1. Báo chí là một thiết chế xã hội đặc thù, mang bản chất chính trị - xã hội sâu sắc. Tính chính trị (hay tính khuynh hướng chính trị) của báo chí là một nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động của báo chí. Nền báo chí thuộc thể chế chính trị nào cũng đều mang bản chất chính trị - xã hội. Trong xã hội có giai cấp và còn sự khác biệt về lợi ích, báo chí với tư cách là công cụ đấu tranh giai cấp, luôn thuộc về một giai cấp nhất định, thường là giai cấp thống trị xã hội - giai cấp này sử dụng báo chí như một công cụ đắc lực để giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, đồng thời tuyên truyền hệ tư tưởng của mình để chính thống hóa và duy trì nó ở vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ phóng viên các cơ quan báo chí trong và ngoài nước tại Thủ đô Hà Nội (5/1968).
Ảnh: TTXVN
Báo chí thuộc giai cấp, nhóm xã hội nào thì bảo vệ cho quyền, lợi ích của giai cấp, nhóm xã hội đó. Tính khuynh hướng chính trị là nguyên tắc phổ biến, tồn tại khách quan, ngoài ý muốn chủ quan, không thể chối bỏ của báo chí. Do đó, không thể và không bao giờ có thứ báo chí trung lập, đứng ngoài, đứng trên chính trị hay không can dự vào đấu tranh giai cấp, đấu tranh tư tưởng, ở bất kỳ một nền báo chí, nền chính trị nào trên thế giới. Nếu xa rời bản chất và nguyên tắc chính trị, báo chí sẽ đánh mất phương hướng, mục đích hoạt động và tự nó xóa bỏ cơ sở để tồn tại và hoạt động của mình.
Nền báo chí vô sản mang bản chất cách mạng công khai khẳng định bản chất và nguyên tắc tính chính trị của báo chí; công khai tuyên bố và thực hành chức năng tư tưởng của báo chí. Với bản chất, nguyên tắc và chức năng này, theo quan điểm của Đảng, báo chí là công cụ, phương tiện quan trọng để tuyên truyền hệ tư tưởng của Đảng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tư tưởng này trở thành chủ đạo, chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần của đông đảo nhân dân. Báo chí tuyên truyền để tạo dựng niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ chế độ, vì sự phát triển bền vững của đất nước và chấn hưng dân tộc; tự nguyện phục tùng, vì lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động...
Tính khuynh hướng chính trị của báo chí hình thành một cách khách quan do nguồn gốc xã hội và tư tưởng của bản thân nền báo chí, nhưng lại được phát triển và vận dụng một cách tự giác, một cách có ý thức, tức là tính khuynh hướng chính trị “trưởng thành” ở trình độ cao sẽ trở thành tính đảng. Tính đảng là báo chí tự giác và vững vàng đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, trở thành tiếng nói thể hiện quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân lao động, đồng thời tự nguyện chịu sự lãnh đạo và tuyên truyền, tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo chí tự nguyện phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, hơn nữa còn là “binh chủng” xung kích, đi đầu trong công tác tư tưởng của Đảng, bởi Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, thực sự là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Nhân dân và dân tộc; hệ tư tưởng của Đảng là triệt để cách mạng, khoa học và nhân văn sâu sắc. Do đó, báo chí đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng chính là gánh vác sứ mệnh bảo vệ lợi ích tối cao của Nhân dân và dân tộc, là lương tâm và trách nhiệm cao cả của những người làm báo cách mạng chân chính. Hơn nữa, việc được vũ trang bởi một hệ tư tưởng tiến bộ giúp cho nền báo chí nước ta cũng mang trong mình các giá trị cách mạng, khoa học và nhân văn sâu sắc, luôn phát triển đúng hướng, có mục tiêu rõ ràng, có nhãn quan biện chứng để nhìn nhận các sự kiện, vấn đề một cách khách quan, toàn diện, lịch sử và cụ thể; luôn đứng về phía tiến bộ, đấu tranh và ủng hộ những nhân tố tích cực, làm cho các giá trị nhân văn, nhân bản lan tỏa trong xã hội, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, những tiêu cực, lạc hậu, bảo thủ cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội...
Chức năng thông tin là chức năng cơ bản, nguyên thủy và khởi nguồn của báo chí. Tuy nhiên, đặt chức năng thông tin của báo chí lên hàng đầu không đồng nghĩa với tuyệt đối hóa nó và cho rằng thông tin sự kiện là khách quan tuyệt đối, là thông tin sự kiện bản thể nguyên dạng, ngoài ra không vì bất cứ mục đích nào khác. Báo chí thông tin chân thực, khách quan song được tái tạo và soi chiếu qua lăng kính chủ quan của nhà báo, bao giờ cũng mang tính khuynh hướng chính trị rõ nét - do địa vị xã hội và lợi ích của tổ chức xã hội hay lực lượng chính trị mà nhà báo đại diện phát ngôn chi phối, không thể đứng trung lập hay khách quan thuần túy như một số người quan niệm. Do đó, báo chí thông tin sự kiện, vấn đề chỉ mang tính khách quan tương đối và đều có mục đích rõ ràng. Trình độ, năng lực nhận thức của nhà báo càng cao, phạm vi bao quát vấn đề càng rộng, thì tính khuynh hướng và mục đích chính trị trong thông tin càng bộc lộ rõ ràng và dứt khoát. Trong thực tiễn, thông tin (inform) và tuyên truyền (propaganda) là hai mặt của một vấn đề. Không ai thông tin mà không nhằm mục đích nào đó, tức là tuyên truyền; ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh, tuyệt đối hóa tuyên truyền mà không đẩy mạnh thông tin những sự kiện, vấn đề cụ thể, sinh động từ cuộc sống thì trở thành tuyên truyền suông, thiếu thuyết phục và hiệu quả. Như vậy, tuyên truyền là sự biểu hiện tập trung tính mục đích của báo chí, trước hết là mục đích chính trị. Tuyên truyền mang tính phổ quát ở mọi nền báo chí, là công việc được thực hiện bởi bất kỳ đảng phái chính trị hay chính phủ ở thể chế chính trị nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, dù thừa nhận hay không thừa nhận. Tuyên truyền mang nghĩa tốt hay xấu không do nội hàm khái niệm, mà hoàn toàn do mục đích của chủ thể sử dụng nó.
Việc tuyên truyền gắn liền với sự định hướng. Tuy nhiên, định hướng không phải là bắt ép công chúng báo chí nhận thức, suy nghĩ và hành động theo một khuôn mẫu chủ quan duy ý chí từ các chủ thể chính trị; mà là quá trình “bắt mạch” được thực tại khách quan, thấu cảm tâm lý, nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân, trên cơ sở đó thông tin trở nên chính thống, tin cậy, thuyết phục để quy tụ lòng người, gia tăng sự đồng thuận, thống nhất cộng đồng trên cả hai bình diện nhận thức và hành động, vì những mục tiêu phát triển chung của đất nước. Ở góc độ ngược lại, đông đảo người dân cũng có nhu cầu được định hướng thông tin, như một nhu cầu tự thân, nhất là trước bối cảnh thông tin “vàng thau lẫn lộn”, bị quá tải như hiện nay.
Nền báo chí nước ta thực hành nhiệm vụ tuyên truyền tuyệt đối bảo đảm tính chân thực, khách quan. Như V.I. Lênin từng khẳng định, tuyên truyền là đem chân lý đến cho người nghe; và, đông đảo quần chúng nhân dân tin tưởng, đi theo những người cộng sản không phải vì những người cộng sản khéo nói, mà chính bởi người cộng sản nói đúng sự thật. V.I. Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính thực tiễn, tính khách quan, xác thực của hoạt động tuyên truyền, đặc biệt phát hiện và lấy những sáng tạo của quần chúng nhân dân để thuyết phục nhân dân.
Tính chính trị của nền báo chí biểu hiện ở nhiều mặt, song tập trung ở một số chiều cạnh chính như sau: (1) Báo chí gánh vác nhiệm vụ tiên phong trong tuyên truyền bảo vệ và góp phần xác lập vị trí chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng trong đời sống xã hội, khẳng định tính đúng đắn của đường lối chính trị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; (2) Báo chí là một kênh hữu hiệu và chủ đạo tham gia giám sát và kiểm soát quyền lực; (3) Báo chí đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, đấu tranh với những tư tưởng lỗi thời, lạc hậu cản trở sự phát triển.
2. Suốt lịch sử vẻ vang 100 năm, nền báo chí cách mạng Việt Nam luôn gánh vác nhiệm vụ tiên phong trong tuyên truyền bảo vệ và góp phần xác lập vị trí chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng trong đời sống xã hội, khẳng định tính đúng đắn của đường lối chính trị của Đảng, tạo dựng niềm tin sâu sắc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân ta đã kiên định lựa chọn.
Ngay từ khi Đảng chưa ra đời, Báo Thanh niên - tờ báo cách mạng đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập ra ngày 21/6/1925 tại Quảng Châu, Trung Quốc, đã đảm đương việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin gắn với đường lối cứu nước vào Việt Nam, có tác dụng phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc và kết hợp một cách nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra những vấn đề cơ bản thuộc về chiến lược, sách lược của cách mạng và vai trò lãnh đạo của một chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam. Hội nghị thành lập Đảng (năm 1930) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã quyết định xuất bản một tạp chí lý luận chung cho toàn Đảng và ba tờ báo tuyên truyền ở ba xứ, cho thấy tầm nhìn vượt trước thời đại của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác truyền bá và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và sự cần thiết phải có tờ tạp chí lý luận chính trị của Đảng là ngọn cờ tiên phong gánh vác sứ mệnh rất quan trọng này. Thực hiện quyết định đó, Tạp chí Đỏ (tiền thân của Tạp chí Cộng sản), mà người sáng lập và chủ bút đầu tiên là đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ra số 1 ngày 05/8/1930. Ngay từ số đầu tiên,
Tạp chí Đỏ đã thể hiện rõ tính chất là tạp chí lý luận chính trị của Đảng, “sau sẽ tiếp tục in mãi”[1] để làm “tài liệu huấn luyện và nghiên cứu cho đảng viên”[2] về chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng vô sản, dùng lý luận để đấu tranh chống những nhận thức, khuynh hướng tư tưởng sai trái... Sau đó, các tờ Dân chúng (1938), Việt Nam độc lập (1941), Cờ giải phóng (1942), Cứu quốc (1942)... ra đời, hợp thành hệ thống báo, tạp chí có vai trò chủ lực tuyên truyền tư tưởng của Đảng, lý tưởng cách mạng trong thời kỳ hoạt động công khai nửa hợp pháp và hợp pháp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người thầy vĩ đại của những người làm báo cách mạng Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thủ đô Hà Nội và Thủ đô kháng chiến Việt Bắc là nơi quy tụ các cơ quan đầu não của Đảng và Nhà nước và cũng là cái nôi của báo chí cách mạng thời kỳ này, với sự ra đời của nhiều cơ quan báo chí lớn, như Đài Tiếng nói Việt Nam (1945), Thông tấn xã Việt Nam (1945), Báo Công an nhân dân (1946), Báo Quân đội nhân dân (1950), Báo Nhân dân (1951), Báo Tiền phong (1953)... Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, báo chí ở miền Bắc và báo chí cách mạng ở miền Nam đã cùng quân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hậu phương vững chắc của cách mạng cả nước; cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Bước vào thời kỳ đổi mới, báo chí có những đóng góp xứng đáng trong việc động viên toàn xã hội đẩy mạnh toàn diện, sâu rộng công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay và nền báo chí nước ta cũng có những bước phát triển vượt bậc, mạnh mẽ, đội ngũ ngày càng hùng hậu...
Như vậy, từ khi ra đời đến nay, báo chí cách mạng Việt Nam luôn trung thành, son sắt tuân thủ nguyên tắc bất di bất dịch phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng nâng cao tính chính trị, là công cụ bảo vệ Đảng, chế độ chính trị, nhân dân và lợi ích quốc gia - dân tộc. Báo chí là cầu nối giữa “ý Đảng với lòng dân”, đưa đường lối chính trị của Đảng đi vào cuộc sống, đồng thời nói lên tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí là công cụ thể hiện quyền lực chính trị của Đảng, cũng đồng thời thể hiện vị thế, vai trò chính trị của nhân dân. Báo chí không chỉ tuyên truyền một chiều, mà thực sự là diễn đàn của đông đảo các tầng lớp nhân dân, là công cụ thực hành ngày càng rộng rãi và thực chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tự do báo chí, tự do ngôn luận. Báo chí cũng không tự bằng lòng với chính mình, mà thường xuyên tự đổi mới, không ngừng nâng cao chất lượng và tính hấp dẫn, để đường lối, chủ trương của Đảng được chuyển tải, thẩm thấu đến với công chúng báo chí một cách lôi cuốn, thuyết phục, tự nhiên, chuyển hóa thành những phong trào và hành động cách mạng rộng khắp. Báo chí cũng không bị động trong tuyên truyền một chiều chủ trương, đường lối của Đảng, mà chủ động phát hiện, sáng tạo, phân tích, luận giải sâu sắc các sự kiện, vấn đề, qua tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận gắn với điều kiện cụ thể của nước ta, với bộn bề những chất liệu từ công cuộc đổi mới đầy sôi động, góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kịp thời góp ý hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước sát đúng và trúng với thực tiễn, nguyện vọng của Nhân dân...
Thấm nhuần tính đảng - đỉnh cao của tính chính trị - báo chí ngày càng coi trọng việc viết về Đảng, về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong mọi thời kỳ lịch sử, báo chí cách mạng Việt Nam luôn đồng hành với từng bước trưởng thành và phát triển của Đảng, của cách mạng nước ta. Như một lẽ tự nhiên, những người làm báo cách mạng viết về Đảng bằng tất cả tình cảm và trách nhiệm của mình, mong muốn đóng góp những ý kiến tâm huyết để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đủ tầm trí tuệ, năng lực và đạo đức vững vàng đảm đương lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Báo chí là một kênh hữu hiệu và chủ đạo tham gia giám sát và kiểm soát quyền lực. Giám sát, phản biện xã hội và kiểm soát quyền lực để quyền lực không bị tha hóa, để mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân là một chức năng xã hội của báo chí, cũng là chiều cạnh thể hiện rõ tính chính trị của báo chí hiện đại. Báo chí không chỉ gián tiếp, mà trực tiếp tham gia việc kiểm soát xã hội nói chung, kiểm soát quyền lực nói riêng như một vai trò, bổn phận, nghĩa vụ xã hội tự thân của mình. Trong thể chế chính trị của nước ta, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân ủy thác quyền lực của mình cho các cơ quan của Đảng, Nhà nước thực hiện để phục vụ nhân dân. Nhân dân trao quyền nhưng không phó mặc, mà đồng thời giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước bằng các phương thức, phương tiện khác nhau, trong đó báo chí là một công cụ quan trọng.
Kiểm soát quyền lực là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các chủ thể, thiết chế quyền lực, bảo đảm cho quyền lực thực thi đúng mục đích chung và đạt hiệu quả cao nhất. Báo chí kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thông qua một số phương thức sau đây:
Một là, báo chí kiểm soát quyền lực thông qua sức mạnh của công luận, dư luận xã hội. Dư luận xã hội là sự phản ánh tâm trạng xã hội, đánh giá của các nhóm xã hội về các sự kiện, hiện tượng, vấn đề thời sự liên quan đến lợi ích của cộng đồng. Báo chí vừa phản ánh và truyền dẫn dư luận xã hội, đồng thời cũng khơi nguồn dư luận xã hội, chia sẻ và cộng hưởng thông tin, kết nối, liên kết xã hội, tạo mối quan tâm chung của những cộng đồng xã hội và có thể hình thành các làn sóng dư luận xã hội. Làn sóng dư luận càng lan rộng, dữ dội, thì càng tạo nên sức ép lớn, nhất là đối với những vấn đề tiêu cực, sai trái trong thực thi quyền lực, buộc các chủ thể sử dụng quyền lực phải có những thay đổi, điều chỉnh theo hướng tích cực. Dư luận xã hội luôn song hành với báo chí, có mối quan hệ chặt chẽ, có sức mạnh chế ngự, kìm giữ quyền lực, nhất là khi nó tiệm cận chân lý, lẽ phải.
Hai là, báo chí giám sát xã hội để kiểm soát quyền lực. Đảng xác định, báo chí (công luận) là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội (giám sát của tổ chức đảng, trước hết là từ chi bộ; giám sát của nhân dân; giám sát của các cơ quan đại diện nhân dân; giám sát của công luận). Thực hiện chức năng giám sát xã hội, báo chí theo dõi, đánh giá việc thực thi các chủ trương, chính sách, kịp thời phát hiện những nhân tố điển hình, cách làm hay để biểu dương, nhân rộng, đồng thời cũng sớm phát hiện những việc làm sai trái, tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng hoặc buông lỏng quyền lực để cảnh báo, phê phán, chỉ trích, đấu tranh, qua đó góp phần kiểm soát quyền lực.
Ba là, báo chí phản biện xã hội dựa trên cơ sở hệ dữ liệu và minh chứng khoa học, có luận điểm, luận cứ và luận chứng rõ ràng để đưa ra những phân tích, nhận xét, đánh giá đa chiều, góp ý xây dựng, phát hiện những mặt tích cực và tiêu cực, cái hoàn thiện và cái cần tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là chỉ ra những bất cập, xung đột, lỗ hổng trong việc thực thi quyền lực, từ đó đề xuất, đưa ra các giải pháp nhằm tháo gỡ, hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức công quyền, đồng thời góp phần hạn chế, ngăn chặn việc sử dụng quyền lực sai mục đích để trục lợi... Qua sự phản biện của báo chí, các chủ thể sử dụng quyền lực có cơ hội phản tỉnh, soát xét lại quá trình thực thi quyền lực, phát huy những kết quả tích cực, phòng tránh, sửa chữa, khắc phục những khiếm khuyết, sai lầm. Trong nền báo chí hiện đại, báo chí phản biện xã hội phát triển thành xu thế báo chí tư vấn, báo chí giải pháp - báo chí không chỉ phản ánh hay phân tích, mà còn vươn tới tư vấn về chính sách, giải pháp tháo gỡ, cởi trói các rào cản, nút thắt phát triển cho các chủ thể sử dụng quyền lực.
Bốn là, báo chí là cầu dẫn thông tin để kiểm soát quyền lực. Thông tin không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người và phát triển xã hội, mà hệ thống thông tin thông suốt, nhanh nhạy, trung thực, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình còn là phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực. Bản chất và sức mạnh xã hội của báo chí thể hiện qua ba cấp độ: thông tin, giao tiếp - kết nối xã hội - can thiệp xã hội. Khi sự kết nối xã hội đủ lớn thì thông tin sẽ có sức mạnh của lực lượng vật chất có thể can thiệp, góp phần điều chỉnh, giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội đang đặt ra. Đứng ở góc độ nào thì bảo đảm thông tin thông suốt, minh bạch trong quá trình thực thi hoạt động quyền lực cũng là phương thức quan trọng để kiểm soát quyền lực.
Như vậy, dù với phương thức nào thì báo chí cũng có vai trò quan trọng trong kiểm soát quyền lực. Báo chí kiểm soát quyền lực bằng tai mắt của Nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, vừa phòng ngừa tích cực, vừa đấu tranh không khoan nhượng, tránh tả khuynh hay hữu khuynh, hướng tới việc kiểm soát các chủ thể quyền lực không dám, không thể, không muốn vi phạm trong thực thi và sử dụng quyền lực.
Báo chí là thiết chế đại diện cho công luận - một hình thức quyền lực của nhân dân - trong mối quan hệ với quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, thực hiện giám sát và kiểm soát quyền lực từ bên ngoài đối với cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan của Đảng, cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Báo chí kịp thời phát hiện những bất cập, nút thắt phát sinh cản trở việc thực thi quyền lực, từ đó phản ánh, kiến nghị tháo gỡ để thiết lập cơ chế, chính sách, môi trường, điều kiện bảo đảm làm cho các chủ thể “rộng đường” thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước; phát hiện những tiêu cực, sai phạm trong quá trình thực thi quyền lực, đưa ra trước ánh sáng công luận, pháp luật để ngăn chặn sự lạm quyền, lộng quyền của cán bộ, công chức, viên chức ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước, thậm chí đối với cả các chủ thể quyền lực ở khu vực ngoài nhà nước, góp phần đưa quyền lực trở về đúng quỹ đạo vận hành minh bạch và lành mạnh của nó.
Báo chí cách mạng nước ta bản lĩnh, kiên định đi đầu “phò chính, trừ tà”, đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng sai trái, tiêu cực, nhất là tham nhũng, lãng phí, qua đó góp phần quan trọng trong kiểm soát quyền lực, thể hiện rõ trách nhiệm chính trị, tính chính trị trong hoạt động báo chí. Bằng tác nghiệp điều tra, báo chí phát hiện, phanh phui nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chạy chức, chạy quyền... nổi cộm, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nhiều vụ việc do báo chí thông tin đầu tiên, từ đó các cơ quan thực thi pháp luật có cơ sở tiếp tục mở rộng điều tra làm sáng tỏ và xử lý theo quy định của pháp luật. Có thể nói, nếu không có sự vào cuộc của báo chí, nhiều sai phạm khó bị phát hiện - nhất là trong bối cảnh tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân diễn ra ngày càng phức tạp, tinh vi, thậm chí được bao che, tiếp tay từ một số cán bộ có chức, có quyền thoái hóa, biến chất - và những sai phạm đó, nếu không bị phát hiện, sẽ tiếp tục diễn ra, ngang nhiên thách thức pháp luật, gây dư luận xã hội xấu, giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Đằng sau những tác phẩm báo chí đó là sự dấn thân, không quản hiểm nguy của các nhà báo trên tuyến đầu đấu tranh chống tiêu cực; là sự dũng cảm đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư, tật xấu, vượt qua cả những cám dỗ..., góp phần giữ nghiêm kỷ luật của Đảng, kỷ cương xã hội. Nhờ đó, báo chí được Đảng, Nhà nước và Nhân dân gửi gắm sự tin cậy, tiếp tục đi đầu trong đấu tranh chống tiêu cực, kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị.
Báo chí đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối chính trị của Đảng, đấu tranh với những tư tưởng lỗi thời, lạc hậu cản trở sự phát triển. Là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, thể hiện vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên lĩnh vực tư tưởng luôn là mũi nhọn tấn công, chống phá chủ đạo của các thế lực thù địch. Do đó, việc giữ vững trận địa tư tưởng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Báo chí cách mạng Việt Nam là vũ khí sắc bén trên mặt trận tư tưởng, nên ngay từ khi ra đời, đã gánh sứ mệnh đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nâng cao tính chiến đấu, hiệu lực, hiệu quả đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch cũng chính là bồi đắp và làm sâu sắc thêm tính chính trị của báo chí cách mạng Việt Nam.
Tùy theo tôn chỉ, mục đích của mình, các “binh chủng” báo chí tham gia đấu tranh theo phương châm: “Hỏa khí phân tán, hỏa lực tập trung”, phát huy cao độ thế mạnh của từng cơ quan báo chí, loại hình báo chí, song đều tập trung vào một mục tiêu chung là đập tan những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, từ năm 2018 đến nay, công tác đấu tranh tư tưởng có những chuyển biến tích cực. Các cơ quan báo chí, nhất là các cơ quan báo chí lớn, đã quan tâm đầu tư chuyên mục riêng và hệ bài viết đấu tranh tư tưởng có chất lượng cao, công phu, cùng với các lực lượng chức năng khác đã phủ lượng lớn các bài viết đấu tranh trên các sản phẩm báo chí chính thống và trên không gian mạng, góp phần phản bác đanh thép và hiệu quả những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kịp thời định hướng dư luận xã hội, nhất là trước các sự kiện, vấn đề chính trị quan trọng của đất nước, của Đảng ta. Tuyến bài viết đấu tranh trên, cùng các biện pháp kỹ thuật, kinh tế... của các cơ quan nghiệp vụ, đã góp phần phá “ưu thế” trước đây của những luồng thông tin xấu, độc trên mặt trận tư tưởng, nhất là không gian mạng, của các thế lực thù địch.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xã hội mới vẫn còn mang “những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra”[3], có sự đan xen và đấu tranh gay gắt giữa các yếu tố cũ và mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu, lỗi thời. Do đó, báo chí cần đứng trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng phương pháp luận biện chứng để có cái nhìn khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, kịp thời phát hiện các nhân tố mới tiến bộ của chủ nghĩa xã hội để ủng hộ, ngay cả khi nó mới manh nha, nảy mầm, thậm chí có những thoái trào, thụt lùi, thất bại tạm thời; đấu tranh với những cái tất yếu lỗi thời, lạc hậu cản trở sự phát triển, dù trước mắt nó vẫn hiện tồn, song cũng cần tránh tư tưởng, cách làm phủ định sạch trơn hay chủ quan duy ý chí... Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, báo chí chính là lực lượng quan trọng phát hiện và ủng hộ nhiều sự đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội mang tính bước ngoặt của lịch sử, thể hiện rõ bản lĩnh đấu tranh sắc bén với những quan điểm, tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, bảo vệ có nguyên tắc và cơ sở khoa học những nhân tố, yếu tố (dù khi đó có thể là thiểu số) đại diện cho cái mới, tiến bộ trong tương lai...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc nâng cao tính chính trị của báo chí vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định sau đây:
Một số cơ quan báo chí còn xem nhẹ việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, xa rời tôn chỉ, mục đích, có biểu hiện thương mại hóa. Việc tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn chậm đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức, nên còn khô cứng, một chiều, lý luận chưa sinh động gắn với thực tiễn hoặc ngược lại, thực tiễn thiếu cơ sở dẫn dắt của lý luận nên tính thuyết phục chưa cao. Do tần suất, cường độ, hình thức và phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp, nên không ít nghị quyết quan trọng của Đảng chưa đi được vào cuộc sống. Báo chí chưa thực sự hiệu triệu, tập hợp và huy động được nhiều những nguồn lực to lớn trong nhân dân để phục vụ sự phát triển của đất nước.
Tính chiến đấu của một số cơ quan báo chí chưa cao, việc đấu tranh với những thói hư, tật xấu, tiêu cực, tệ nạn, mặt trái của đời sống xã hội đôi khi còn mờ nhạt, phương pháp chưa phù hợp. Vẫn có hiện tượng một số cơ quan báo chí, nhà báo lợi dụng việc đấu tranh chống tiêu cực để trục lợi. Năng lực phát hiện những bất cập, “lỗ hổng” trong các chủ trương, chính sách còn hạn chế; không ít đề xuất, kiến nghị, tư vấn chính sách chưa đúng, trúng, đủ tầm. Việc giám sát, kiểm soát quyền lực hiệu lực, hiệu quả chưa cao, thực hiện chưa đến nơi đến chốn, còn có biểu hiện hình thức.
Công tác đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch có thời điểm còn chậm, bị động, chưa giữ được nhịp độ thường xuyên, trong điều kiện các thế lực thù địch liên tục có những thay đổi về lực lượng, phương thức và phương tiện chống phá. Không ít cấp ủy, chính quyền cơ sở còn lúng túng, thậm chí buông lỏng, bỏ trống “trận địa”, để xảy ra nhiều “điểm nóng” tại một số địa phương, nhưng chậm được giải quyết, trong khi năng lực ứng phó với khủng hoảng thông tin còn hạn chế hoặc chưa được trang bị kiến thức, kỹ năng. Công tác phối hợp giữa các lực lượng trong đấu tranh có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao, còn trùng lắp, gây lãng phí không ít nguồn lực. Nhiều sản phẩm, tác phẩm đấu tranh có nội dung thông tin còn đơn giản, thiếu chiều sâu về tính lý luận, tính khoa học; hệ thống luận cứ, luận chứng để lập luận nhằm phản bác những luận điệu sai trái chưa đủ sức thuyết phục; tính chiến đấu, bút chiến còn yếu, mờ nhạt. Trong khi đó, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có một số mặt còn lạc hậu, bất cập, nhiều vấn đề mới chưa kịp thời được luận giải một cách khoa học, khiến công tác đấu tranh càng thiếu cơ sở, nên lúng túng, hiệu quả thấp; chưa thực sự gắn chặt nghiên cứu lý luận với đấu tranh lý luận. Hệ thống báo chí của ta có thời điểm chưa thể hiện được vai trò chủ đạo trong đấu tranh với các thông tin sai trái, xuyên tạc, thù địch. Các tuyến bài, dòng thông tin mỏng, trùng lắp nhiều...
3. Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu mới đối với việc nâng cao tính chính trị của hệ thống báo chí nước ta. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong nước có tác động mạnh mẽ đến tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, những trào lưu tư tưởng phi mácxít kiểu mới du nhập vào nước ta ít nhiều gây phân rã tư tưởng, khiến cho công tác thống nhất tư tưởng ngày càng khó khăn, môi trường định hướng dư luận ngày càng phức tạp. Sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông mới, các phương tiện truyền thông xã hội tạo áp lực cạnh tranh lớn đối với các cơ quan báo chí, cả về mặt nội dung và kinh tế truyền thống. Sự cạnh tranh của các tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới, của các nền tảng truyền thông xuyên quốc gia làm suy giảm năng lực làm chủ thị trường thông tin trong nước của các cơ quan báo chí nước ta. Cơ chế tự chủ tài chính đặt ra không ít áp lực đối với sự phát triển của nhiều cơ quan báo chí. Việc sắp xếp lại các cơ quan báo chí bước đầu tạo sự tinh gọn hơn, song cũng nảy sinh những bất cập, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục tháo gỡ. Công tác lãnh đạo, quản lý báo chí đang đứng trước nhiều thách thức mới...
Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hướng tới đạt các mục tiêu trọng đại của đất nước vào năm 2030, năm 2045. Những bước chuyển, mục tiêu hệ trọng đó của đất nước đặt ra yêu cầu thống nhất cao nhất nhận thức của toàn xã hội, cũng đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc nâng cao tính chính trị của báo chí. Đặc biệt, công cuộc đổi mới là quá trình không ngừng tìm tòi, thử nghiệm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, phấn đấu đầy gian khổ, hy sinh của toàn Đảng và nhân dân ta. Nhờ coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, xuất phát từ thực tiễn để đổi mới tư duy, nhận thức, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, Đảng ta đã bước đầu định hình hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng, kết tinh trí tuệ của toàn Đảng ta, của tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư qua nhiều thời kỳ, là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn cụ thể của Việt Nam, dẫn dắt đất nước ta vững vàng đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng hành cùng sự phát triển của đất nước, việc nâng cao tính chính trị của báo chí cách mạng Việt Nam đặt trong nhiệm vụ truyền bá và góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới của Đảng sẽ có những yêu cầu mới, ngày càng cao hơn, khó khăn hơn, nhất là trong bối cảnh các thế lực thù địch đã, đang và sẽ ra sức tấn công vào đường lối đổi mới và lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta...
Để nâng cao tính chính trị đối với báo chí ở nước ta trong tình hình mới, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí cách mạng Việt Nam. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch, luôn phải giữ vững, là điều kiện bảo đảm cho việc xây dựng thành công nền báo chí cách mạng Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp và nhân văn; đồng thời cũng là yếu tố tiên quyết bồi đắp tính chính trị, tính Đảng của báo chí một cách thường xuyên, tự giác. Trước bối cảnh mới đặt ra cả thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của nền báo chí Việt Nam, đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo đối với báo chí, coi trọng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và bằng công tác tổ chức, cán bộ, nhất là củng cố, kiện toàn ban lãnh đạo, người đứng đầu các cơ quan báo chí có chất lượng, đề cao tính nêu gương của đội ngũ tổng biên tập các cơ quan báo chí; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tránh cả hai khuynh hướng, hoặc lãnh đạo, chỉ đạo can thiệp quá sâu vào hoạt động tác nghiệp hằng ngày của cơ quan báo chí, làm giảm động lực sáng tạo, chủ động; hoặc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý. Củng cố và phát huy vai trò các tổ chức đảng trong cơ quan báo chí; các đảng bộ, chi bộ trong cơ quan báo chí phải là những tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, tiêu biểu, đi đầu trong việc nêu cao tính đảng, tính chính trị.
Thứ hai, nâng cao chất lượng các nguồn lực của cơ quan báo chí, tạo dựng điều kiện thuận lợi để các cơ quan báo chí hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm báo về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là giáo dục nhận thức sâu sắc sứ mệnh của báo chí cách mạng Việt Nam, vai trò “chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng” của báo chí, để đội ngũ những người làm báo không ngừng rèn bút, luyện nghề với tâm thế “Bút sắc, lòng trong, tâm sáng” đủ sức hoàn thành nhiệm vụ cao cả của báo chí cách mạng.
Đổi mới cơ chế để một mặt tạo thuận lợi thúc đẩy hoạt động kinh tế truyền thông của các cơ quan báo chí, mặt khác tăng cường cơ chế đặt hàng của Đảng, Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, bảo đảm nguồn lực tài chính cho các cơ quan báo chí hoạt động. Quan tâm hỗ trợ chuyển đổi số, xây dựng hạ tầng công nghệ hiện đại đáp ứng được yêu cầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bắt kịp những xu thế công nghệ, xu hướng phát triển báo chí hiện đại chủ đạo của thế giới. Có chiến lược nghiên cứu, phát triển công nghệ truyền thông, báo chí trong nước, từng bước góp phần giảm sự lệ thuộc vào công nghệ từ bên ngoài.
Thứ ba, gắn chặt tính chính trị với tính hấp dẫn, tính chiến đấu, tính chính thống của báo chí cách mạng Việt Nam. Việc bảo đảm tính chính trị không có nghĩa là báo chí tuyên truyền một chiều, mang tính áp đặt từ trên xuống, mà cần gắn chặt với tính hấp dẫn. Tính chính trị sẽ khó có thể phát huy nếu thiếu các sản phẩm, tác phẩm báo chí có chất lượng, hấp dẫn, cuốn hút công chúng báo chí một cách tự nhiên; nếu hiệu lực, hiệu quả tuyên truyền thấp, khả năng khơi nguồn và định hướng dư luận hạn chế. Do đó, việc đầu tư, chăm lo để có hệ bài viết chất lượng, được đông đảo công chúng báo chí quan tâm, đón nhận, có hiệu lực, hiệu quả tuyên truyền cao là yếu tố quan trọng giúp nâng cao tính chính trị của báo chí. Báo chí cũng cần dấn thân, có bản lĩnh và dũng khí, tính chiến đấu, đi đầu trong đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch, kết hợp giữa đấu tranh mở rộng về diện với đấu tranh có chiều sâu về điểm, nhất là coi trọng việc sử dụng lý luận để bẻ gãy từ gốc những luận điệu xuyên tạc; đấu tranh với những tiêu cực, tham nhũng, mặt trái của xã hội, hướng dẫn và dẫn dắt xã hội tới các giá trị chân, thiện, mỹ. Trong bối cảnh cạnh tranh của các phương tiện truyền thông xã hội, báo chí càng cần phát huy lợi thế của thông tin chính thống, chuẩn xác, tin cậy. Khuyến khích thúc đẩy những dạng thức báo chí mới có chất lượng, như báo chí dữ liệu lớn, báo chí tư vấn chính sách... Là thiết chế xã hội có vai trò xã hội rộng lớn, đa dạng, báo chí cần phát huy hơn nữa khả năng khơi dậy, tập hợp nguồn lực, tham gia giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội đang bức thiết đặt ra. Bản thân mỗi cơ quan báo chí cũng cần không ngừng nỗ lực tự đổi mới và tự nâng tầm trong kỷ nguyên phát triển mới.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy định của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực báo chí. Cần thiết có nghị quyết chuyên đề của Trung ương về công tác báo chí trong tình hình mới nhân dịp báo chí cách mạng Việt Nam tròn 100 năm tuổi, để tập trung sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quan trọng này, đồng thời là cơ sở định hướng cho việc thể chế hóa các quy định của pháp luật về báo chí trong giai đoạn phát triển mới. Bám sát chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan chủ quản yêu cầu các cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí kiến tạo để mở ra các không gian mới cho báo chí phát triển, đồng thời siết chặt việc cấp phép thành lập các báo, tạp chí, rà soát và kiên quyết thu hồi giấy phép hoạt động đối với các cơ quan báo chí vi phạm quy định pháp luật, thương mại hóa hoạt động báo chí, hoạt động không đúng chức năng, nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích. Tổng kết việc thực hiện Quy hoạch quản lý và phát triển báo chí đến năm 2025, kịp thời đúc rút những quy định của quy hoạch bộc lộ sự bất cập, để điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Chú trọng hoàn thiện pháp luật về quản lý các phương tiện truyền thông mới, các phương tiện truyền thông xã hội, xây dựng không gian mạng lành mạnh, tích cực, ngày càng định hình tinh thần thượng tôn pháp luật và thực hành phổ biến văn hóa ứng xử trên không gian mạng. Sửa đổi Luật Báo chí năm 2016 cho phù hợp với yêu cầu, bối cảnh phát triển mới của báo chí nước ta, trong đó cần có những đổi mới mang tính đột phá về mô hình tổ chức - quản lý, cơ chế kinh tế truyền thông... mở đường cho nền báo chí nước ta phát triển.
Thứ năm, có cơ chế, chính sách đầu tư bằng các hình thức khác nhau tạo sự phát triển mạnh mẽ, đột phá của các cơ quan báo chí trọng điểm của Đảng, của quốc gia, có vị trí chính trị quan trọng hoặc có quy mô, tiềm lực mạnh, từng bước hình thành một số tập đoàn truyền thông trọng điểm quốc gia, là những trụ cột thông tin, có vai trò là đầu kéo của nền báo chí, có năng lực hợp tác, đối trọng thông tin bình đẳng với các tập đoàn truyền thông quốc tế, làm chủ được thị trường thông tin trong nước, nòng cốt giữ vững an ninh thông tin quốc gia, trận địa tư tưởng chính trị.
Như vậy, tính chính trị, mà đỉnh cao là tính đảng, là phẩm chất, nguyên tắc, hơn nữa là mục đích tồn tại và hoạt động, là sứ mệnh và niềm tự hào của báo chí cách mạng Việt Nam. 100 năm ra đời và phát triển, báo chí cách mạng Việt Nam luôn giữ vững và không ngừng nâng cao tính chính trị, đã làm tròn sứ mệnh và bổn phận của mình, thực sự là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng.
PGS.TS Lê Hải Bình[i]
[i] Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
[1], [2] Dẫn theo “Tạp chí Đỏ”, ngày 17/5/2011, http://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/ nghien-cuu/-/2018/1435/tap-chi-do.aspx.
[3] C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t.19, tr.33.