I. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
1. Nhận thức về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
(1) Bản chất của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Cương lĩnh năm 1991 đã khẳng định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải đựơc thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội thông qua hoạt động của Nhà nuớc do nhân dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp”[1]. Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đều vì mục đích bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
(2) Nội dung của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
- Về mối quan hệ của Đảng với Nhà nước và nhân dân, Cương lĩnh năm 1991 chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống chính trị ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[2].
Đến Cương lĩnh năm 2011, Đảng ta khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò, phương thức lãnh đạo, mối quan hệ của Đảng trong hệ thống chính trị và nhân dân: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[3].
- Về mối quan hệ của Nhà nước với Đảng và nhân dân, Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn các cơ quan luật pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của nhà nước.
Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân”[4].
Thuật ngữ “xây dựng Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được đề cập tại Nghị quyết Trung ương hai khóa VII (năm 1994): “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[5].
Đến Cương lĩnh năm 2011, Đảng ta xác định rõ bản chất của Nhà nước, nguyên tắc hoạt động của Nhà nước, mối quan hệ của Nhà nước với Đảng và nhân dân: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân”[6].
Các đại hội sau đó tiếp tục phát triển quan điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các đặc trưng cơ bản sau:
Một là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là, quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Ba là, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hành động của Nhà nước. Bộ máy của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí và hiệu lực tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội.
Bốn là, bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người, quyền công dân và không ngừng hoàn thiện cơ chế pháp lý thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước tôn trọng và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh, có thiện chí các điều ước quốc tế mà Nhà nước đã ký kết hoặc thừa nhận.
Sáu là, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Về mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước: Nhân dân làm chủ được xác định là mục tiêu cao nhất trong hoạt động của Đảng và Nhà nước. Quyền lực của Đảng và quyền lực của Nhà nước đều bắt nguồn, ra đời, tôn trọng và phát triển từ quyền lực của nhân dân. Đại hội X đã nhận thức đầy đủ hơn, rõ ràng hơn, sâu sắc hơn về dân chủ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện qua mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân”[7]. Đến Cương lĩnh năm 2011, Đảng ta xác định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”[8]. Đồng thời, Cương lĩnh năm 2011 đã xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là “do nhân dân làm chủ” chứ không phải chỉ là “do nhân dân lao động làm chủ”. Cương lĩnh năm 2011 cũng xác định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”[9].
Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ngày càng được cụ thể hóa hơn qua các kỳ đại hội.
Bên cạnh đó, nhận thức về mối quan hệ này vẫn còn những điểm chưa rõ. Chưa có nhận thức thống nhất và rõ ràng giữa Đảng cầm quyền và Đảng lãnh đạo. Chưa nhận thức đầy đủ và phân biệt rõ ràng quyền lãnh đạo và quản lý. Nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” được ghi nhận trong Cương lĩnh năm 2011 và Hiến pháp năm 2013, nhìn chung chưa được nhận thức sâu sắc, đầy đủ.
2. Tình hình giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
(1) Đảng giữ vững được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.
Nội dung và phương thức lãnh đạo ngày càng được đổi mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố định hướng sự tồn tại và phát triển mối quan hệ giữa ba thành tố: Đảng - Nhà nước - Nhân dân. Các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đề ra trong Cương lĩnh được thực hiện trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế theo hướng vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Nhà nước đã thực hiện tốt hơn vai trò quản lý của mình. Thể chế hóa Cương lĩnh năm 2011, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định Nhà nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, “tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”, “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Đây là lần đầu tiên ở nước ta đã có sự phân công một cách mạch lạc giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và kiểm soát quyền lực trở thành một nguyên tắc hiến định. Tổ chức bộ máy đã được sắp xếp tinh gọn hơn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.
(2) Giải quyết ngày càng tốt hơn quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Đảng đã thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình. Tình trạng bao biện, làm thay Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội đã giảm dần ở nhiều cấp ủy; đã từng bước nâng cao vai trò chủ động và phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước ta.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng phát huy được vai trò của mình trong việc tập hợp, đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào cách mạng, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và nâng cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư.
Việc ban hành và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã phường, thị trấn và các văn bản pháp quy khác đã góp phần tích cực vào quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân, theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, làm cho dân chủ trong xã hội có bước phát triển toàn diện.
Bên cạnh đó việc giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ cũng còn những hạn chế, khuyết điểm. Quyền lực chính trị của Đảng cả trong điều lệ của Đảng và cả trong pháp luật của Nhà nước vẫn chưa được thể chế hóa, nhất là quyền và trách nhiệm của tổ chức đảng và cá nhân đứng đầu tổ chức đảng chưa rõ. Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bao gồm cả cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong theo luật định, đến nay chưa được chế định đầy đủ và chưa hoàn thiện.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ của sự phát triển. Một số quyền dân chủ trực tiếp của công dân được Hiến pháp ghi nhận vẫn chưa được thể chế hóa. Quyền làm chủ của nhân chưa được thực hiện tốt. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ vẫn còn hạn chế hoặc mang tính hình thức. Bên cạnh đó, tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
II. Nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Các thế lực thù địch đưa ra nhiều quan điểm sai trái, thù địch về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Một cách khái quát có thể nêu ra các quan điểm sau:
1. Về vai trò lãnh đạo của Đảng
Chúng cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều sai lầm trong quá khứ và dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”. “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội” tức là theo chế độ đảng trị = đảng chủ”. “Thể chế Việt Nam hiện nay là không phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”. Đưa ra các lập luận về Đảng cần phải “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; suy luận “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị”, “không thể chống tham nhũng thành công”.... Nói tóm lại, chúng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Về vai trò quản lý của Nhà nước
Chúng cho rằng “Hiến pháp Việt Nam là không chính danh, chỉ là điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam độc tài, toàn trị”. Cho rằng “Cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta”. Đánh giá thấp vai trò quản lý của Nhà nước.
3. Về nhân dân làm chủ
Chúng cho rằng nước ta không có dân chủ, cổ súy cho “xã hội dân sự”. Chẳng hạn, nhân dịp Đảng ta kỷ niệm 89 năm Ngày thành lập (03/02/1930-03/02/2019), chúng phát tán tài liệu “ 89 năm những đọa đầy dân tộc”, “thân phận đảng viên”... Chúng cho rằng “suốt 89 năm có đảng, thật sự dân ta đã sống dưới sự đọa đầy vô cùng khắc nghiệt”, v.v..
III. Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Xin nêu những luận cứ chủ yếu phê phán một số quan điểm sai trái, thù địch về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
1. Luận cứ khẳng định một đảng duy nhất cầm quyền - sản phẩm tất yếu của thực tiễn chính trị - xã hội Việt Nam
Một chế độ nhất nguyên hay đa nguyên về chính trị do một loạt nhân tố quy định, trong đó nổi lên là: tương quan lực lượng giữa các giai cấp; bối cảnh xác lập vị trí lãnh đạo, vai trò cầm quyền của đảng; những thành tựu đạt được dưới sự lãnh đạo của đảng.
Một là, tương quan lực lượng giữa các giai cấp
Đây là nhân tố hoàn toàn khách quan, độc lập với ý chí của mọi chủ thể hoạt động chính trị. Khi tương quan lực lượng khách quan buộc phải đa nguyên về chính trị mà không thực hiện là một sai lầm. Ngược lại, khi tương quan lực lượng cho phép giữ nhất nguyên về chính trị mà lại thực hiện đa nguyên chính trị cũng là sai lầm rất lớn. Ở Việt Nam, năm 1946, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn sách lược chấp nhận sự tồn tại hợp pháp của hai đảng đối lập (Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam cách mạng đồng chí Hội), trao cho hai đảng này 72 ghế trong Quốc hội. Hai đảng này giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Lúc đó, do hoàn cảnh chúng ta chấp nhận đa nguyên về chính trị.
Từ những năm 40 đến những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam còn có hai đảng là Đảng Dân chủ Việt Nam (ra đời ngày 30/6/1944 và tự giải tán vào ngày 20/10/1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (ra đời ngày 22/7/1946 và tự giải tán vào ngày 22/7/1988). Cả hai đảng này đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, bối cảnh xác lập vị trí lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc theo các khuynh hướng khác nhau đều thất bại do thiếu đường lối đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước, cứu dân.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Đảnh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ (tháng 7/1954). Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975).
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã giải quyết thành công con đường phát triển đất nước sau ngày 30/4/1975.
- Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Ba là, nhờ lãnh đạo nhân dân ta đạt được những thành tựu vĩ đại, Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân suy tôn là đảng duy nhất có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền ở Việt Nam.
Trong diễn văn Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930-3/2/2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Thực tiễn phong phú sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Thực tiễn đó khẳng định: Ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm và uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2. Luận cứ phê phán quan điểm cho rằng một đảng không có dân chủ
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Dân chủ là thành quả đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động. Dân chủ không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng. Trong điều kiện đa đảng cũng không có dân chủ. Và trong điều kiện một đảng cũng có thể dẫn đến mất dân chủ.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ. Theo Người dân chủ tức là “dân là chủ” và “dân làm chủ”.
- Trong các văn kiện Đảng đều nhấn mạnh đến phát huy dân chủ.
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa, chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng, trở thành phổ biến. Nhưng trong thực tế, dân chủ trong các nước tư bản chủ nghĩa mang bản chất giai cấp tư bản sâu sắc, nhân dân lao động không được thực hiện dân chủ thực chất, đầy đủ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được thực hiện ngày càng tốt hơn (như đã đề cập ở trên).
3. Luận cứ phê phán quan điểm cho rằng “Việt Nam hiện nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”
- Chủ nghĩa toàn trị là một thuật ngữ để mô tả một thể chế chính trị, trong đó nhà nước áp đặt chế độ chuyên chế, độc đoán, áp đặt mọi hành vi cá nhân và cộng đồng trên mọi khía cạnh. Chủ nghĩa toàn trị là một thể chế chính trị độc đoán, ép buộc, huy động toàn thể dân chúng vào việc bảo vệ hệ tư tưởng, mục đích của nhà nước và không khoan nhượng đối với những hoạt động đi ngược lại hệ tư tưởng, mục tiêu của nhà nước.
- Thể chế chính trị của Việt Nam không thể gọi là thể chế chính trị toàn trị. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã hết lòng vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì lợi ích của nhân dân.
Ngay từ việc xây dựng Hiến pháp - nền tảng pháp lý để xây dựng thể chế chính trị, Nhà nước Việt Nam công khai cho toàn thể nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam đều được nhân dân tự do lựa chọn bầu ra bằng hình thức phổ thông đầu phiếu. Quốc hội cũng ban hành Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân để bảo đảm quyền và việc bầu cử của nhân dân được thực hiện tốt trên thực tế.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có lực lượng công an, có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm chứ không phải trấn áp nhân dân.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam không đứng trên Nhà nước, đứng trên xã hội.
- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước về bản chất thuộc về nhân dân.
- Đảng và Nhà nước ta thẳng thắn thừa nhận khuyết điểm trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và đề ra giải pháp để sửa chữa.
4. Luận cứ phê phán quan điểm cho rằng “cần thực hiện tam quyền phân lập trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta”
- Tam quyền phân lập chứa đựng nhiều yếu tố bất hợp lý. Việc đề cao sự phân quyền, “kiểm soát - đối trọng” một cách tuyệt đối đã làm mất đi vai trò giám sát của nhân dân. Việc áp dụng thuyết phân quyền tuyệt đối ở các nước tư bản dẫn đến nạn tranh giành quyền lực thường xuyên giữa các đảng chính trị, các nhóm xã hội khác nhau để nắm một quyền hay toàn bộ quyền lực nhà nước. Trên thực tế, các nước tư bản hiện nay đang có xu hướng điều chỉnh, vận dụng thuyết phân quyền theo hướng phân công quyền lực, không như việc áp dụng thuyết tam quyền phân lập như ban đầu của nó.
- Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Vì sao Việt Nam không thực hiện tam quyền phân lập tuyệt đối?
+ Tam quyền phân lập không phù hợp với truyền thống văn hoá và tâm lý dân tộc Việt Nam. Suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam là một dân tộc luôn đoàn kết trong đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết, thống nhất vì mục tiêu chung đã trở thành truyền thống, giá trị văn hoá, ăn sâu trong tiềm thức và lối sống của dân tộc ta. Vì vậy, việc tách bạch các quyền một cách tuyệt đối hoàn toàn xa lạ với truyền thống văn hoá và tâm lý dân tộc ta.
+ Việt Nam đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố hợp lý của thuyết tam quyền phân lập.
Cương lĩnh năm 1991 xác định: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó”[10]. Đến Cương lĩnh năm 2011, Đảng ta xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[11].
Như vậy, Nhà nước ta không thừa nhận tam quyền phân lập trong tổ chức bộ máy nhà nước, nhưng đã xác định phân công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sự phân công rành mạch ba quyền này không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyên nghiệp hoá các quyền, mà còn tạo ra cơ sở để kiểm soát hiệu quả việc thực hiện các quyền của các cơ quan. Hiến pháp năm 2013 đã có một chương riêng về các thiết chế hiến định độc lập.
- Trong điều kiện nước ta một Đảng lãnh đạo, việc thực hiện quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, phù hợp với thể chế chính trị Việt Nam.
5. Luận cứ phê phán quan điểm cổ súy cho “xã hội dân sự”
- Cần nhận diện rõ vấn đề “xã hội dân sự”.
Xã hội dân sự là tập hợp các mối quan hệ (và các thiết chế tương ứng) giữa các cá nhân trong khuôn khổ một quốc gia - dân tộc, được xác định với những đặc điểm cơ bản: tính tự quyết, tính phi lợi nhuận, tính tự quản. Xã hội dân sự được xem là lĩnh vực nằm bên cạnh và độc lập với thị trường và nhà nước, không chịu sự tác động đến từ cả thị trường và nhà nước .
Xã hội dân sự là “những hoạt động tập thể tự nguyện”. Những hoạt động này mang tính chất tập thể. Chúng mang tính tự nguyện, dựa trên những nguyên tắc đạo đức được chia sẻ và không bị ép buộc.
Xã hội dân sự phân biệt với thị trường bởi tính chất phi lợi nhuận trong các hoạt động của nó.
Xã hội dân sự có giá trị nhân văn, đạo đức, có thể góp phần phát triển xã hội nếu xã hội dân sự được quản lý và phát huy tốt các chức năng của nó.
Mặt khác, xã hội dân sự có tính tổ chức khá lỏng lẻo, dễ tổn thương, dễ mất kiểm soát và rơi vào hỗn loạn, dễ bị lợi dụng vì mục đích chính trị.
- Nhận thức rõ bản chất của việc lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” ở nước ta.
Trong bối cảnh hiện nay, “xã hội dân sự” được nhìn nhận là một vấn đề chính trị, xã hội hết sức phức tạp. Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch đã và đang lợi dụng vấn đề “xã hội dân sự” để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam. Chúng đang ráo riết tiến hành các hoạt động sau:
+ Tuyệt đối hóa tính “độc lập” tương đối của xã hội dân sự với Nhà nước. Xã hội dân sự được đề cao, tuyệt đối hóa, được mô tả như là mô hình xã hội nhân đạo, tốt đẹp, dân chủ; ngược lại, Nhà nước là cơ quan bảo thủ, chuyên chế và cưỡng bức.
+ Lợi dụng xã hội dân sự để đòi hỏi Nhà nước ta phải bảo đảm quyền tự do vô giới hạn trong các lĩnh vực.
+ Lợi dụng viện trợ, quan hệ kinh tế, thương mại, ngoại giao để gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, đòi thành lập các hội, các tổ chức độc lập về chính trị; tác động và gây sức ép đòi thay đổi đường lối, chính sách, hệ thống pháp luật và lĩnh vực tư pháp.
+ Lôi kéo quần chúng vào các tổ chức “xã hội dân sự chính trị” để thực hiện các hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước, như: “Hội Cựu tù nhân lương tâm”, “Hội Phụ nữ nhân quyền”, “Hội Anh em dân chủ”, “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Hiệp hội dân oan Việt Nam”, “Kiến nghị 72”, “Tổ chức Việt Tân”...
IV. Kiến nghị một số giải pháp giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Để giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp sau:
1. Tiếp tục nghiên cứu làm rõ mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu, rộng.
2. Nhận thức và thực hiện tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ cần phải hiểu sâu sắc và thực hiện tốt nguyên lý cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”, “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “Công cuộc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của nhân dân”. Vì vậy “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
3. Trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và vai trò chủ thể của nhân dân, cần hoàn thiện và chế định rõ cơ chế nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân, trong đó thể hiện rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo chính trị, trách nhiệm giải trình của từng tổ chức đảng, từng cấp ủy đối với các tổ chức nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước hoạt động và quản lý phát triển xã hội theo nguyên tắc pháp quyền, thượng tôn pháp luật; cụ thể hóa, thể chế đường lối, chủ trương, định hướng chính sách của Đảng, ban hành hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, công cụ và các giải pháp quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực. Vai trò làm chủ của nhân dân được chế định rõ ở quyền hạn và trách nhiệm tham gia giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến xây dựng Đảng và Nhà nước; thể hiện sự tín nhiệm đối với sự lãnh đạo của các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, đối với các cơ quan quản lý nhà nước các cấp và đội ngũ cán bộ, công chức; thể hiện ở việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân theo nguyên tắc đã được hiến định trong Hiến pháp năm 2013.
4. Không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân. Đây là giải pháp quan trọng nhất để bác bỏ các quan điểm sai trái về mối quan hệ này.
5. Tiếp tục xây dựng các luận cứ khoa học, kịp thời phê phán quan điểm sai trái, thù địch về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ./.
PGS.TS Nguyễn Viết Thông
Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận TW
[1]Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, HN, 2007, t.51, tr.145.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.147.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, tr.88-89.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr.51, tr.145.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chinh trị quốc gia, HN, 2007, t.53, tr.224.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.85-86.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 2006, tr.125.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.84-85.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.85.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, HN, 2007, t.51, tr.146.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, HN, 2011, tr.85.