trình phát triển nhận thức

Thứ nhất, nhận thức về mối quan hệ giữa ba thành tố

Mối quan hệ giữa ba thành tố nhà nước, thị trường và xã hội lần đầu tiên được nêu trong Nghị quyết hội nghị Trung ương 5 khoá XII (năm 2017) về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghị quyết nhấn mạnh: “Xác định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”[2]. Tiếp đó tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã chỉ rõ: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ”[3] và xem đây là một trong mười mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý tốt.

 

Nhìn lại quá trình nhận thức, để đi đến khẳng định về sự tồn tại khách quan, vai trò quan trọng của mối quan hệ ba bên nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực tế đã trải qua quá trình đổi mới, đột phá trong tư duy gắn liền với thúc đẩy từ yêu cầu thực tiễn phát triển. Chúng ta biết, sau khi thống nhất đất nước, với sự tàn phá của bao năm chiến tranh, bên cạnh đó là sự cấm vận, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, đời sống người dân vô cùng khó khăn. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với vai trò độc quyền của nhà nước, vai trò thị trường không được thừa nhận, và cũng không thừa nhận “những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan”[4]. Tổng kết các mô hình phát triển kinh tế sáng tạo trong thực tiễn, Đảng ta đã khởi sướng đường lối đổi mới, với đột phá về đổi mới tư duy, trong đó trước hết là tư duy phát triển kinh tế. Bước chuyển đáng chú ý liên quan đến tiến trình nhận thức mối quan hệ này là việc khẳng định phải sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá-tiền tệ trong quản lý kinh tế, và “việc sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường”[5]. Như vậy đặc trưng của cơ chế quản lý kinh tế mới xem tính kế hoạch liên quan đến vai trò nhà nước là đặc trưng số một, thì xem sử dụng quan hệ hàng hoá-tiền tệ là đặc trưng thứ hai. Ở đây tuy chưa nói trực tiếp quan hệ giữa nhà nước và thị trường, nhưng về nội hàm của cơ chế quản lý kinh tế mới là phải xem trọng cả nhà nước và thị trường.

 

Đại hội VII có bước tiến lớn trong nhận thức khi khẳng định: “phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế-xã hội”[6]. Như vậy không thể tách rời giữa nhà nước với thị trường, mà phải gắn đi đôi với nhau. Đây chính là hai mặt của cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong quá trình xây dựng kế hoạch “phải lấy thị trường làm đối tượng và căn cứ quan trọng nhất”[7]. Rõ ràng giữa nhà nước và thị trường có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Tiếp theo tinh thần này Đại hội VIII đã tổng kết 6 bài học kinh nghiệm, trong đó bài học thứ ba nêu rõ: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

 

Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ trong 5 năm tới là “hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[8]. Đại hội X cũng nhấn mạnh “trong 5 năm tới, chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[9]. Để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đinh hướng XHCN, Đại hội nhấn mạnh trước hết phải nắm vững định hướng XHCN, và về nội dung cần tiến hành đồng thời trên cả 3 mặt:1) Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước; 2) Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản; 3) Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh.

 

Như vậy trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, không thể tách rời vai trò của nhà nước và thị trường. Bước tiến cụ thể trong nhận thức về mối quan hệ này là việc khẳng định tại Đại hội XI của Đảng (năm 2011): “Thực hiện tốt chức năng của nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường”[10]. Đây là lần đầu tiên trong văn kiện khẳng định về quan hệ nhà nước và thị trường. Trong mối quan hệ này, thực hiện chức năng quản lý, nhà nước giám sát thị trường, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường.

 

Tại Đại hội XII năm (2016), cùng với khẳng định các mối quan hệ đã được xác định trong Cương lĩnh (năm 2011), và bổ sung thêm quan hệ giữa nhà nước và thị trường, yêu cầu phải tạo sự đồng bộ giữa nhà nước và thị trường. Đến hội nghị TW5 (khoá XII) bổ sung thêm thành tố xã hội thành mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, đồng thời yêu cầu: “Tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức xã hội-nghề nghiệp tham gia vào các chương trình, dự an hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ”. Việc bổ sung thành tố xã hội cũng là xuất phát từ nhận thức của Đảng về vai trò của thành tố này trong suốt quá trình phát triển nền kinh tế thị trường. Như vậy, nhận diện mối quan hệ này là một quá trình tiến triển trong nhận thức trên cơ sở thực tiễn Đảng lãnh đạo quá trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước.

 

Thứ hai, nhận thức về vai trò thành tố nhà nước, thị trường và xã hội

Về vai trò của thành tố nhà nước, từ chỗ quản lý toàn diện các hoạt động của cả nền kinh tế, thậm chí với vai trò độc quyền như trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, dần sau đó là giảm bớt sự can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế. Phân biệt rõ hoạt động quản lý hành chính với quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, phân định rõ quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý kinh doanh của các dơn vị cơ sở. Ngay trong hoạt động quản lý kinh tế cũng chuyển sang các phương pháp kinh tế. Cụ thể ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định: ‘Nhà nước kiểm soát và điều khiển các xí nghiệp và đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế bằng pháp luật, chính sách kinh tế, chính sách tiến bộ kỹ thuật, thay cho sự can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp”, ‘phải phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính-kinh tế với quản lý sản xuất-kinh doanh”, ‘Bộ máy quản lý hành chính của bộ không được can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các xí nghiệp”[11].

 

Đại hội VII khẳng định: ‘Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế - xã hội bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác”[12] Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Đại hội VIII tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò nhà nước theo tinh thần của Đại hội VII và làm rõ hơn chức năng nhà nước trong quản lý kinh tế: ‘Nhà nước thực hiện tốt các chức năng: định hướng sự phát triển; trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết lập khuôn khổ pháp luật, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân; quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội”[13]. Nghị quyết còn nhấn mạnh: “Thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Các bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp”[14].

 

Đại hội IX đã tiến thêm xác định rõ định hướng đổi mới chính sách căn bản là: “Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”[15]. “Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng điểm bằng nguồn lực tập trung; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; xây dựng pháp luật và kiểm tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh”[16].

 

Tại Đại hội X đã có bước tiến lớn trong nhận thức lý luận, nêu rõ mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong mô hình này đã xác định rõ thêm phương thức thực hiên chức năng kinh tế của nhà nước: “Nhà nước tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển; bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật; giảm tối đã sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp”[17]. Bên cạnh đó nhấn mạnh cần: “Phân định rõ chức năng, mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong quản lý nhà nước về kinh tế và xã hội”[18].

 

Đại hội XI tiếp tục khẳng định quan điểm của Đại hội X và nhấn thêm vai trò nhà nước trong “phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế”[19]. Cho đến Đại hội XII, đã xác định rõ thêm một bước về chức năng và đặt yêu cầu xác định cơ chế giải quyết mối quan hệ: “nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường”[20].“Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước... đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế... Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường”[21].

 

Văn kiện Đại hội XIII cùng với khẳng định chức năng kinh tế, đã có một nét mới khi đề cập đến tạo môi trường cho các tổ chức xã hội và chỉ rõ hơn phương thức thực hiện chức năng quản lý kinh tế so với các Đại hội trước: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chu

 

 

Về vai trò của thị trường, thời kỳ đầu đổi mới, thị trường có vai trò rất hạn chế. Lúc này mặc dù thừa nhận sự tồn tại của thị trường tự do bên cạnh thị trường có tổ chức (lưu thông hàng hoá của thương nghiệp XHCN), hướng tiếp tục cải tạo xoá bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân và thu hẹp thương nghiệp nhỏ (thị trường) tự do. Đại hôi VII khẳng định: ”Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả”[23]. Thị trường được lấy làm đối tượng và là căn cứ quan trọng cho xây dựng kế hoạch. Đại hội VIII đã làm rõ nội hàm thị trường định hướng XHCN, xem đây là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản xuất và lưu thông. Các Đại hội IX, Đại hội X và Đại hội XI trên cơ sở tiếp nối khẳng định quan điểm về vai trò thị trường ở Đại hội VIII, đã nhấn mạnh phải phát triển đồng bộ các loại thị trường và vận hành thông suốt.

 

Đại hội XII có bước tiến trong nhận thức về vai trò của thị trường: ”Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường”[24]. Và Đại hội XIII tiếp tục cụ thể hơn: “Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém”[25].

 

Về vai trò của thành tố xã hội

Vai trò của thành tố xã hội trong quá trình đổi mới được hiểu giới hạn chung trong vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên, với vai trò chính là tham gia quản lý kinh tế, quản lý xã hội[26]. Đại hội VIII có nhấn thêm vai trò giám sát, phản biện: Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội: “tham gia với Đảng, nhà nước thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền, thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; góp phần tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và nhà nước”[27]

 

Đại hội IX, X và XI đã cụ thể hoá rõ hơn vai trò của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân. Góp sức xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh…xây dựng chủ trường, chính sách, pháp luật…”[28] và có “vai trò đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các chương trình kinh tế…thành hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân…thực hiên vai trò giám sát và phản biện xã hội”[29]. Hội nghị Trung ương 5 (khoá XII) lần đầu tiên nhắc đến thành tố xã hội trong quan hệ với nhà nước và thị trường, song lại chỉ nhấn đến vai trò thành tố này trong khu vực nhà nước. Chỉ đến Đại hội XIII mới khẳng định và mở rộng vai trò của các tổ chức xã hội nói chung: “Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”[30].

 

3. Kết quả trong thực tiễn

Cùng với bước tiến trong nhận thức, mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội đã từng bước được thể chế hoá, điều đó đã không chỉ giải phóng sự sáng tạo trong tư duy phát triển mà còn mở đường thúc đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong thực tế việc giải quyết mối quan hệ này đã có những kết quả chủ yếu như sau:

 

Thứ nhất, trên thực tế có sự chú ý phối hợp hơn giữa vai trò nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính sách. Cụ thể có sự tham gia và phân vai ngay trong quá trình xây dựng chủ trương, chính sách, do vậy tính khả thi chính sách cũng cao hơn, có sự đồng thuận của người dân. Nhà nước đồng hành, đối thoại, lắng nghe doanh nghiệp và người dân để có phản ứng chính sách phù hợp, giải quyết kịp thời những vướng mắc, bất cập của môi trường đầu tư kinh doanh. Doanh nghiệp và xã hội tham gia vào quá trình định hình chính sách ngày một rõ và hiệu quả. Đánh giá chung 35 năm đổi mới, Văn kiện đại hội lần thứ XIII khẳng định: ‘’Thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước được xác lập”[31], trong đó có mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội.

 

Trong thực tiễn xử lý mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội cũng đã làm rõ hơn các hình thái biểu hiện cụ thể của mối quan hệ này, nhất là xử lý mối quan hệ nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Đây là hình thái biểu hiện cơ bản nhất của mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội. Đã có nhiều quy định được hình thành để xử lý, điều tiết mối quan hệ nhà nước, doanh nghiệp và người dân; các diễn đàn doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhà nước; doanh nghiệp với người dân được tổ chức là một trong những cơ chế rất quan trọng cho giải quyết tốt mối quan hệ nhà nước, doanh nghiệp và người dân trên cơ sở tuân thủ các quy định luật pháp, tạo môi trường xã hội ổn định cho phát triển.

 

Bên cạnh đó là những kết quả trong giải quyết mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp dân doanh trong quá trình đầu tư phát triển cũng bảo đảm không chỉ nguyên tắc bình đẳng mà còn có sự định hướng rõ ràng. Các doanh nghiệp nhà nước tập trung đầu tư vào các lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, lĩnh vực gắn liền an ninh quốc gia... tạo nền tảng hạ tầng cho tăng trưởng; giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp tư nhân cũng có bước phát triển mạnh mẽ, hiện đóng góp trên 40% GDP, 30% ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và kéo dài từ đầu năm 2020 đến nay, các doanh nghiệp tư nhân tiếp tục phát huy sức mạnh nội tại và trở thành “lực kéo” quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp xã hội cũng được tạo điều kiện phát triển, nhất là từ năm 2014, Việt Nam chính thức bổ sung loại hình “Doanh nghiệp xã hội” trong Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) mở ra cơ sở pháp lý và điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này phát triển. Các doanh nghiệp này đã được khuyến khích đầu tư hướng đến giải quyết các vấn đề tồn tại của xã hội như đói nghèo, ô nhiễm môi trường, bảo vệ trẻ em… Trên thực tế, các doanh nghiệp tư nhân đã hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động. Như vậy có thể thấy mối quan hệ giữa 3 loại hình doanh nghiệp là một hình thái biểu hiện và cách thức xử lý mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội khá đặc thù ở Việt Nam gắn với vị trí, vai trò cụ thể của từng loại hình doanh nghiệp.

 

Đi liền với ba loại hình doanh nghiệp này là việc xử lý mối quan hệ giữa 3 nguồn lực đầu tư, từ các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp xã hội. Trong thực tiễn phát triển, nhà nước cũng đã có các chính sách để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư nhà nước và thúc đẩy gia tăng nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp tư nhân, cũng như các doanh nghiệp xã hội. Như vậy việc xử lý quan hệ nhà nước thị trường và xã hội cũng chính là việc xử lý phối hợp các nguồn lực cho tăng trưởng. Ở phương diện này chúng ta cũng đã có thành công. Cùng với việc gia tăng đầu tư công, các nguồn vốn xã hội cũng đã tăng trưởng. Vốn đầu tư công không chỉ là động lực quan trọng nhất hiện nay của tăng trưởng, mà còn là mồi dẫn, thúc đẩy nguồn vốn xã hội (ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp xã hội). Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn 2016-2020, kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được thực hiện với tổng mức vốn gần 2 triệu tỉ đồng, nhưng đã góp phần huy động vốn đầu tư xã hội đạt 9,2 triệu tỉ đồng. Điều này khẳng định tính chất “vốn mồi”, dẫn dắt và lan tỏa của đồng vốn đầu tư công, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế ở mức cao của nước ta giai đoạn 5 năm qua. 

 

Thứ hai, vai trò, chức năng của nhà nước được xác định rõ hơn và việc thực hiện ngày càng hiệu quả. Cụ thể:

- Nhà nước đã chú ý làm tốt chức năng định hướng phát triển kinh tế. Đây là chức năng quan trọng nhất của quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng. Trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan, Nhà nước định hướng phát triển cho nền kinh tế. Nhà nước sử dụng các công cụ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, các chương trình, dự án điều hành đồng bộ, bảo đảm các cân đối vĩ mô trong tiến trình phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, năng suất lao động xã hội được nâng lên rõ rệt; các lĩnh vực trọng tâm của nền kinh tế được cơ cấu lại theo hướng tích cực và đúng hướng.

 

- Đã thể chế hoá hóa đường lối, chủ trương tạo điều kiện, môi trường cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường. “Đã hình thành hệ thống pháp luật về kinh tế khá đầy đủ, tạo cơ sở pháp lý cho doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu hoạt động”[32].  Chẳng hạn như: Bộ luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật An toàn thực phẩm, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật lao động, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán, Luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), v.v…

 

- Đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: (i) Phân biệt chức năng quản lý Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở; (ii) Nhà nước "từ bỏ" hoạt động quản trị và can thiệp vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; (iii) Tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xoá bỏ “bộ chủ quản”; “chính quyền chủ quản” của doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời “xã hội hoá” một số nhiệm vụ của nhà nước; nhà nước mở các ngành, các lĩnh vực, trước đây được coi là độc quyền nhà nước, rút lui dần khỏi lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.

 

- Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước XHCN. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế kết hợp với điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa; giá cá hàng hóa, dịch vụ về cơ bản đã được quyết định bởi thị trường, theo quy luật thị trường. Cạnh tranh trên thị trường hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng; độc quyền trong kinh doanh, độc quyền thị trường và cạnh tranh không lành mạnh ngày càng được kiểm soát và có chiều hướng giảm. Tại Đại hội XII, khẳng định: “Vai trò của Nhà nước được điều chỉnh phù hợp hơn với cơ chế thị trường, về cơ bản đã thiết lập được khung pháp luật và bộ máy thực thi hiệu quả hơn”[33]. Tính từ đầu năm 2016 đến hết tháng 6/2020 Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 101 luật, pháp lệnh, nghị quyết, giảm 19 văn bản so với giai đoạn 2011-2015. Chính phủ ban hành khoảng 688 nghị định, giảm 33 nghị định so với giai đoạn 2011-2015. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật giảm và chuyển dần theo hướng nâng cao chất lượng và hoàn thiện đáp ứng nhu cầu của đời sống kinh tế-xã hội.

 

Ba là, vai trò, chức năng của thị trường cũng ngày càng được coi trọng, thể hiện rõ nét ở những điểm sau:

- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. nhiều rào cản tham gia thị trường được gỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động”[34].

 

- Quy mô và cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường vốn cổ phần và trái phiếu, thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ phi tín dụng; thanh toán bằng tiền mặt giảm dần, các hình thức thanh toán qua ngân hàng được mở rộng. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và thị trường khoa học công nghệ được chú trọng và dần hoàn thiện và phát triển hơn như hình thành các tổ chức, trung tâm tư vấn, các sàn giao dịch…

 

- Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường là căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. Hiện nay, Nhà nước thông qua cơ chế thị trường, đang chuyển sang khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân, không phải với tư cách là một nguồn thay thế, mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng và các dịch vụ xã hội.

 

- Thị trường tham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.

 

Bốn là, Kinh tế nhà nước từng bước phát huy vai trò chủ đạo; Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn”[35]. Số lượng doanh nghiệp nhà nước được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã có bước đổi mới theo hướng tự chủ kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch hơn. Hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp nhà nước được nâng lên. Từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, trong đó về mặt tổ chức đã thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, qua đó khắc phục những tồn tại, hạn chế của mô hình thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước hiện nay. Chúng ta đã sắp xếp lại đơn vị sự nghiệp công lập, chuyển từ thu phí sang hình thành giá dịch vụ theo cơ chế thị trường.

 

Năm làkhu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành công của quá trình xử lý quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong những năm vừa qua. Trên thực tế “Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn và trở thành một động lực quan trong thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước”[36]. Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh với nhiều loại hình đa dạng, có những doanh nghiệp, tập đoàn lớn có khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, có thương hiệu và năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

 

Sáu là, phát triển các doanh nghiệp xã hội và các tổ chức chính trị-xã hội 

Phát triển doanh nghiệp xã hội (DNXH) là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. DNXH đã phát triển đa dạng, có sức ảnh hưởng đến chính sách của nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Theo Báo cáo nghiên cứu hiện trạng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam[37], lĩnh vực phổ biến nhất mà các DNXH Việt Nam hoạt động là nông nghiệp - chiếm 35%; tiếp theo là y tế (9%), giáo dục (9%) và môi trường (7%); chăm sóc trẻ em 5%; việc làm và kỹ năng 4%; bán lẻ 4%; hỗ trợ kinh doanh 3%; ngành công nghiệp (web; thiết kế, in ấn) 2%; chăm sóc sức khỏe 2%; hỗ trợ tài chính và dịch vụ 2%; chăm sóc xã hội 2%; giao thông 2%; văn hóa và giải trí 1% và các lĩnh vực khác chiếm 35%.

 

Cùng với đó, các tổ chức chính trị - xã hội thời gian qua đã đóng vai trò không nhỏ trong mối quan hệ giữa ba bên, vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên, vừa thực hiện vai trò cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh các tổ chức chính trị - xã hội, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội này đang ngày càng nhiều, với các hình thức tổ chức phong phú, như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động bảo trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Các hội đã tập hợp đông đảo hội viên tham gia các tổ chức trên hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngành, nghề và thể hiện được vai trò của mình với tư cách lực lượng xã hội, cụ thể như tham gia thực hiện dân chủ ở cơ sở; hỗ trợ các hoạt động kinh tế; tham gia xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện luật pháp, chính sách kinh tế... Hoạt động của các hội đã có những hình thức và nội dung mới phù hợp với lợi ích của hội viên trong cơ chế thị trường, nâng cao trình độ nghề nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, kể cả quyền lợi của hội viên khi có quan hệ kinh tế với nước ngoài; đóng góp ý kiến với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hội viên; cùng Nhà nước chăm lo những vấn đề xă hội, trước hết là trong lĩnh vực hoạt động nhân đạo, từ thiện...

 

4. Kết luận

Thứ nhất, có thể thấy quá trình nhận thức về mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội là quá trình đổi mới tư duy trên cơ sở nghiên cứu tiếp thu kinh nghiệm thế giới và trong thực tiễn điều hành, tổng kết sự vận động phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hơn 35 năm qua. Nhận thức đã thống nhất xem đây là một trong những mối quan hệ lớn, quan trọng, cần giải quyết đúng nhằm tạo động lực phát triển. Đồng thời cũng đã xác định vai trò chức năng của từng thành tố: nhà nước, thị trường và xã hội. Đảng ta cũng chỉ rõ cần phải đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trò của các thành tố. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để giải quyết mối quan hệ này trong thực tiễn. Việc nhận thức ngày càng rõ vị trí, vai trò mối quan hệ cũng như vị trí, vai trò của từng thành tố trong mối quan hệ ba bên có ý nghĩa rất quan trọng góp phần hoàn hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, cũng  như góp phần làm rõ một trong ”những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng”, đó chính là quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội.

 

Việc khẳng định sư tồn tại và vận hành mối quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế, cũng chính là minh chứng cho sự phát triển hợp quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường.

 

Khẳng định mối quan hệ nhà nước thị trường và xã hội với vai trò cụ thể của thành tố, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng và thành tố xã hội có vai trò quan trọng tham gia quản lý phát triển kinh tế - xã hội, bổ trợ và giám sát nhà nước cùng thị trường, là nét đặc thù riêng có trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam. Điều này xuất phát từ bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN, nó không chỉ chịu tác động của hệ quy luật kinh tế thị trường mà còn bởi các quy luật kinh tế của CNXH và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước XHCN.

 

Thứ hai, bên cạnh bước tiến trong nhận thức, cùng kết quả trong thực tiễn, cũng cần thấy rằng, xung quanh nhận thức về mối quan hệ và vai trò, chức năng của các thành tố cũng còn cần được tiếp tục đầu tư nghiên cứu làm rõ. Cụ thể là: cần tiếp tục làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của mỗi quan hệ nhà nước-thị trường- xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong việc xác định chức năng đã đề cập nhiều đến chức năng nhà nước và thị trường, tuy nhiên chức năng của thành tố xã hội, chưa được luận giải thực sự rõ. Hơn nữa, trong quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội, để giải quyết đúng, tốt hiện đang đặt ra yêu cầu phải phân rõ chức năng, vai trò của các thành tố. Tuy nhiên, bản thân nhà nước, thị trường và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đều đang trong quá trình vận động, phát triển hoàn thiện. Và vì vậy bản thân vai trò của chúng cũng sẽ được thay đổi ngay trong chính tiến trình phát triển của kinh tế thị trường, vậy liệu có thể phân định rõ vai trò các thành tố, hay chỉ xác định khung cho từng giai đoạn. Bản thân ở mỗi trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, vai trò các thành tố cũng có những nét riêng. Do vậy, có ý kiến cho rằng, không chỉ xác định vai trò, chức năng các thành tố và quan hệ giữa chúng phù hợp với kinh tế thị trường, mà là phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp tương tác giữa các thành tố này ra sao nhằm tạo hợp lực cho quá trình phát triển cũng cần được làm rõ hơn.

 

PGS, TS, Vũ Văn Hà, Thư ký khoa học HĐLLTW

 

Tài liệu tham khảo chính

1.Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, H. 2005

2. Văn kiện Đại hội X, XI, XII và XIII, Nxb Chính trị quốc gia, các năm 2006, 2011, 2016, 2021

3. Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương: Những thành công lớn của các Đại hội trong thời kỳ đổi mới (1986-2006), H.2006

4. Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb, Chính trị quốc gia Sự thật, H.2022

5. Nguyễn Phú Trong (chủ biên): Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trogn quá trình đổi mưới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị quôc sgia, H.2011.

6. Vũ Văn Hà, Đoàn Minh Huấn (đồng chủ biên): Mối quan hệ nhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHXN: Thực trạng, vấn đề và định hướng chính sách, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2020.

7.Vũ Văn Hà: Chế định phù hợp và hiệu quả quan hệ nhà nước, thị trường và xã hội trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/%E2%80%8... ngày 23/12/2018   

 

[1] Về bản chất mối quan hệ, nội dung, nguyên tắc xử lý cũng như những vấn đề đặt ra cùng giải pháp để giải quyết mối quan hệ này trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chung tôi đã có dịp bàn đến trong Chuyên đề: Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản- Chuyên đề, số 1, năm 2021.

[2] Nghị quyết TW 5 Khoá XII về hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, VP TW, H. 2017, tr.28

[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021. tr.130

[4]  Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr. 26

[5]  Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr. 65

[6]  Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.262

[7] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.277

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr.101

[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006, tr.25

[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb, Chính trị quốc gia, H. 2011, tr.140

[11] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr. 69, 125, 127

[12] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.263

[13] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.487

[14]  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 1996, tr. 104

[15] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 88

[16] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 193

[17] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006, tr. 26-27

[18] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006, tr. 80

[19] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 206

[20] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, H. 2016, tr. 103

[21] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, H. 2016, tr. 175-1976

[22]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr. 274

[23] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.274

[24] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, H. 2016, tr. 103

[25]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr. 131

[26] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H,2005, tr.299

[27] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2005, tr.509

[28] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2005, tr.672

[29] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006, tr. 43

[30]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021, tr.131

[31]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.102.

[32] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.31

[33]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.31

[34] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.60

[35] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.60

[36]Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr.210

[37] http://www.ncif.gov.vn/Pages/NewsDetail.aspx?newid=21874

Tin Liên quan

Góp ý về nội dung bài viết