1. Sự phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Sau gần 35 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã đạt được những thành tựu nhận thức quan trọng về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển.
1). Những nhận thức cơ bản về đổi mới, ổn định và phát triển
Sự phát triển nhận thức của Đảng về đổi mới: Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhận thức: Đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Phải đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế; đổi mới không phải là từ bỏ mà kiên định phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đảng ta khẳng định đổi mới là quá trình liên tục. Mục tiêu của đổi mới phải là đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và quản lý có hiệu quả của Nhà nước là nhân tố quyết định thành công của quá trình đổi mới và phát triển.
Đổi mới luôn chứa đựng sự phát triển cả về chất và lượng; cả về nội dung và hình thức; cả về cấu trúc và cơ chế vận hành; xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình phát triển. Đổi mới cũng còn là quá trình “sửa sai”, khắc phục những sai lệch do thể chế phát triển trước đó dẫn đến sự trì trệ, thậm chí khủng hoảng; đồng thời cũng là quá trình phát triển những nhân tố mới, những thể chế mới. Đổi mới luôn là một cuộc đấu tranh giữa cái mới tiến bộ với cái cũ lạc hậu, giữa năng động, sáng tạo với trì trệ, bảo thủ. Đổi mới hướng đến mục tiêu phát triển, nhưng đổi mới là đi vào những con đường mới, chưa có tiền lệ, có nhiều thách thức chưa lường hết được, luôn tiềm ẩn những rủi ro, thất bại, có khi phải trả giá. Do đó, đổi mới phải được dẫn dắt bởi hệ thống tư duy lý luận được đúc kết sâu sắc từ thực tiễn; lấy sự phát triển của thực tiễn làm tiêu chí đánh giá.
Đổi mới được thể hiện đồng bộ ở ba nội dung chủ yếu: đổi mới tư duy, mục tiêu, định hướng phát triển; đổi mới thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách; đổi mới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với quá trình phát triển. Trong đó, đổi mới tư duy phải mang tính vượt trước, định hướng quá trình phát triển. Đổi mới đòi hỏi phải được tiến hành kiên quyết và triệt để, có bước đi thích hợp, toàn diện và sâu rộngtrên các lĩnh vực mới đem lại kết quả mong muốn. Đổi mới là một sự nghiệp trọng đại của toàn dân, của cả dân tộc, phải dựa vào nhân dân.
Sự phát triển nhận thức của Đảng về ổn định: Ổn định được coi là phạm trù phản ánh sự ổn định về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước. Nhưng“ổn định” không đồng nghĩa với không thay đổi, bảo thủ, trì trệ, với áp đặt tuân thủ theo những phương thức phi dân chủ, theo ý muốn chủ quan, duy ý chí, không phù hợp với thực tiễn(gọi là ổn định tĩnh, ổn định bảo thủ). Sự phát triển luôn gắn liền với sự “ổn định động”. Không có sự “ổn định động” cần thiết thì sự phát triển không thể diễn ra có hiệu quả. Sự phát triển nhanh luôn đòi hỏi một trạng thái “ổn định động” ở trình độ cao, thích ứng với nhịp độ và trình độ phát triển. “Ổn định động” chứa đựng trong nó động lực của sự phát triển.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến yêu cầu phải đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội, coi đó như một điều kiện - tiền đề để đổi mới và phát triển thành công. Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta đã nhấn mạnh phải ổn định được sản xuất để trên cơ sở đó ổn định đời sống của nhân dân, ổn định kinh tế - xã hội, làm tiền đề cho bước phát triển tiếp sau. Ổn định đòi hỏi đảm bảo sự hài hòa giữa các yếu tố phát triển, giữa các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh của đất nước.Để đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, thì cần phải thúc đẩy phát triển kinh tế để nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân.Như vậy, ổn định phải luôn gắn chặt với đổi mới và phát triển và ngược lại. Ổn định gắn liền với đảm bảo dân chủ, kỷ cương pháp luật và trách nhiệm xã hội, công bằng và bình đẳng, mọi người được cống hiến và hưởng thụ thành theo mức độ đóng góp của mình. Ổn định đòi hỏi pháp luật phải được thực thi trên thực tế, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển; gắn liền với xác lập được niềm tin của nhân dân, ở đâu có niềm tin của nhân dân thì ở đó có sự ổn định, mất niềm tin sẽ không có sự ổn định.
Sự phát triển nhận thức của Đảng về phát triển: Phát triển là sự nâng lên về lượng và chất của xã hội từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn.Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã nâng cao dần nhận thức về phát triển: từ “tăng trưởng” đến “phát triển” và cao hơn là “phát triển bền vững”. Từ Đại hội X trở lại đây Đảng ta xác định “phát triển nhanh và bền vững” để nói lên định hướng chủ đạo phát triển đất nước trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Sự phát triển bền vững được thể hiện ở sự phát triển tổng hợp, hài hòa cả về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và môi trường; tăng trưởng và phát triển kinh tế phải gắn liền với phát triển văn hoá, tiến bộ và công bằng xã hội, với bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công dân, với thực hành dân chủ xã hội, không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của mọi tầng lớp dân cư, “không để ai bị bỏ lại phía sau”.Điều đó được thể hiện qua các chủ trương phát triển : i) - Kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; ii) - Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; iii) - Kết hợp giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường; iv) - Kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng; v) - Kết hợp giữa phát huy nội lực và ngoại lực, v.v… Tất cả sự kết hợp đó đều thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa đổi mới với ổn định và phát triển. Nhân tố con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển. Con người vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của quá trình phát triển. Quá trình phát triển phải hướng vào thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn mục tiêu “ Dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng - văn minh”.
Nhận thức của Đảng ta về phát triển được thể hiện khái quát như sau: i) - Hình thành hệ thống quan điểm phát triển tổng hợp trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, con người, văn hóa, quốc phòng, an ninh và quan hệ quốc tế, gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái; được thể hiện tập trung ở mục tiêu phát triển nhanh - bền vững; ii) - Qúa trình phát triển là kết quả tổng hợp phát huy vai trò của các chủ thể: Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân. Trong đó, nhân dân, các doanh nghiệpvà các tổ chức xã hội là chủ thể của quá trình phát triển; sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đóng vai trò then chốt; iii) - Nhân tố con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, trình độ cao đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển. Quá trình phát triển phải hướng vào thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn mục tiêu “ Dân giàu - nước mạnh - dân chủ - công bằng - văn minh”. Vì vậy, phát triển con người là một nhiệm vụ trung tâm của quá trình phát triển; iv)- Quá trình phát triển phải được định hướng đúng, phải được lãnh đạo - quản lý phù hợp, có hiệu lực và hiệu quả trong từng giai đoạn cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Điều này đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực lãng đạo - cầm quyền của Đảng và hiệu lực,hiệu quả quản lý của Nhà nước, năng lực thực thi của tất cả các chủ thể trong xã hội.
2) Quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Nhận thức về mối quan hệ hữu cơ giữa đổi mới, ổn định và phát triển là một quá trình gắn liền tổng kết thực tiễn với nghiên cứu và khái quát về mặt lý luận ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Có thể khái quát như sau:
- Giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới 1986 -1990: Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới với nhận thức sâu sắc vấn đề cốt tử, có tính nguyên tắc: phải đổi mới toàn diện đất nước, nhất là về phát triển kinh tế, mới thoát ra khỏi cuộc khùng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc. Muốn đổi mới phải giữ được ổn định chính trị - xã hội, muốn có được ổn định lâu dài thì phải phát triển kinh tếđể mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Như vậy phát triển là mục tiêu của đổi mới trên cơ sở đảm bảo được ổn định chính trị - xã hội. Giai đoạn này, do bối cảnh lịch sử cụ thể, Đảng và Nhà nước ta coi yếu tố ổn định là một điều kiện hàng đầu, đặc biệt là ổn định chính trị - xã hội. Chính nhờ chủ trương đúng đắn đó mà đất nước đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, tạo cơ sở cho quá trình đổi mới tiếp theo.
- Giai đoạn 1991-2000: Đây là giai đoạn bắt đầu đi sâu vào đổi mới. Từ yêu cầu của thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế; nhấn mạnh việc giữ ổn định để phát triển nhanh hơn. Xác định, đổi mới kinh tế phải đi trước một bước; đồng thời vẫn rất coi trọng vấn đề đảm bảo ổn định chính trị - xã hội, coi đó là điều kiện cơ bản của quá trình phát triển.
- Giai đoạn từ năm 2001 đến nay: Đất nước đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Từ năm 2008 nước ta đã ra khỏi nhóm nước kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình (thấp), bắt đầu đẩy mạnh phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Về mặt nhận thức, đến Cương lĩnh 2011 Đảng ta mới chính thức xác định giải quyết các mối quan hệ lớn (8 mối quan hệ), trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới, ổn đinh, phát triển là một nội dung quan trọng trong suốt thời kỳ quá độ. Đảng đã coi trọng hơn việc giải quyết đồng bộcả ba yếu tố đổi mới, ổn định, phát triển và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với nhau hơn. Nhận thức và giải quyết mối quan hệ này được xác định theo nguyên tắc: Đổi mới là động lực, là phương thức - Ổn định là điều kiện - Phát triển là mục tiêu. Phải lấy mục tiêu phát triển làm cơ sở để định hướng tiếp tục đổi mới và ổn định.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, Đảng và Nhà nước nhận thức ngày càng sâu sắc hơn quá trình đổi mới - ổn định - phát triển đất nước không chỉ phụ thuộc vào điều kiện, tiềm lực nội tại của đất nước, mà còn phụ thuộc sâu sắc vào điều kiện, xu thế phát triển của thế giới, vào các mối quan hệ quốc tế mà Việt Nam tham gia. Vì vậy, một mặt Đảng lãnh đạo để thực hiện có hiệu quả hơn từng thành tố đổi mới, ổn định và phát triển; mặt khác, đã chú trọng hơn lãnh đạo giải quyết đồng bộ, hài hòa hơn mối quan hệ giữa các thành tố này.
2. Kết quả chủ yếu thực hiện mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Trong gần 35 năm đổi mới, việc thực hiện mối quan hệ này có nhiều kết quả quan trọng, thể hiện ở phương diện chủ yếu sau:
i) - Đổi mới được tiến hành liên tục với những nội dung, hình thức và bước đi ngày càng cao hơn, đa dạng hơn, toàn diện hơn, đồng bộ hơn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trên bình diện chung cũng như trong từng lĩnh vực, từng cấp từng ngành. Trong quá trình đổi mới, nhân tố ổn định, nhất là ổn định chính trị - xã hội luôn luôn được coi trọng và được bảo đảm. Nhân tố phát triển luôn luôn được coi là mục tiêu hướng tới của quá trình đổi mới, được quan tâm cụ thể hóa thành hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và giải pháp phù hợp, huy động mọi nguồn lực, mọi thành phần, chủ thể, và cả xã hội tham gia thúc đẩy phát triển đất nước trong mỗi giai đoạn.
ii) - Từ “nhìn thẳng vào sự thật”, Đảng ta đã đổi mới tư duy, nâng lên thành đổi mới nhận thức, quan điểm, chủ trương, đến thể chế hóa thành hệ thống pháp, luật, cơ chế, chính sách và giải pháp phát triển để đưa vào thực tiễn công cuộc đổi mới; rồi lại từ tổng kết thực tiễn để tiếp tục đối mới tư duy, đổi mới nhận thức, quan điểm để tiếp tục đổi mới, điều chỉnh luật pháp, cơ chế, chính sách. Quá trình này đã được Đảng quán triệt như một nguyên tắc nhất quán trong quá trình lãnh đạo đổi mới, ổn định và phát triển đất nước.
iii) - Mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển là một trong những mối quan hệ lớn được Đảng ta đặc biệt chú trọng giải quyết trong suốt quá trình đổi mới toàn diện đất nước. Đã chú trọng hơn trong ban hành các cơ chế, chính sách, giải pháp có khả năng “tích hợp” được ngày càng có hiệu quả hơn vai trò của cả ba nhân tố đổi mới, ổn định và phát triển trong các chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án phát triển. Quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết công bằng và bình đẳng xã hội, khuyến khích là giàu chính đáng theo pháp luật, đi đôi với đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh xã hội ngày càng rộng hơn, hiệu quả hơn, không đánh đổi môi trường lấy sự phát triển về kinh tế…đã thể hiện rõ tư tưởng này.
iv) -Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển được đặt trọng tâm vào ngày càng nâng cao hơn tiềm lực mọi mặt của đất nước, nâng cao hơn đời sống mọi mặt của nhân dân; coi phát triển con người là nhân tố trung tâm với tư cách vừa là chủ thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cả đổi mới, ổn định và phát triển. Vì vậy, Hiến pháp 2013, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách đã đề cao hơn quyền con người, quyền công dân, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả các chủ thể trong xã hội đối với quá trình đổi mới, ổn định và phát triển đất nước.
v) - Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước không ngừng được đổi mới và nâng cao hơn. Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, gắn với đẩy mạnh phát triển dân chủ xã hội trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Đây là một trong những nhân tố trọng yếu nhất đảm bảo cho quá trình đổi mới, ổn định và phát triển đất nước đạt được những thành tựu quan trọng.
vi) - Nhìn nhận một cách tổng thể, việc nhận thức và giải quyết ngày càng có hiệu quả hơn mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển,đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong hơn 30 năm đổi mới: Đất nước đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế-xã hôi vào cuối những năm 70 và những năm 80 của thế kỷ XX; có tốc độ phát triển vào loại cao trong khu vực và trên thế giới; đưa đất nước thoát ra khỏi trình trạng kém phát triển và bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình (thấp). Lĩnh vực an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả quan trọng, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ hơn 50% khi mới bước vào công cuộc đổi mới, nay chỉ còn khoảng 6%; đời sống vật chất và tinh thần của đại đa số dân cư được nâng lên…Nước ta sớm hoàn thành nhiều mục tiêu thiên niên kỷ, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao, coi đó như nột điển hình; dân chủ xã hội ngày càng được mở rộng và phát triển; quyền con người, quyền công dân ngày càng được đảm bảo tốt hơn; ổn định chính trị - xã hội được giữ vững; trật tự an toàn xã hội về cơ bản được đảm bảo. Đó là tiền đềvà cơ sở nền tảng quan trọng để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới.
3. Những hạn chế, bất cập và nhận thức sai lệch về giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Trong thực tế, nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển còn có những hạn chế, sai lệch, thể hiện ở điểm chủ yếu sau đây :
- Đổi mới vẫn có mặt chưa đồng bộ và toàn diện (đánh giá của Đại hội XII của Đảng).Còn có nhữngnhận thức chưa đúng về đổi mới, thể hiện ở cả hai thái cực: quan niệm đổi mới cần phải theo những mô hình lý thuyết, dập khuôn mô hình và giá trị của các nước được coi là “tiên tiến”, “hiện đại” trên thế giới, nhưng không phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam (như đổi mới thể chế chính trị dập khuôn theo các mô hình của các nước phương Tây, thực hành dân chủ theo kiểu phương Tây, xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo các nước có nền kinh tế thị trường tự do, giảm tối đa vai trò của Nhà nước…); mặt khác lại có thái cực bảo thủ, trì trệ, sợ “chệch hướng” khi đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, không dám đẩy mạnh đổi mới và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của thế giới để áp dụng sáng tạo vào Việt Nam.
- Nhận thức chưa đúng về ổn định, coi ổn định đồng nghĩa với không được thay đổi những gì đã được chế định, không được “làm sai”, “làm khác” cái hiện hữu mặc dù đã không còn phù hợp và hiệu quả; lấy “ổn định”làm cái cớ để không dám đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phê phán đổi mới sáng tạo một cách “chụp mũ”, vô ngyên tắc, cho là chệch hướng, không căn cứ vào nhu cầu khách quan phát triển của thực tiễn.Nhận thức và quan niệm về ổn định vẫn mang nhiều tính chất “ổn định tĩnh”, tính hành chính, quan liêu, áp đặt. Nhận thức về ổn định động chưa sâu sắc.
- Nhận thức về phát triển cũng có những sai lệch, thể hiện ở quan niệm phát triển trong một thời gian dài chủ yếutheochiều rộng, chạy theo số lượng, không coi trọng đúng mức phát triển về chiều sâu, chất lượng. Mặt khác, còn có biểu hiện sự “lệch pha” trong nhận thức và thực tiễn phát triển giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường; có tình trạng chỉ chú trọng phát triển kinh tế, không coi trọng đúng mức phát triển các lĩnh vực xã hội, bảo vệ môi trường, gây ra những mâu thuẫn và xung đột xã hội, làm giảm đi động lực phát triển hiệu quả, bền vững.
- Tư duy về thể chế phát triển vàcác mô hình phát triển hiện đại chưa được nghiên cứu sâu, có hệ thống, chưa kịp thời tiếp cận với các xu thế phát triển mới của thế giới để vận dụng sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam. Nhận thực và thực tiễn phát triển bền vững còn nhiều bất cập; tính đồng bộ, hài hòa trong phát triển bền vững giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường chưa đạt được ở trình độ cao. Phát triển kinh tế chưa ổn định, có xu hướng giảm tốc độ, chậm đi vào chiều sâu; chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển chưa cao…
- Trong nhận thức và thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển,còn có những vấn đề chưa hiểu thật sâu và chế định được đồng bộ, hiệu quả mối quan hệ giữa ba thành tố này trong từng giai đoạn phát triển, trong từng lĩnh vực cụ thể và giữa các lĩnh vực với nhau. Nhất là trong những giai phát triển có tính bước ngoặt (như xây dựng Nhà nước pháp quyền, chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang phát triển theo chiều sâu…), đã không kịp thời xác định rõ yêu cầu, nội dung, phương thức thực hiện ba thành tố này và giải quyết mối quan hệ giữa ba thành tố này tromg từng lĩnh vực và giữa các lĩnh vực (như đổi mới chính trị chưa đồng bộphù hợp với đổi mới kinh tế; đổi mới và phát triển kinh tế chưa gắn bó chặt chẽ với phát triển các lĩnh vực xã hội và bảo vệ môi trường…), làm hạn chế động lực phát triển.
- Mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển được được quan tâm giải quyết tương đối toàn diện, nhưng chưa coi trọng đúng mức tính đồng bộ giữa các yếu tố nói trên trong tổng thể, và giữa các lĩnh vực cụ thể (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, hội nhập quốc tế…), giữa các vùng, miền, địa phương. Đổi mới, ổn định và phát triển chưa thật sự được gắn kết chặt chẽ với nhau; có nơi, có lúc quá chú trọng phát triển kinh tế, mất dân chủ, đã không chú trọng đúng mức đến đảm bảo ổn định và phát triển xã hội, bảo vệ môi trường. Nhìn tổng thể, trong gần 10 năm trở lại đây động lực của đổi mới và phát triển có mặt đang bị suy giảm, chất lượng tăng trưởng chậm được cải thiện; sự phát triển nhiều mặt chưa bền vững, còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định kinh tế, xã hội; khoảng cách phát triển so với các nước phát triển trong khu vực chậm được thu hẹp...
- Trong hơn 30 năm đổi mới, cả nội hàm đổi mới, ổn định, phát triển và giải quyết mối quan hệ giữa các thành tố này về cơ bản trong khuôn khổ của thể chế phát triển theo chiều rộng; đến nay động lực phát triển đã bị suy giảm đáng kể, thậm chí có mặt trở thành lực cản đổi với sự phát triển. Đổi mới sáng tạo để thúc đẩy phát triển theo chiều sâu chưa được coi trọng đúng mức, chưa đáp ứng với yêu cầu của giai đoạn mới.
Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và sai lệch trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Về mặt khách quan :Trước hết, công cuộc đổi mới và phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình rất mới mẻ, chưa có tiền lệ cả về lý luận và thực tiễn trên bình diện thế giới cũng như trong nước ta; phải vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm, tổng kết cả về phương diện thực tiễn và lý luận. Điều này đặt ra trước sự nghiệp đổi mới thách thức rất lớn, có tính mâu thuẫn là: Một mặt, đòi hỏi đổi mới phải có bước đi rất thận trọng, không thể sai lầm về đường lối, chủ trương, chính sách, không thể mạo hiểm để có thể dẫn đến đổ vỡ; mặt khác, đòi hỏi phải đẩy mạnh đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, thể chế phát triển, vì nhiều nền tảng lý luận và thực tiễn của mô hình chủ nghĩa xã hội cũ đã bị thực tiễn bác bỏ. Trong bối cảnh đó, tất yếu có những nhận thức, cách tiếp cận khác nhau về quan điểm, mục tiêu, nội dung, hình thức, cơ chế, chính sách và bước đi về quá trình đổi mới và phát triển. Xuất hiện cả những nhận thức, quan điển bảo thủ; cả những nhận thức, quan điển mang nặng tính lý thuyết - học thuật, hướng theo mô hình phát triển của các nước phương Tây nhưng “chưa kịp tiêu hóa”, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Đó là chưa kể có những quan điểm mang bản chất chống đối, luôn tìm cách xuyên tạc, bóp méo quá trình đổi mới theo cả hai hướng: cho là quá trinh đổi mới về thực chất là đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa; cho là quá trình đổi mới vẫn nằm trong thể chế quan liêu, hánh chính hóa, mất dân chủ, không thể đảm bảo đất nước phát triển nhanh, bền vững. Quá trình đổi mới và phát triển thực sự là một quá trình đấu tranh về nhận thức, quan điểm, đường lối, chủ trương phát triển trong thực tiễn.
Quá trình đổi mới của Việt Nam được thực hiện trong bối cảnh là một nước kém phát triển, bị hậu quả năng nề của chiến tranh, bị bao vây cấm vận trong thời gian dài, lại bị các thế lực thù địch chống phá quyết liệt. Chúng ta phải đồng thời giải quyết nhiều loại “quá độ”: Từ xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản sang xây dựng hệ thống chính trị; từ xây dựng Nhà nước quản lý tập trung quan liêu sang xây dựng Nhà nước pháp quyền; từ thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường; từ nền sản xuất nhỏ với trình độ lực lượng sản xuất thấp, mang nặng tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa; từ thể chế khép kín, bị bao vây, cấm vận sang mở cửa và hội hập quốc tế; từ thể chế kinh tế thị trường trình độ thấp, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, sang thể chế phát triển theo chiều sâu dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo... Việc giải quyết đồng bộ tất cả các loại “quá độ” này cùng một lúc là một thách thức rất lớn, thể hiện cả trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; nhất là trong bối cảnh vừa thử nghiệm trong thực tiễn vừa nghiên cứu, đúc kết về mặt lý luận, cả ở tầm vĩ mô và tầm vi mô. Sự “lêch pha”nào đó là không tránh khỏi.
Về mặt chủ quan: Những sai lầm trong giai đoạn trước đổi mới mà Đại hội VI chỉ ra “là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, đặc biệt là bệnh chủ quan duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận. Dẫn đến nhiều sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế”. Những sai lầm này để lại những “di chứng” không chỉ đơn thuần về phương diện nhận thức, quan điểm phát triển, mà còn ở cấu trúc thể chế phát triển, ở nguồn nhân lực, nhất là trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, không dễ khắc phục nhanh được.
Chi phối bao trùm đối với việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển chính là nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về phương thức phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, và về mối quan hệ giữa những giá trị quốc gia - dân tộc với các giá trị chung của nhân loại trong quá trình phát triển. Trong quá trình đổi mới, những nội dung trên từng bước được làm rõ hơn (Cương lĩnh 2011 đã nêu 8 đặc trưng và 8 phương hướng phát triển theo định hướng xã họi chủ nghĩa…). Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề chưa có lời “giải đáp” rõ ràng, chưa được làm thật sáng tỏ và có sức thuyết phục cao (như về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vai trò của doanh nghiệp nhà nước; “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”; về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về bản chất và đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…). Chính những điều này dẫn đến nhận thức khác nhau, thậm chí sai lệch về những mục tiêu, nội dung và giá trị đổi mới, ổn định, phát triển và giải quyết mối quan hệ giữa ba thành tố này trong quá trình phát triển. Thậm chí có nhận thức cho rằng bản chất phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản là phải “khác biệt” với những giá trị phổ quát của nhân loại hiện nay, phát triển kinh tế thị trường và kinh tế tư nhân là không phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội, là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa; “đổ” mọi tiêu cực trong phát triển kinh tế - xã hội cho kinh tế thị trường như một “tội đồ”. Mặt khác, lại có những nhận thức cho rằng không có sự phát triển theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa, không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải thừa nhận phát triển theo mô hình kinh tế của các nước tư bản phát triển hiện nay. Những sai lệch trên, chủ yếu do không thấy hết bản chất và tính chất phức tạp, tính “quá độ” trong quá trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nước còn kém phát triển (như Mác, Lê nin đã cảnh tỉnh); lấy phương thức, biện pháp thay cho mục tiêu phát triển; không thấy rõ những giá trị phát triển chung của nhân loại chính là những giá trị tốt đẹp được “tích lỹ lại” để đưa nhân loại lên trình độ phát triển cao hơn, chuẩn bị các tiền đề cần thiết cho một xã hội mới ra đời, mà Mác - Engghen gọi là chủ nghĩa xã hội (nếu không nhận thức rõ điều này sẽ không trả lời được câu hỏi các nước tư bản phát triển sẽ đi về đâu ?); mà các nước đi sau chọn mô hình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải tiếp thu và phát triển sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước mình và hội nhập quốc tế (như Lênin đã nói, phải chìa hai bàn tay ra đón nhận những cái tốt đẹp của các nước tư bản phát triển hơn). Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể nằm ngoài “dòng chảy” của nhân loại.Nhưng không phải là bị động xuôi theo dòng chảy của nhân loại, mà phải chủ động kiến tạo những giá trị đặc trưng của Việt Nam có thể kết nối với những giá trị tốt đẹp chung của nhân loại trong quá trình phát triển. Những nhận thức siêu hình, tuyệt đối hóa cực đoan, không phù hợp với bản chất, trình độ và tính chất phát triển của quá trình chuyển đổi trong thực tiễn đều dẫn đến những sai lầm trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển.
Nhận thức lý luận, nhìn chung, vẫn có sự chậm trễ so với yêu cầu và thực tiễn phát triển. Công cuộc đổi mới bắt đầu từ năm 1986, nhưng sau 25 năm, trong Cương lĩnh 2011 mới xác định giải quyết các mối quan hệ lớn (8 mối quan hệ), trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới, ổn đinh, phát triển là một nội dung quan trọng trong suốt thời kỳ quá độ. Điều này cho thấy công tác tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, về phương diện nào đó đã không được chú trọng đúng mức và chỉ đạo triển khai có hiệu quả.Các quan điểm chungvề đổi mới, ổn định và phát triển không ngừng được bổ sung, phát triển. Tuy nhiên, nội dung cụ thể của từng thành tố chưa được kịp thời làm rõ đầy đủ, phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạnphát triển, có những nội dung chậm được đổi mới, chậm chấp nhận trở thành chủ trương lớn (như: sau hơn 30 năm đổi mới, đến ngày 3/6/2017, Nghị quyết số 10-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII mới xác định“phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Cùng với đó, nhận thức về vị trí,vai trò của doanh nghiệp nhà nước, về thể chế quản lý và cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, để lại những hậu quả nặng nề…).
Chậm nghiên cứu sâu sắc, đầy đủ về lý luận và tổng kết thực tiễn về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; chưa làm rõ được sự chế định lẫn nhau như thế nào giữa các thành tố này trong từng giai đoạn và trong từng lĩnh vực. Mục tiêu phát triển tổng hợp phải là điểm “tích hợp” hữu cơ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong từng giai đoạn và từng lĩnh vực, song trong nhiều trường hợp lại bị phân mảnh, chia cắt, cục bộ, thậm chí mâu thuẫn nhau (giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường). Và do đó, trong thực tiễn chưa chế định được đầy đủthể chế gắn kết hữu cơ giữa ba thành tố này nằm tạo được động lực cao cho sự phát triển nhanh - bền vững.
4. Những vấn đề đặt ra và đề xuất, kiến nghị
Để giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển, thì cần phải nhận thức rõ hơn bản chất và nội dung của các thành tố này trước yêu cầu phát triển của giai đoạn mới; đồng thời phải chế định được cơ chế để gắn kết phù hợp, hữu cơ giữa các thành tố này trong thể chế phát triển nhanh - bền vững.
1) Đẩy mạnh đổi mới tư duy, nhận thức sâu sắc hơn bản chất, nội dung của các phạm trù “đổi mới”, “ổn định” và “phát triển” trong giai đoạn mới
i) - Đây là yêu cầu đặt ra hành hàng đầu, vì trong giai đoạn mới, xét cả bối cảnh trong nước và quốc tế, bản chất, nội dung, hình thức thể hiện về đổi mới, ổn định và phát triển đều đã có bước phát triển rất quan trọng, có sự thay đổi về chất, với những yêu cầu mới đặt ra, không thể chỉ bó hẹp trong những nhận thức trước đây. Trước hết, cần tiếp tục đẩy mạnh tổng kết thực tiễn phát triển của đất nước, nghiên cứu xu thế phát triển và kinh nghiệm phát triển của thế giới, gắn với nghiên cứu sâu về lý luận, để làm sáng tỏ hơnnhững vấn đề phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam; trên cơ sở đó làm rõ hơn nội hàm và logic vận động của mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong giai đoạn mới.Đây là cơ sở quan trọng để khắc phục những bất cập, sai lệch trong nhận thức và thực hiện mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển.
ii) - Quan niệm về đổi mới cần phải có bước phát triển cao hơn rất nhiều. Nếu như trước đây quan niệm về đổi mới về thực chất và chủ yếu là quá trình “cởi trói”, dỡ bỏ dần các cơ chế cũ, các rào cản trong thể chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, đi vào phát triển kinh tế thị trường, nhưng chủ yếu phát triển theo chiều rộng; thì giờ đây, đất nước phải và đang bước vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu, đẩy mạnh công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, đòi hỏi phải xây dựng những thể chế, cơ chế, động lực phát triển mới để làm nền tảng cho sự phát triển nhanh - bền vững với những mục tiêu cao hơn. Do đó, phải nâng tầm tư duy phát triển để xây dựng được hệ quan điểm đổi mới mới: đổi mới dựa chủ yếu vào khoa học - công nghệtrình độ cao, đổi mới, sáng tạo; và hội nhập quốc tế ở trình độ cao hơn. Ở đây đòi hỏi một tầm cao hơn cả về nhận thức và năng lực lãnh đạo thực tiễn của Đảng và quản lý của Nhà nước, cũng như nhận thức và hành động của tất cả các chủ thể trong xã hội.
iii) - Quan niệm về ổn định: Quan niệm về ổn định đòi hỏi phải là ổn định động, thích ứng với quá trình đổi mới ở trình độ cao hơn. Điều này đặt ra những yêu cầu mới về nhận thức và phương thức ổn định, ổn định cũng phải được đảm bảo ở tầm sâu rộng hơn cả về phương diện chính trị - xã hội, về phương diện pháp lý, các thiết chế đảm bảo kỷ cương xã hội;phải đảm bảo sự ổn định phát triển đồng bộ, hữu cơ giữa chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường; phải xây dựng thể chế phát triển mới để tạo được động lực phát triển đất nước theo chiều sâu.Ổn định không còn chỉ là điều kiện của sự phát triển, mà trở thành động lực quan trọng của sự phát triển.
iv) - Quan niệm về phát triển cũng đang đặt ra yêu cầu phải có những đổi mới căn bản, thể hiện trên các phương diện sau: i) - Phát triển nhanh - bền vững là mục tiêu bao trùm; phảiđảm bảo sự phát triển đồng bộ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường; ii) - Phải nhất quán với quan điểm chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là kịp thời đón nhận các “cơ hội vàng” do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mang lại; iii) - Phát triển phải nhất quán với mục tiêu tăng nhanh tiềm lực và nội lực đất nước, không ngừng nâng cao năng lực độc lập và tự chủ của quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia, kết hợp có hiệu quả sức mạnh của dân tộc với sức mạnh hội nhập quốc tế; đã đến lúc nên dùng khái niệm “phát triển quan hệ quốc tế” như một mục tiêu phát triển, thay vì dùng khái niệm “hợp tác và hội nhập quốc tế”;iv) - Phát triển được đặt trọng tâm vào các động lực chủ yếu sau: Hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững; thúc đẩy đổi mới sáng tạo quốc gia, phát triển dựa vào khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ cao; đẩy mạnh phát triển nguồn lực con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - trình độ cao, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là chủ thể của quá trình phát triển.
2) Nâng cao nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trước yêu cầu của giai đoạn mới. Trên thực tế, mối quan hệ giữa ba yếu tố đổi mới, ổn định và phát triển luôn luôn có sự thay đổi tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và mục tiêu phát triển. Do vậy, cần phải từ mục tiêu phát triển để hình thành thể chế kết hợp hữu cơ giữa các yếu tố đó. Trong điều kiện phát triển mới, mang tính đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra ngày càng nhanh hơn trên thế giới, chứa đựng những cơ hội lớn cùng với nhiều thách thức và rủi ro không nhỏ. Cả đổi mới, ổn định và phát triển đều đòi hỏi phải hướng tới đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển, đồng thời hợp thành chiếm lược thích ứng năng động, nhằm tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chếtối đa các tác động tiêu cực.Ổn định phải chứa đựng ngay trong bản chất của đổi mới và phát triển, đồng thời ổn định lại chứa đựng cả nhân tố thúc đẩy đổi mới và phát triển; thành quả của đổi mới và phát triển lại phải tạo cơ sở để ổn định ở tầm cao hơn, chất lượng cao hơn, bền vững hơn. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện, phương thức và mục tiêu phát triển trong điều kiện mới.
Để giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển đòi hỏi phải xử lý đồng bộ ở các phương diện sau: i) - Giữa yêu cầu phát triển khách quan của đất nước với nhận thức, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; với cụ thể hóa và thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, với hệ thống tổ chức - bộ máy thực hiện, và với các chủ thể thực hiện trên thực tế; ii) -Giải quyết mối quan hệ đổi mới - ổn định - phát triển theo mục tiêu phát triển chung của cả nước,nhưng phải được cụ thể hóa cho từng cấpvà từng lĩnh vực, vớiyêu cầu, nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung, trách nhiệm khác nhau; iii) - Giải quyết có hiệu quả mối quan hệ đổi mới - ổn định - phát triển trong mối tương quan giữa kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường; iv) - Giải quyết mối quan hệ đổi mới - ổn định - phát triển điều cốt lõi là phải tạo được động lực phát triển nhanh - bền vững. Phát triển bền vững phải trở thành một giá trị cốt lõi trong giai đoạn mới. Phải xây dựng được thể chế gắn kết được quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi tổ chức, mỗi dơn vị, mỗi cộng đồng hài hòa trong lợi ích của quốc gia - dân tộctrong quá trình đổi mới và phát triển.
Vì vậy, vấn đề quan trọng đặt ra làtrên cơ sở tổng kết thực tiễn, phải nghiên cứu sâu lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong điều kiện mới, làm cơ sở cho việc cho việc xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển nhanh - bền vững của đất nước trong giai đoạn mới (chung của cả nước, và trong từng lĩnh vực, từng địa phương).
3) Cần nghiên cứu, đánh giá sâu sắc hệ thống các nhân tố tác động đến mối quan hệ đổi mới - ổn định - phát triển, đến giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển trên tổng thể, cũng như trong từng lĩnh vực, từng địa bàn. Đây là vấn đề hệ trọng, vì nếu không đánh giá và dự báo được hệ thống các nhân tố tác động (cả trong nước và trên phương diện quốc tế) đến quá trình phát triển dễ rơi vào tình huống bị động, xử lý không đồng bộ, hiệu quả không cao, thậm chí có thể làm cho tình hình phức tạp hơn. Cần phải nghiên cứu - dự báo về các xu thể phát triển của tất cả các lĩnh vực trên bình diện quốc tế cũng như trong nước, cáccác nhân tố tác động tích cực và các nhân tố tác động tiêu cực; đây là cơ sở nền tảng để xem xét mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Trên cơ sở đó xây dựng thể chế chú trọng “kích hoạt”, phát huy các nhân tố tích cực, các nhân tố đóng vai trò là các động lực đổi mới và phát triển ; đồng thời làm suy yếu, triệt tiêu các tác động tiêu cực. Cần đặc biệt chủ trọng các nhân tố pháp quyền, kỷ cương, liêm chính, dân chủ, công khai, công bằng xã hội, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi người, mọi tổ chức, sự đồng thuận xã hội, trách nhiệm xã hội; khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo…nhằmtạo ra các động lực mới cho sự phát triển đất nước nhanh - bền vững.
4) Tập trung xây dựng chiến lược phát triển nhanh - bền vững, gắn liền với đó là xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kết nối hữu cơ đổi mới - ổn định - phát triển, tạo động lực để đất nước phát triển nhanh - bền vững trong giai đoạn mới. Chiến lược và thể chế phát triển nhanh - bền vững là cơ sở để giải quyết có hiệu lực, hiệu quả mối quan hệ giữa đổi mới - ổn định - phát triển, huy động và phát huy cao được tất cả các nguồn lực, sức mạnh ý chí của cả dân tộc; đón nhận được các xu thể phát triển tiên tiến, hiện đại của thế giới, nhất là trong bối cảnh của Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tăng tốc. Thể chế phát triển phải là thể chế 4.0, trong đó phải đẩy mạnh đổi mới sâu sắc và toàn diện hơn nữa, đặc biệt là sự đồng bộ giữa đổi mới chính trị với đổi mới kinh tế và đổi mới xã hội theo mối quan hệ biện chứng như sau: Thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước” - Thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm - Thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội.Thể chế chính trị phải đổi mới để đóng vai trò then chốt trong việc định hướng phát triển, thiết kế cấu trúc và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, thể chế kinh tế, thể chế phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; với những giá trị mới, phát huy cao dân chủ, quyền con người, quyền công dân, giải phóng và phát huy giá trị sáng tạo và trách nhiệm xã hội của mỗi con người và tất cả các chủ thể trong sự phát triển mọi lĩnh vực của đất nước. Thể chế kinh tế phải thúc đẩy mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thể chế xã hội cùng với thể chế kinh tế phải hướng tới sự phát triển bao trùm, “không đề ai bị bỏ lại phía”.
Đảng với tư cách là người lãnh đạo đất nước và dân tộc, phải tự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, nâng cao hơn nữa tố chất trí tuệ, đạo đức, văn minh (như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói); đặc biệt là tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tư duy và đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền, thực hành dân chủ trong Đảng. Đảng phải lãnh đạo để xây dựng Nhà nước pháp quyền - nhà nước kiến tạo phát triển “kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả”. Bằng kết quả và hiệu quả lãnh đạo và quản lý phát triển đất nước để khảng định trong lòng nhân dân những giá trị cao cả của đảng cầm quyền và của nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó là nền móng vững trắc của sự phát triển nhanh - bền vững.
5) Tập trung phát triển con người - nhân tố quyết định sự nghiệp đổi mới - ổn định - phát triển đất nước nhanh - bền vững. Trong văn kiện Đại hội XI, XII của Đảng đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây là một quan điển đúng đắn. Tuy nhiên, cả về lý luận, thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, cho thấy không thể chỉ nhìn nhận nhân tố con người ở giác độ nguồn nhân lực - người lao động; mà phải nhìn nhận con người với tư cách vừa là chủ thể vừa là mục tiêu của quá trình đổi mới và phát triển. Như vậy, phải đặt trọng tâm vào phát triển toàn diện con người đồng bộ về các tố chất cơ bản: i) - giá trị đạo đức, lối sống, ý thức dân tộc, lý tưởng, bản lĩnh chính trị, trách nhiệm xã hội; ii) - tư duy đổi mới, sáng tạo; iii) - kiến thức chuyên môn, nghề nghiệp; iv) - năng lực thực hành; v) - kỹ năng sống, làm việc với con người, hợp tác và hội nhập. Yêu cầu này được đặt ra đối với tất các chủ thể, từ người lao động bình thường, đến các nhà quản lý doanh nghiệp, đến các nhà khoa học, đến những người làm công tác lãnh đạo - quản lý đất nước từ cấp cơ sở đến cấp cao nhất. Để đất nước phát triển nhanh - bền vững, đòi hỏi phải phát triển con người đồng bộ ở tất cả các cấp độ đó, trong đó đặc biệt là phát triển nhân lực chất lương cao, trình độ cao, phát triển nhân tài ở mọi cấp độ, mọi lĩnh vực.Đây là nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa lâu dài, vừa mang tính cơ bản vừa mang tính tình huống; dó đó Đảng phải lãnh đạo triển khai thật sự có chất lượng, có hiệu quả sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục, đồng thời thiết thực đổi mới nội dung, chương trình, phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị, đội ngũ doanh nhân...
PGS.TS Trần Quốc Toản
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương