Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phụ nữ và giải phóng phụ nữ, trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng công tác phụ nữ, luôn lấy mực tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ và tạo thể chế để phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị và công việc quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Nam nữ bình quyền”[1] là một trong những nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Điều này đuợc ghi nhận trong “Chánh cương vắn tắt của Đảng” năm 1930. Cương lĩnh cũng nêu rõ giải phóng phụ nữ phải gắn với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết về “Phụ nữ vận động”. Nghị quyết nêu rõ: Phụ nữ Đông Dương chiếm một phần lớn trong giai cấp vô sản và đóng vai trò quan trọng trong quá trình đấu tranh cách mạng. Nghị quyết chỉ rõ: “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào những cuộc tranh đấu cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được”[2].
Có thể nói, ngay trong những năm đầu sau khi ra đời, Đảng đã đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trên cơ sở đó, công tác vận động phụ nữ ngày càng được nhận thức rõ hơn và đẩy mạnh hơn. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó phụ nữ Việt Nam đóng góp vai trò xứng đáng.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng do nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình, phụ nữ Việt Nam đã tích cực tham gia sản xuất cũng như tham gia trên khắp các mặt trận ở tiền tuyến phục vụ chiến đấu và trực tiếp chiến đấu giành độc lập cho dân tộc. Ngay trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 152-NQ/TW ngày 10/01/1967 về "Một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận" chỉ rõ: "Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sắc trong một số cán bộ, đảng viên, kề cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ tư tưởng hẹp hòi, “trọng nam khinh nữ”, chưa tin vảo khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết những khó khăn trở ngại của phụ nữ. Do đó công tác phụ vận càng trở thành nhiệm vụ quan trọng. “Các cấp, các ngành và cơ quan nhà nước phải làm tốt công tác phụ vận: một mặt động viên được hết mọi khả năng của phụ nữ đóng góp cho cách mạng, mặt khác hết sức chú ý săn sóc lợi ích phụ nữ và trẻ em, tạo điều kiện thực hiện giải phóng phụ nữ”[3].
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ mới, việc phát huy hơn nữa vị trí, vai trò của các tầng lớp phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân ta đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi lớn. Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ" chỉ rõ: “Nhiều cấp ủy đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em...".
Để tăng cường công tác cán bộ nữ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Đảng trong thời kỳ mới, cần thực hiện một số nhiệm vụ, biện pháp: 1). Tạo nên một chuyển biến mạnh mẽ về quan điểm nhận thức đối với vấn đề cán bộ nữ; 2). Phương hướng tăng cường cán bộ nữ phải được đặt trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước; 3). Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ nữ hoàn thành nhiệm vụ; 4). Đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong phụ nữ, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng phụ nữ và mở rộng nguồn cán bộ nữ, các đảng bộ cơ sở, các chi bộ phải chú ý tăng thêm tỷ lệ đảng viên nữ; 5). Thường xuyên tổ chức chỉ đạo chặt chẽ công tác cán bộ nữ[4].
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã cụ thể hóa quan điếm bình đẳng giới bằng những nghị quyết và chỉ thị về công tác phụ nữ, Cụ thể là:
Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ Chính trị về uĐổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới" (12/7/1993), mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình đẳng. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khoẻ, có kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng, có lòng nhân hậu. Nghị quyết xác định, sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác phụ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình, vì vậy, “phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[5].
Tiếp đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37-CT/TW về "Một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tinh hình mới” (16/5/1994), trong đó Đảng ta xác định rõ; "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ"[6].
Đại diện Việt Nam tham gia diễn đàn Phụ nữ, Hòa bình và Phát triển
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) chỉ rõ: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”.
Đại hội lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thày đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”.
Đặc biệt, ngày 27/4/2007, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nuớc” là Nghị quyết được ban hành sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW về công tác cán bộ nữ và trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế thế giới.
Nghị quyết nêu ra các quan điểm cơ bản của Đảng ta về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: 1). Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới; 2). Công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tầng lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, để phát triển đất nước; đồng thời chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; 3). Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng; 4). Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Từ đó, Nghị quyết đề ra mục tiêu: "Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu câu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình, Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực"[7].
Những quan điểm và mục tiêu của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình công tác vận động phụ nữ. Việc nắm bắt và vận dụng các quan điểm vào thực tế công tác tại cơ sở là yêu cầu quan trọng nhằm chăm lo cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, phấn đấu để có bình đẳng giới thực sự.
Tiếp nối quan điểm về công tác phụ nữ và vì sự tiến bộ của phụ nữ, ngày 16/3/2015, Ban Bí thư ra Thông báo kết luận số 196-TB/TW về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới” tiếp tục thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Đề án thông qua việc triển khai một số giải pháp bảo đảm thực hiện bình đẳng giới, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ và giảm khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, ngành, vùng, địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới cao.
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) một lần nữa nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân số, gia đình, chương trình hành động vì trẻ em…, đầu tư nâng cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm tổng tỷ suất sinh thay thế, giảm dần sự mất cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh…”[8]. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ra Nghị quyết số 20-NQ/TW về “Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” và Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Công tác dân số trong tình hình mới”, trong đó có những quan điểm chỉ đạo và mục tiêu cụ thể để đạt được các mục tiêu liên quan đến bình đẳng giới.
Đặc biệt, trong Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị "Về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng" đã nhấn mạnh về cơ cấu cán bộ nữ: “Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ... Cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu phải chủ động và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, đánh giá để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số vào các chức danh có cơ cấu tham gia cấp ủy khóa mới; đồng thời, có giải pháp hiệu quả chuẩn bị nguồn cán bộ cả trước mắt và lâu dài”[9].
Tầm vóc của Đại hội lần thứ XIII của Đảng là mở ra giai đoạn mới với khát vọng phát triển đất nước ở một tầm cao mới; xác định những định hướng, bước phát triển tương lai của dân tộc, không chỉ trong giai đoạn 2021-2025 mà cho cả những thập niên tới, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[10]. Đại hội đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đạt được nhiều thành tựu, có ý nghĩa lịch sử, trong đó “công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới được triển khai rộng khắp từ Trung ương tới địa phương bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng…”. Trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020, nhiều mục tiêu đã được thực hiện hiệu quả, nổi bật. Đặc biệt, Đại hội Đảng lần thứ XIII đã chỉ rõ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kĩ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liện quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”.[11] Đây chính là sự tiếp nối, phát triển quan điểm của Đảng về phụ nữ và công tác phụ nữ trong các kỳ đại hội trước, thể hiện rõ sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng đã từng được Bác Hồ khen ngợi: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”[12]; đồng thời, cũng khẳng định sự quan tâm, trách nhiệm cũng như những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước đặt ra để giải quyết các vấn đề về công tác phụ nữ trong giai đoạn hiện nay.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng định vai trò nòng cốt chính trị của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó, có Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân thông qua cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Nội dung này không chỉ là giải pháp nhằm phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội nói chung, còn định hướng để hoàn thiện thể chế thực hiện quyền công dân theo Hiến pháp 2013.
Một trong những thành công rất nổi bật của công tác lãnh đạo, chỉ đạo đại hội Đảng các cấp thời gian vừa qua là cán bộ nữ tham gia cấp ủy cả 3 cấp đều tăng về số lượng và chất lượng[13]. Trong đó, có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp này. Có được kết quả như vậy, trước hết là nhờ sự quan tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng.
Thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Những thành tựu của công cuộc đổi mới là nền tảng quan trọng giúp chúng ta củng cố niềm tin, sự quyết tâm, nỗ lực, tiếp tục thúc đẩy con đường đi lên của dân tộc. Hơn lúc nào hết, cần phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc làm động lực cho sự phát triển trong giai đoạn phát triển mới. Những thành quả của 35 sự nghiệp đổi mới, trong đó có sự đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam.
Giải phóng phụ nữ, bình đẳng nam nữ không phải bằng những phong trào mà đã trở thành chính sách, pháp luật và bằng những con số rất thuyết phục từ thực tiễn 35 năm đổi mới vừa qua. Tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngày một gia tăng, khóa sau tăng hơn khóa trước. Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp và đặc biệt là tỷ lệ nữ tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp ngày càng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Các chủ doanh nghiệp là nữ cũng ngày càng khẳng định được vị thế trong sự phát triển chung của đất nước, hình ảnh của phụ nữ Việt Nam trong các diễn đàn khu vực và thế giới ngày càng được khẳng định.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, phụ nữ Việt Nam đã có những cống hiến, đóng góp to lớn, góp phần xây dựng và bảo vệ non sông gấm vóc của Tổ quốc, tạo dựng nên truyền thống vẻ vang: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Trong thời kỳ dổi mới đất nước, chính những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam đang góp phần vào khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế” như bây giờ. Phụ nữ Việt Nam luôn có ý thức giữ gìn, phát huy truyền thống của dân tộc, chủ động, sáng tạo hưởng ứng các phong trào thi đua của đất nước và của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, chăm lo, vun đắp hạnh phúc gia đình, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống. Họ càng ngày càng có vai trò, vị thế quan trọng, tham gia tích cực trong các lĩnh vực của đời sống xã hội… góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước của cả dân tộc, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, góp phần thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
TS Nguyễn Thị Mai Chi
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, Tập 2, tr.2.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, Tập 2, tr.188.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, Tập 28, tr.10.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 45, tr.156-161
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 53, tr.18.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tập 53, tr.364.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tập 66, tr.236
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.138
[9] Ban Chấp hành Trung ương, Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị “vè Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, ngày 30-5-2019, tr.6
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.112.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr 169.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 340.
[13] Cụ thể ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 2%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17% cũng tăng 2%. Đối với các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16% và tăng 3% so với nhiệm kỳ trước. Tỷ lệ nữ ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh (nhiệm kỳ 2020 - 2025) trung bình toàn quốc đạt 16% (tăng 02% so với cuối nhiệm kỳ trước), nhưng vẫn còn 28 địa phương có tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy dưới 15%, chưa đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên theo Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị. Theo: https://tcnn.vn/news/detail/49014/Ty-le-nu-uy-vien-Ban-Chap-hanh-Dang-bo-cap-tinh-trung-binh-toan-quoc-dat-16.html