Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng chính trị, một đảng chân chính, cách mạng, đội tiền phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam từ năm 1930 đến nay và đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác để có được cơ đồ vẻ vang như ngày nay. Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện và ngay từ đầu và suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng tuân thủ nguyên tắc của một đảng cách mạng kiểu mới mà C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đã đề ra. Một trong những nguyên tắc căn bản đó là Đảng phải luôn luôn thống nhất thành một khối vững chắc cả về tư tưởng và hành động, không chấp nhận sự tồn tại bè phái trong Đảng. Đảng là tổ chức ưu tú nhất của giai cấp và dân tộc. Sự thống nhất về tổ chức và phương thức hành động là yêu cầu khách quan và cũng là yêu cầu tự thân của đảng cộng sản chân chính.
Khi tổ chức, xây dựng một đảng cách mạng kiểu mới, đủ trí tuệ và năng lực lãnh đạo phong trào vô sản và sự nghiệp đấu tranh tự giải phóng của nhân dân lao động, V.I.Lênin đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận, về mục tiêu chính trị rõ ràng và sức mạnh tổ chức của Đảng, bảo đảm sự thống nhất tổ chức của Đảng. Sự thống nhất ấy đòi hỏi phải lựa chọn những đảng viên ưu tú, loại bỏ những phần tử xét lại, cơ hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tập trung trong lãnh đạo và tính tổ chức nghiêm ngặt.
Tính tổ chức bảo đảm cho sự thống nhất trong Đảng và sự lãnh đạo thông suốt. V.I.Lênin lưu ý phải phân biệt: “những phần tử có tổ chức với những phần tử không có tổ chức, những phần tử chịu sự lãnh đạo với những phần tử không chịu sự lãnh đạo, những phần tử tiên tiến với những kẻ lạc hậu bất trị”, “sự lẫn lộn đó mới thật sự nguy hiểm”[i]. Nếu đưa những phần tử không có tổ chức, không chịu sự lãnh đạo, những kẻ lạc hậu, bất trị đó vào Đảng sẽ là hành động phá hoại Đảng dẫn tới bè phái. Nguyên tắc tập trung dân chủ, sự lãnh đạo tập trung của Đảng nhất là sự lãnh đạo của cơ quan trung ương của Đảng là sự bảo đảm sự thống nhất vững chắc của toàn Đảng.
Theo Lênin, nếu trong Đảng có biểu hiện không chịu sự lãnh đạo, không chịu phục tùng sự lãnh đạo sẽ không thể có sự thống nhất và dẫn tới chia rẽ và đó là điều nguy hiểm đối với một đảng chân chính cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần những chỉ dẫn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, đã tập trung đào tạo, rèn luyện những cán bộ, những phần tử trung kiên nhất để đi tới thành lập một đảng cách mạng. Trong quá trình hoạt động, lãnh đạo của Đảng, Người đòi hỏi Đảng gồm nhiều người nhưng trong tư tưởng và hành động chỉ là một.
Tháng 10-1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra 12 điều về tư cách của Đảng chân chính cách mạng, trong đó Người nhấn mạnh:
“Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo”.
“Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hoá ra ngoài”.
“Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới.
Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí.
Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng”[ii].
Trong Di chúc (1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[iii].
Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo quá trình cách mạng và trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn luôn nhận thức sâu sắc và hành động đúng đắn theo những chỉ dẫn của các bậc thầy của chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, trên thực tế Đảng đã giữ vững sự đoàn kết trong Đảng, kiên quyết chống sự chia rẽ hay bất cứ biểu hiện nào của chủ nghĩa bè phái. Trong hoạt động thực tiễn, để bảo đảm sự thống nhất bền vững, Đảng chú trọng giải quyết những vấn đề cốt yếu.
Thứ nhất, nếu có quan điểm, nhận thức khác nhau về một vấn đề nào đó thì cần phải trao đổi, thảo luận kỹ, thậm chí phải chờ đợi nhau và từ thực tiễn để đi đến thống nhất nhận thức.
Khi thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh từ đặc điểm và mâu thuẫn của xã hội Việt Nam, đề cao vấn đề đấu tranh dân tộc nhằm làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Nhưng một số đồng chí lại đề cao đấu tranh giai cấp theo quan điểm của Quốc tế Cộng sản. Từ thực tiễn cách mạng, tại Hội nghị lần thứ sáu (11-1939) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì, Trung ương Đảng đã chủ trương nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Quan điểm của Trung ương và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn thống nhất. Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước cùng Trung ương hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc, dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng. Đất nước đứng trước yêu cầu khách quan phải đổi mới. Chỉ có đổi mới mới tồn tại và phát triển và điều này đã trở thành mệnh lệnh của cuộc sống. Nhưng vẫn có một số ý kiến không muốn đổi mới, phản ánh sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và hành động. Phải từ khảo nghiệm thực tế, đổi mới từng phần có hiệu quả mới khẳng định xu thế, biện pháp đổi mới là cần thiết, bức thiết, đúng đắn từ đó Đảng đi đến thống nhất quyết định đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986). Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc hay kháng chiến chống xâm lược dễ tìm được sự thống nhất và quyết tâm chung. Nhưng xây dựng và phát triển đất nước như thế nào để tiến tới chủ nghĩa xã hội thường có nhận thức khác nhau. Phải từ thực tiễn đất nước để làm rõ quy luật khách quan.
Cuộc đấu tranh chống suy thoái, tiêu cực, tham nhũng mấy năm gần đây, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (1-2012) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII (10-2016) là chủ trương lớn phù hợp lòng dân và ý Đảng. Song không phải không có người không tin có thể làm được, thậm chí thờ ơ, lảng tránh coi đó là việc của người khác, cơ quan khác. Các thế lực thù địch lợi dụng việc này để chia rẽ nội bộ Đảng, dựng chuyện trong Đảng đang có phái này, phái kia và vu cáo chống tham nhũng đang tiến hành chỉ là “cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng”. Thực tiễn, những kết quả và chuyển biến tích cực của cuộc đấu tranh chống suy thoái, tiêu cực, nhất là chống tham nhũng với những vụ việc kỷ luật cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp, đưa ra xét xử những vụ án kinh tế, tham nhũng lớn đã khẳng định trong cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp đó không có vùng cấm, không có chuyện hạ cánh an toàn. Quyết tâm và cách làm bài bản có hiệu quả đã củng cố niềm tin trong toàn Đảng, toàn dân. Đó là cơ sở quan trọng để thống nhất nhận thức và hành động. Khi đã thành phong trào mạnh mẽ vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng vì lợi ích của nhân dân và sự phát triển của đất nước thì không ai có thể đứng ngoài cuộc.
Công cuộc đổi mới đã làm sáng tỏ và nhận thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa sâu sắc, củng cố sự thống nhất nhận thức trong Đảng, nhận thức trên cơ sở khoa học và hiện thực.
Thứ hai, thường xuyên tự phê bình và phê bình và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Di chúc: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng”. Tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc và quy luật phát triển của một Đảng chân chính cách mạng. Nguyên tắc và quy luật đó luôn luôn gắn bó hữu cơ với nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng, nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với những quyết sách đúng đắn bảo đảm đưa cách mạng đi đến thắng lợi, Đảng cũng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[iv].
Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nghiêm chỉnh chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mỗi lần mắc khuyết điểm, Đảng đều kịp thời phát hiện tự phê bình và đề ra cách sửa chữa. Năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích để sửa chữa chủ trương của một số đồng chí không đúng với đường lối của Đảng. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã nêu rõ:
“Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng, chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”[v]. Tự chỉ trích để sửa chữa khuyết điểm, để Đảng củng cố sự thống nhất nhận thức và hành động. Vì thế, “những kẻ nghịch, chớ vội hí hởn tìm ở đây một sự chia rẽ hay mầm bè phái gì giữa những người cộng sản mà uổng công”[vi]. “Chúng ta không cãi vã những chuyện nhỏ nhen. Chúng ta là người cách mạng, chúng ta đứng về lợi ích về công cuộc của dân chúng mà chỉ trích những khuyết điểm”[vii].
Gần tám mươi năm trước, Tổng Bí thư của Đảng đã nêu rõ quan điểm kiểu mẫu về mục tiêu, thái độ và phương pháp tự chỉ trích trong Đảng và vẫn nguyên giá trị khoa học, cách mạng cho đến ngày nay. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, có một số cán bộ, đảng viên nắm chức vụ trong chính quyền đã phạm những lỗi lầm như: Trái phép, Cậy thế, Hủ hóa, Tư túng, Chia rẽ, Kiêu ngạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê bình nghiêm khắc trong thư gửi Ủy ban nhân dân các cấp ngày 17-10-1945. Ngày 28-1-1946, Hồ Chí Minh có bài Tự phê bình về những gì Chính phủ làm còn chưa tốt. Tháng 10-1947, Người viết Sửa đổi lối làm việc đặt lên hàng đầu vấn đề phê bình và sửa chữa khuyết điểm. Sai lầm trong cải cách ruộng đất năm 1956, Trung ương Đảng đã công khai tự phê bình trong nội bộ và trước nhân dân và đã sửa sai kịp thời. Tại Đại hội VI của Đảng (12-1986), với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình về “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn”, về bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, nóng vội và quyết tâm sửa chữa bằng đổi mới tư duy, vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, nắm chắc thực tiễn đất nước đề ra đường lối đổi mới thích hợp.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng đã nhiều lần tự phê bình về những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo và trong công tác xây dựng Đảng qua các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Nhiều hội nghị trung ương đã thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm về xây dựng Đảng ảnh hưởng đến nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là Nghị quyết Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Nghị quyết Trung ương 7 khóa VI (8-1989), Nghị quyết Trung ương 8 khóa VI (3-1990), Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII (6-1992), Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII (2-1999), Nghị quyết Trung ương 4 khóa X (2-2007).
Đặc biệt, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (1-2012) đã ban hành nghị quyết Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (10-2016) ban hành nghị quyết Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng và nhân dân đều nhận thức rõ một thực tế là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khuyết điểm, yếu kém về xây dựng Đảng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần được nhận diện rõ và sửa chữa kịp thời. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI thẳng thắn nhìn nhận:
“Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế yếu kém, thậm chí có những yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”[viii].
Từ năm 2012, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, toàn Đảng đã tiến hành đồng bộ các giải pháp được đề ra, trong đó giải pháp hàng đầu là tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên. Cùng với tự phê bình và phê bình là siết chặt kỷ luật Đảng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Từ năm 2012 đến hết năm 2015, đã xử lý kỷ luật 54.000 cán bộ, đảng viên với các hình thức, mức độ khác nhau. Tuy vậy, “Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, một số việc chưa đạt mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”[ix].
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (10-2016) là bước tiến quan trọng và đặc biệt nghiêm khắc khi trong nghị quyết đã chỉ rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tiếp tục nêu rõ những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng. Những hạn chế, khuyết điểm đó “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”[x].
Tự phê bình nghiêm khắc gắn liền với hành động mạnh mẽ, có trách nhiệm và sửa chữa có hiệu quả thông qua siết chặt kỷ luật Đảng, kỷ cương, pháp luật Nhà nước. Đó là thực tế đã và đang diễn ra trong thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Những kết quả đó đã củng cố vững chắc hơn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Các thế lực thù địch dù với động cơ và thủ đoạn gì cũng không thể kích động hình thành phe phái và chia rẽ nội bộ Đảng.
Thứ ba, sự đoàn kết, thống nhất vững chắc trong Đảng phải được bảo đảm với nền tảng tư tưởng, bằng Cương lĩnh, đường lối đúng đắn, nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng.
Khi chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rõ, cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng lãnh đạo mới thành công. Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu và phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Sau này, Người nhấn mạnh: Đảng không có lý luận cũng như người đi trong đêm tối hay nhắm mắt mà đi. Lý luận mang tính khoa học và cách mạng đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, đề ra Cương lĩnh, đường lối đúng đắn đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ chế độ phong kiến lạc hậu và thân phận nô lệ trong chế độ thuộc địa, dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo đã giành được độc lập, thống nhất hoàn toàn, đang xây dựng đất nước giàu mạnh phồn vinh “sánh vai với các cường quốc năm châu” như ước muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với thành quả lãnh đạo đó, “Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ và vị thế như ngày nay”[xi].
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động là quan điểm nhất quán và được tổng kết từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chính thực tiễn cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và chiến tranh cách mạng, chính quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh bản chất cách mạng, khoa học và giá trị bền vững của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là quá trình hiện thực hóa thành công nền tảng tư tưởng, lý luận và cũng là bảo đảm cho sự thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng.
Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận Mác-Lênin từ cội nguồn, tránh được những nhận thức lệch lạc, thậm chí không đúng và Người đã truyền bá có hệ thống, sáng tạo lý luận đó vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Cách chiến sĩ cộng sản Việt Nam nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin không hời hợt, ở trong nhà tù của đế quốc cũng ra sức học tập với niềm tin vững chắc. Ở mọi thời kỳ cách mạng, Đảng kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, cơ hội, xuyên tạc hoặc phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi các Đảng Cộng sản, các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng từ năm 1989, xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin dẫn tới sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, coi đó là một nguyên tắc chỉ đạo đổi mới. Đó là cái căn bản để thống nhất nhận thức, hành động trong Đảng, làm thất bại mưu toan đòi đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng. Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin với sự vận dụng phát triển sáng tạo đã bảo đảm tính đúng đắn, khoa học của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới và có được thành tựu như ngày nay.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới đã có những thành quả quan trọng. Đại hội IX của Đảng (4-2001) đã tổng kết những nội dung căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khẳng định những di sản lớn lao Hồ Chí Minh để lại cho Đảng và dân tộc.
Sự thống nhất về hệ tư tưởng là bảo đảm sự thống nhất về mục tiêu, nhiệm vụ chính trị và sự vững chắc về tổ chức. Từ trước tới nay, các thế lực thù địch tìm mọi cách để chia rẽ nội bộ Đảng với những thủ đoạn kích động, lôi kéo người này, người khác đồng thời tiến công vào nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Mọi mưu toan phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là dùng bàn tay che mặt trời. Chính thực tiễn cách mạng Việt Nam, công cuộc đổi mới với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đã và đang chứng minh sức sống và giá trị bền vững của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Để thống nhất nhận thức, hành động và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nhấn mạnh:
“Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao nhận thức trong toàn Đảng về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của việc học tập, nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị”[xii].
Để tiến công vào khối thống nhất vững chắc của Đảng, các thế lực thù địch đòi Đảng phải từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ-nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đó là nguyên tắc phát huy cao nhất dân chủ trong Đảng với trí tuệ tập thể để có được quyết định tập trung đúng đắn. Tập trung trên cơ sở dân chủ, dân chủ rộng rãi được bảo đảm bởi quyết định tập trung. Nguyên tắc cơ bản đó đòi hỏi cá nhân phục tùng tổ chức, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương. Cán bộ, đảng viên có quyền trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành kỷ luật đối với mình. Đảng viên phải nghiêm chỉnh thi hành Điều lệ Đảng và những quy định của Đảng. Nếu không có nguyên tắc tập trung dân chủ thì Đảng trở thành câu lạc bộ, không còn bản chất cách mạng, sức chiến đấu và không thể thực hiện được vai trò lãnh đạo. Cần phải thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ để thực hiện dân chủ trong Đảng thực chất và chống biểu hiện tập trung quan liêu hay lộng quyền, lạm quyền.
Hiện nay, Đảng đang siết chặt kỷ luật Đảng để chống suy thoái, tiêu cực và tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững bền. Nhà nước, Chính phủ đề cao pháp luật trong tổng thể: Kỷ cương-Liêm chính-Hành động-Sáng tạo-Hiệu quả. Những quyết sách và hành động đó của Đảng, Nhà nước là hợp vận nước và lòng dân, không một thế lực nào có thể nghi ngờ và xuyên tạc. Dù còn một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, tiêu cực, tham nhũng, trong đó có cả cán bộ cao cấp, song không vì thế mà suy giảm bản chất cách mạng trong sáng của Đảng. Điều đó càng đòi hỏi quyết tâm chiến đấu chống lại những gì là tiêu cực, lạc hậu và hư hỏng. Trên bước đường đi lên hiện nay dù còn nhiều khó khăn, thử thách, yếu kém, “Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta-Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”[xiii].
PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc
[i] V.I.Lênin Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tập 8, trang 286.
[ii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 5, trang 290.
[iii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 15, trang 622.
[iv] Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, tập 5, trang 301.
[v] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 6, trang 624.
[vi] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 6, trang 621.
[vii] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2000, tập 6, trang 640.
[viii] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb CTQG, H, 2012, trang 21-22.
[ix] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, trang 22.
[x] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, trang 23.
[xi] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, trang 20.
[xii] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, trang 36-37.
[xiii] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, trang 20.