1. Nhận thức của Đảng ta về độc lập, tự chủ trong bối bối cảnh hội nhập quốc tế
Quan điểm của Đảng ta về độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế trong gần 35 năm đổi mới được thể hiện qua mỗi kỳ Đại hội của Đảng. được ghi trong các vắn kiện Đại hội Đảng, trong các nghị quyết và văn kiện các hội nghị của Trung ương.
Đại hội VI (năm 1986) chủ trương “tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”[1].
Đại hội VII (năm 1991) khẳng định: “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt của cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”[2]. Về quan hệ đối ngoại, Đại hội VII đề ra nhiệm vụ “tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…”[3].
Đại hội VIII (năm 1996) mở rộng cách tiếp cận tới độc lập, tự chủ từ nâng cao ý thức độc lập, tự chủ đến yêu cầu tạo lập được một vị thế độc lập, tự chủ bao gồm “độc lập, tự chủ về kinh tế, quốc phòng, an ninh”[4], sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập…” và “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế”[5].
Đại hội IX (năm 2001) xác định: “ Xây dựng kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế”[6]. Như vậy, nội hàm độc lập, tự chủ về kinh tế cũng như phương cách giữ vững độc lập, tự chủ kinh tế đã được xác định rõ hơn.
Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX nhấn mạnh: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia.
Bài học kinh nghiệm đầu tiên Đại hội X (năm 2006) rút ra là: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[7]. Đại hội XI (năm 2011) khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”[8]. Đến đây, khái niệm “độc lập, tự chủ” đã được thay cho khái niệm “độc lập tự chủ” để thể hiện đúng hai mặt “độc lập” và “tự chủ” của “chủ quyền quốc gia”. Đại hội XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[9].
2. Nhận thức của Đảng ta về hội nhập quốc tế
Quan điểm của Đảng về hội nhập có sự phát triển liên tục trong những năm qua, phản ánh thực trạng hội nhập của Việt Nam cũng như yêu cầu ngày càng cao của Đảng đối với công tác hội nhập quốc tế để tương xứng với mục tiêu, nhiệm vụ của từng thời kỳ.
Một cách khái quát nhất, Đảng ta coi hội nhập quốc tế như là quan hệ quốc tế ở mức cao hơn, nhất là thông qua các cơ chế song phương và đa phương. Với cách hiểu đó, Việt Nam đã bắt đầu tham gia hội nhập quốc tế ngay sau khi thống nhất đất nước, với trọng tâm là Liên Xô và các nước Đông Âu, tham gia các thoả thuận trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV). Hội nhập quốc tế gắn liền với quan hệ kinh tế, nhất là hợp tác quốc tế. Càng mở rộng quan hệ quốc tế, cả đa phương và song phương, là càng mở rộng quy mô hội nhập quốc tế. Hiệu quả hội nhập quốc tế được đánh giá chủ yếu bằng quy mô quan hệ quốc tế của Việt Nam.
Quan điểm về hội nhập quốc tế được tiếp tục phát triển với nhận thức coi hội nhập là liên kết quốc tế gắn với việc gia nhập, và tham gia các tổ chức, các định chế đa phương ở tất cả các cấp độ: tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu.
Đến Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”[10]. Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm ưu tiên, việc gia nhập thị trường thế giới và tham gia các thoả thuận thương mại đa phương là một bước đi của chủ động hội nhập. Hiệu quả hội nhập, nhất là hội nhập kinh tế được đánh giá bằng kết quả mở rông thị trường xuất khẩu và kinh tế đối ngoại, cũng như số lượng, sự đa dạng về địa lý, thành phần, chức năng, lĩnh vực của các tổ chức, cơ chế đa phương mà Việt Nam tham gia, cùng chiều sâu mà Việt Nam tham gia cac cơ chế này. Nền tảng của tư duy hội nhập gắn với sự tham gia của Việt Nam vào các cơ chế đa phương bắt đầu từ Đại hội VII với chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại mà Việt Nam gia nhập hàng loạt các cơ chế đa phương như ASEAN, ASEM, APEC, WTO,…
Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”[11]. Tại Đại hội X (năm 2006), Đảng đã nêu chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác… Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước... Chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương”[12]. Đó chính là cơ sở và là bước tiếp cận mới để Đại hội XI khẳng định tính toàn diện của hội nhập: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10-4-2013 của Ban Chấp hành Trung ương về hội nhập quốc tế khẳng định: hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước.
Với chủ trương này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà phát triển thành “hội nhập quốc tế”, mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội... Đây là bước chuyển biến rất quan trọng, rất căn bản trong tư duy của Đảng về hội nhập quốc tế.
Quan điểm mới của Đảng trong những năm gần đây coi hội nhập là việc Việt Nam trở thành thành viên chủ động, tích cực của cộng đồng các quốc gia trên thế giới; Việt Nam cần và có thể tham gia góp phần định hình môi trường quốc tế thông qua xác lập các “luật chơi” chung, góp phần cùng cộng đồng quốc tế thúc đẩy các xu thế phát triển tiến bộ và có lợi cho cộng đồng. Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh đến các phương châm đưa Việt Nam “chủ động, tích cực, có trách nhiệm” trong ASEAN, một Việt Nam “Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc”. Quan điểm này thể hiện bước chuyển của Đảng nhấn mạnh bản chất và nội dung của hội nhập hơn là hình thức thể hiện hội nhập. Tiếp tục quan điểm này, Đại hội XII khẳng định nhiệm vụ của công tác đối ngoại là: “tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”. Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 18-02-2019 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030, chủ trương Việt Nam nâng cao vai trò “nòng cốt, dẫn dắt, hoà giải” trên trường quốc tế.
Vậy là, từ chủ trương tranh thủ cơ hội của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật để tham gia phân công hợp tác quốc tế, đẩy mạnh quan hệ kinh tế với khu vực và các nước trên thế giới, đến mức cao hơn là tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, và một số lĩnh vực khác, tới nay, Đảng ta chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực.
Cùng với phát triển nhận thức về hội nhập, nhận thức về mục đích của hội nhập cũng có bước phát triển. Sau khi thống nhất đất nước, Đảng chủ trương hội nhập với Liên Xô - Đông Âu chủ yếu nhận được sự ủng hộ về kinh tế và chính trị của phe xã hội chủ nghĩa phục vụ việc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Mở rộng hội nhập, đồng thời tranh thủ hợp tác và trợ giúp quốc tế trên cơ sở lợi ích.
Sau Chiến tranh Lạnh kết thúc, Đảng ta coi “đa dạng hoá, đa phương hoá” là biện pháp nhằm phá thế bao vây, cấm vận, tranh thủ nguồn lực quốc tế và mở rộng thị trường xuất khẩu. Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế nhăm mục tiêu đó. Từ Đại hội XI, hội nhập có thêm nhiệm vụ nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Mở rộng hội nhập, do vậy, đồng nghĩa với việc tăng cường tham gia và có tiếng nói tại các tổ chức khu vực, diễn đàn đa phương, nhất là các tổ chức, diễn đàn thiên về kinh tế, thương mại, phát triển. Hội nhập là phương tiện tìm kiếm và thúc đẩy lợi ích, là việc chọn sân chơi và luật chơi phù hợp để Việt Nam tham gia.
Hiện nay, hội nhập toàn diện cả chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh được Đảng coi là biện pháp hữu hiệu vừa để bảo vệ, vừa thúc đẩy lợi ích quốc gia, dân tộc. Hội nhập tạo ra môi trường đối thoại thuận lợi, “chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương, tức là tạo ra hoặc tác động vào quá trình thảo luận, hình thành các “sân chơi”, “luật chơi” phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, chủ động đẩy xa các nguy cơ hay “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Hội nhập là công cụ, biện pháp thiết lập chuẩn mực và giá trị quan hệ quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia.
Qua các kỳ Đại hội, Đảng chỉ ra nhiều nguyên tăc, phương châm, công cụ, biện pháp hội nhập quóc tế qua các thời kỳ, nhằm hướng dẫn việc triển khai các chủ trương, nhận thức của Đảng về hội nhập. Các nguyên tắc và phương hướng hội nhập là:
- Lợi ích quốc gia là mục tiêu tối thượng của hội nhập quốc tế, phải xử lý linh hoạt, khôn khéo mối quan hệ đối tác và đối tượng; hợp tác và đấu tranh, bảo đảm độc lập, tự chủ và lợi ích quốc gia, dân tộc trong hội nhập. Trong quá trình hội nhập, phát huy tối đa nội lực, đi đôi với thu hút có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đất nước. Hội nhập nhưng không hoà tan, bảo đảm giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
- Nhà nước là chủ thể chính, có vai trò dẫn dắt xã hội trong tiến trình hội nhập quốc tế, song không phải là chủ thể duy nhất tham gia hội nhập quốc tế. Hội nhập quóc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, do vậy, các tổ chức, các doanh nghiệp, các địa phương và cá nhân… cùng tham gia vào các hoạt động hội nhập quốc tế.
- Hội nhập quốc tế bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng ra các lĩnh vực khác. Chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay là phải hội nhập toàn diện, kể cả trong lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, tuy nhiên, mục tiêu trung tâm là hội nhập kinh tế.
- Phương thức hội nhập chủ đạo là tham gia các tiến trình đối thoại, hợp tác song phương, đa phương hoặc quốc tế, tham gia các tổ chức khu vực và quốc tế; tham gia các phong trào, các trào lưu chung của khu vực hoặc quốc tế. Sâu hơn nữa là việc chấp nhận và áp dụng, “nội địa hoá” các nguyên tắc, chuẩn mực chung quốc tế, bao gồm các tập quán, chuẩn mực, thoả thuận, công ước, điều ước khu vực, quốc tế. Với khả năng và vị thế cần được nâng cao, các hình thức/công cụ hội nhập quốc tế cần được nâng tầm theo hướng trở thành thành viên nòng cốt, dẫn dắt tại một số diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể.
3. Nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
Đại hội VI của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có chủ trương “tham gia sự phân công lao động quốc tế… mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật các nước thế giới thứ ba”[13]. Tinh thần của Đại hội VI thể hiện ở một mức cao hơn rằng, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, “đóng cửa” với thế giới, từ đó mở đường cho tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm đầu đổi mới. Đại hội VII của Đảng tiến thêm một bước với chủ trương cụ thể hơn: “Mở rộng, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại”[14] và theo quan điểm chỉ đạo “thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát huy mạnh mẽ các lợi thế và nguồn lực bên trong”[15]. Tuy nhiên, công cuộc đổi mới diễn ra chưa được bao lâu thì Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu lâm vào khủng hoảng trầm trọng và tan rã. Trong hoàn cảnh đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) ra đời, khẳng định bản lĩnh, trí tuệ của Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo toàn dân kiên định con đường đổi mới, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Đó là minh chứng hết sức sinh động và ý nghĩa về tầm quan trọng của việc giữ vững độc lập, tự chủ trong lựa chọn con đường phát triển của đất nước ta trước những biến động to lớn của thời đại.
Từ một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, chúng ta đã tiến hành cải cách, mở cửa, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy xuất khẩu, tiếp nhận viện trợ phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Từ chỗ bị cô lập, bị cấm vận, chúng ta đã chủ động phá thế bao vây; bình thường hóa quan hệ với các nước lớn; thực hiện chủ trương muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế; củng cố nền độc lập, tự chủ của đất nước. Từ chỗ bị khủng hoảng nghiêm trọng, đến giữa thập niên 1990, nền kinh tế nước ta đã đạt mức tăng trưởng cao và bước đầu hội nhập vào khu vực. Thực tế này đã khẳng định tính đúng đắn của công cuộc đổi mới. Đại hội VIII của Đảng đã xác lập niềm tin vững chắc vào đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại[16] và tăng cường mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực để phát triển. Tuy vậy, tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế khu vực và cải cách trong nước giai đoạn này vẫn rất chậm bởi tâm lý sợ cạnh tranh và ngập ngừng, lo ngại trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài, nhất là khi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á bùng phát.
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII (tháng 6 - 1992) đưa ra 4 phương châm xử lý các vấn đề quốc tế trong tình hình mới là: (1) Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; (2) Giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; (3) Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; (4) Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Đại hội VIII khẳng định: “Mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[17].
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII (tháng 12-1997) nêu rõ: Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa đoàn kết, hợp tác và hội nhập quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và nâng cao ý chí tự lực, tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Phải đến năm 2001, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng mới xuất hiện cụm từ “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đánh dấu sự thay đổi lớn trong tư duy phát triển và hội nhập của Việt Nam. Đại hội cũng chỉ rõ mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế như sau: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”[18]. Đại hội IX cũng chỉ rõ quan điểm chỉ đạo: “… phải bảo đảm độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”[19]. Mở rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc và bị chi phối của bên ngoài.
Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (tháng 8-2003) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nêu rõ tư tưởng chỉ đạo đối với công tác đối ngoại, giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ đối ngoại và để củng cố môi trường quốc tế hòa bình, ổn định phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tích cực chủ động tiến hành hoạt động đối ngoại trên cơ sở đường lối độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, thực hiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Đại hội X đã bổ sung thêm cụm từ “tích cực” và đề ra chủ trương: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”[20]. Đại hội X đã đề ra quan điểm chỉ đạo là hội nhập kinh tế quốc tế “phải chủ động, có lộ trình phù hợp với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự, chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn”[21].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ quan điểm phát triển đất nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay là: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cự hội nhập kinh tế quốc tế”[22]. Trong bối cảnh hiện nay, khả năng chiến tranh và xâm lược về quân sự, lãnh thổ ít xảy ra, cả thế giới đang trong xu thế toàn cầu hoá và không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Do đó, độc lập, tự chủ trong bối cảnh hiện nay tập trung cao vào độc lập, tự chủ về kinh tế. Độc lập, tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trước hết là độc lập, tự chủ về đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo tiềm lực kinh tế, khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất – kỹ thuật đủ mạnh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có hiệu quả và sức cạnh tranh; có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa vững ổn định kinh tế vĩ mô bảo đảm nền kinh tế đủ sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực hiện có hiệu qủa các cam kết hội nhập quốc tế.
Có thể nói, tư tưởng chỉ đạo đối ngoại trên đây, với tính đúng đắn của nó, đã được khẳng định một cách xuyên suốt qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X và XI của Đảng. Tại Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, hòa bình, hợp tác và phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh; tăng cường quan hệ với các đối tác trong khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả và các chính đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích, độc lập, tự chủ của đất nước. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại nhân dân; đối ngoại quốc phòng và an ninh; chính trị đối ngoại, kinh tế và văn hóa đối ngoại”[23].
Với việc chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, nền kinh tế nước ta đã hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các cam kết với WTO là khuôn khổ chung để chúng ta đẩy mạnh cải cách trong nước, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, Ðại hội XI của Đảng đã nâng tầm chủ trương thành “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, được cụ thể hóa bằng Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương ngày 10-4-2013 về hội nhập quốc tế, để khẳng định rằng hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa - xã hội... Đại hội XI, Đại hội XII khẳng định quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là một trong các mối quan hệ lớn, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt. Đại hội XII, trên cơ sở khẳng định quan điểm: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi...”[24]; “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”[25].
Như vậy, từ Đại hội VI đến Đại hội XII, qua bảy kỳ Đại hội của thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng ta về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ là tiền đề bảo đảm để hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Ngược lại, một quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tự động và tự phát sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn để phát triển và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó chính là tư duy đổi mới sáng tạo, nhìn nhận xác đáng và phân tích đầy đủ các yếu tố bên trong và bên ngoài; biết mình, biết người hơn. Xác định rõ mối quan hệ quan trọng này và tìm cách xử lý tốt mối quan hệ đó là lời giải cho bài toán phát triển bền vững đất nước, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
PGS, TS Phan Trọng Hào
Thư ký khoa học Hội đồng Lý luận TW
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 224.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 224.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 331.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 22.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 84.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 507.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 662.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XI, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2016, tr. 153.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khoá VI, VII, VIII, IX, X), Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2010, PI, tr. 674.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 43.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 112 - 114.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 81.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 119.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 119.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 44.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 74.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 43.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2001, tr. 25 - 26.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 25 - 26.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 180 - 181.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 76.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011, tr. 46 - 47.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 153.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 77.